Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015

Đặt vấn đề: Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học sinh hôm nay quyết định đến sức khỏe

dân tộc trong tương lai. Chăm sóc sức khỏe tâm thần (SKTT) đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát

triển trí tuệ của học sinh.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5

tỉnh thuộc miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên năm 2015.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường học

THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai.

Kết quả: Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là 14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6%.

Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chung là 17,4% và học sinh nữ là

10,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ học sinh có vấn đề và nghi ngờ có vấn đề SKTT ở khía cạnh quan

hệ xã hội là cao nhất (13,2 % và 26,5%), tiếp đến là ở khía cạnh quan hệ bạn bè (13,5% và 21,6% ). Học sinh nam

có vấn đề về quan hệ xã hội và quan hệ bạn bè cao (16,8% và 15,0%) và cao hơn học sinh nữ, khác biệt có ý nghĩa

thống kê (p<0,05); học sinh nữ có vấn đề về quan hệ bạn bè cao nhất (12,1%).

Kết luận: Nhìn chung thực trạng các vấn đề SKTT của học sinh năm 2015 tương đối cao, học sinh nam có

vấn đề SKTT cao hơn nữ. Hai nhóm rối loạn sức khoẻ tâm thần thường gặp nhất ở nghiên cứu là nhóm về giao

tiếp xã hội và quan hệ bạn bè.

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 1

Trang 1

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 2

Trang 2

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 3

Trang 3

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 4

Trang 4

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 5

Trang 5

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015 trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 3120
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015

Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 586
TỶ LỆ HIỆN MẮC CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN 
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI 5 TỈNH NĂM 2015 
Nguyễn Thị Hồng Diễm*, Chu Văn Thăng** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học sinh hôm nay quyết định đến sức khỏe 
dân tộc trong tương lai. Chăm sóc sức khỏe tâm thần (SKTT) đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát 
triển trí tuệ của học sinh. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 
tỉnh thuộc miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên năm 2015. 
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường học 
THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai. 
Kết quả: Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là 14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6%. 
Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chung là 17,4% và học sinh nữ là 
10,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ học sinh có vấn đề và nghi ngờ có vấn đề SKTT ở khía cạnh quan 
hệ xã hội là cao nhất (13,2 % và 26,5%), tiếp đến là ở khía cạnh quan hệ bạn bè (13,5% và 21,6% ). Học sinh nam 
có vấn đề về quan hệ xã hội và quan hệ bạn bè cao (16,8% và 15,0%) và cao hơn học sinh nữ, khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05); học sinh nữ có vấn đề về quan hệ bạn bè cao nhất (12,1%). 
Kết luận: Nhìn chung thực trạng các vấn đề SKTT của học sinh năm 2015 tương đối cao, học sinh nam có 
vấn đề SKTT cao hơn nữ. Hai nhóm rối loạn sức khoẻ tâm thần thường gặp nhất ở nghiên cứu là nhóm về giao 
tiếp xã hội và quan hệ bạn bè. 
Từ khóa: vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh 
ABSTRACT 
PREVALENCE OF MENTAL HEALTH PROBLEMS AMONG SECONDARY SCHOOL STUDENTS 
IN 5 PROVINCES IN VIETNAM IN 2015 
Nguyen Thi Hong Diem, Chu Van Thang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 586 – 591 
Background: Students are the future of the country, today's students' health determines future national 
health. Mental health care plays an extremely important role in the intellectual development of students. 
Objectives: To determine the prevalence of mental health problems among secondary school students in 5 
provinces of the North, Central, South and Central Highlands in 2015. 
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 6,639 students of 20 secondary schools in 
Vinh Phuc, Ha Nam, Binh Dinh, An Giang and Gia Lai. 
Results: The percentage of students with general mental health manifestations was 14.0%; students 
suspected of having mental health problems was 15.6%. Gender analysis shows that the proportion of male 
students with general mental health problems was 17.4% and the proportion in female students was 10.8%, the 
difference was statistically significant. The rates of students having and suspected of having mental health 
problems in social relationship were the highest (13.2% and 26.5%, respectively), followed by in friend 
*Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế Trường Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: hongdiemmoh@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 587
relationship (13.5 % and 21.6%, respectively). The rates of male students with social and friend relationship 
problems were high (16.8% and 15.0%, respectively), which were higher than those of female students, the 
differences were statistically significant (p <0.05). The rate of female students with friend relationship problems 
was the highest (12.1%). 
Conclusions: In general, the prevalence of metal health problems among secondary school students in 2015 
was relatively high, which was partly due to the development of the society. The two most common groups of 
mental health disorders in the research were social and friend relationships. 
Keywords: mental health problems of students 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sức khỏe tâm thần (SKTT) là một trạng thái 
không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần 
mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn 
thoải mái, vui tươi yêu đời. 
Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe 
của học sinh hôm nay quyết định đến khuynh 
hướng sức khỏe dân tộc trong tương lai. Để 
tương lai được bền vững thì chúng ta phải tạo 
điều kiện cho các em phát triển hài hòa, toàn 
diện về cả thể chất lẫn tâm thần. Chăm sóc SKTT 
tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ, tăng 
cường khả năng cân bằng tâm lý, tình cảm, thích 
nghi với môi trường sống, với các mối quan hệ 
gia đình, bạn bè và xã hội. Sức khỏe tâm thần có 
vấn đề sẽ dẫn đến rối loạn hành vi, mất kiểm 
soát và có những hành vi sai lệch gây ảnh hưởng 
đến cá nhân, gia đình và xã hội. 
Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi vị thành 
niên, đây là giai đoạn chuyển tiếp của sự phát 
triển từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành, giai 
đoạn nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý. Những 
thay đổi này vừa phức tạp, vừa đột biến. Ở giai 
đoạn này, các em phải chịu nhiều tác động tâm 
lý từ chính bản thân do sự phát triển của cơ thể, 
đồng thời chịu tác động rất nhiều từ bên ngoài 
như các mối quan hệ xã hội, gia đình, nhà 
trường. Các tác động ấy gây ra nhiều thay đổi 
trong tâm tư, tình cảm của các em, nếu những 
thay đổi đó không được kiểm soát sẽ gây ra 
những rối loạn tâm lý cho trẻ. 
Việt Nam đang trong quá trình phát triển hội 
nhập quốc tế, kinh tế - xã hội biến đổi nhanh, lối 
sống gấp gáp, điều này đã dẫn đến các hậu quả 
nghiêm trọng. Các bậc phụ huynh không còn 
thời gian để quan tâm đến tâm lý của trẻ. Áp lực 
học tập, thi cử cũng như các mối quan hệ khác 
giới khiến cho trẻ luôn bị căng thẳng. Tất cả 
những điều trên đều ảnh hưởng đến sức khỏe 
tâm thần của trẻ, đặc biệt là đối với lứa tuổi dậy 
thì, lứa tuổi đang có những thay đổi tâm sinh lý 
đặc biệt. 
Sức khỏe tâm thần học đường hiện nay vẫn 
là chủ đề mới, sự  ... cụ thu thập số liệu 
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học 
sinh để tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến 5 
vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em. 
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and Difficulties 
Questionnaire 25 items) do Robert Goodman 
thuộc Viện Tâm thần London xây dựng(6). Bảng 
hỏi SDQ được dùng để đánh giá vấn đề SKTT 
dựa trên 5 hình thái: vấn đề SKTT trong biểu 
hiện cảm xúc, biểu hiện hành vi, biểu hiện sự 
tăng động, khó khăn trong quan hệ xã hội và 
quan hệ bạn bè. Tổng điểm để đánh giá 5 hình 
thái SKTT trên được tính từ 0-10 điểm. Tổng số 
điểm từ 4-10 điểm là có vấn đề SKTT, riêng hình 
thái quan hệ xã hội tổng điểm từ 0-4 điểm là có 
vấn đề SKTT; tổng số điểm từ 16-40 được đánh 
giá là có vấn đề SKTT chung (tính tổng điểm 20 
câu, không tính điểm giao tiếp xã hội). Tại Việt 
Nam, bộ câu hỏi SDQ cũng được sử dụng rộng 
rãi trong các nghiên cứu như nghiên cứu “Khảo 
sát sức khỏe tâm thần học sinh trường học Hà 
Nội” do Ngô Thanh Hồi - Bệnh viện Tâm thần 
Ban ngày Mai Hương thực hiện(3) và nhiều 
nghiên cứu khác. Như vậy, sử dụng bảng hỏi 
SDQ 25 để đánh giá SKTT học sinh là hoàn toàn 
khả thi và phù hợp. Do đó trong nghiên cứu này 
chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi SDQ dành cho học 
sinh tự điền. Cách đánh giá cụ thể như sau: 
Bảng hỏi SDQ 25 để đánh giá SKTT học sinh 
về 5 khía cạnh (Bảng 1): 
Biểu hiện cảm xúc: Buồn rầu, thất vọng, cáu 
gắt, tức giận, suy nhược, sợ hãi, lo lắng, mất 
quan tâm thích thú, ngại giao tiếp bạn bè (câu 3; 
8; 13; 16; 24). 
Biểu hiện hành vi: Mất tự chủ, mất trật tự, 
vi phạm nội quy, bỏ học, gây hấn (câu 5; 7; 12; 
18; 22). 
Biểu hiện sự tăng động của trẻ: Căng thẳng, 
bồn chồn, luôn ngọ nguậy, hấp tấp, không thể 
tập trung chú ý để làm một việc gì đến nơi đến 
chốn (câu 2; 10; 15; 21; 25). 
Khó khăn trong quan hệ bạn bè: Cách biệt, 
thích một mình, ít quan hệ, thiếu hòa hợp, không 
được các bạn yêu mến (câu 6; 11; 14; 19; 23). 
Khó khăn trong quan hệ xã hội: Không thân 
ái thân thiện, không tình nguyện, không chia sẻ, 
không giúp đỡ mọi người, bàn quan vô cảm với 
xung quanh (câu 1; 4; 9; 17; 20). 
Tiêu chí đánh giá 
Đánh giá kết quả theo thang điểm SDQ có 3 
cách lựa chọn: 
Không đúng = 0 điểm. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 589
Đúng một phần = 1 điểm. Các câu đúng một 
phần đều được cho 1 điểm, riêng câu 7, 11, 14, 
21, 25 trên thang SDQ sẽ thay đổi: không đúng=2 
điểm, chắc chắn đúng = 0 điểm. 
Chắc chắn đúng = 2 điểm. 
Đánh giá sức khỏe tâm thần chung: Tính 
tổng điểm 20 câu, không tính điểm giao tiếp xã 
hội. Tổng điểm các vấn đề SKTT được chia làm 3 
mức đánh giá: 
Bình thường: không gặp khó khăn về SKTT. 
Nghi ngờ: nghi ngờ, chưa chắc chắn. 
Có vấn đề SKTT: có khó khăn về SKTT. 
Bảng 1: Thang điểm đánh giá SKTT học sinh trên bộ 
câu hỏi SDQ 
Bình 
thường 
Nghi ngờ 
Có vấn đề 
SKTT 
SKTT chung 0 - 11 điểm 12 - 15 điểm 16 - 40 điểm 
Vấn đề cảm xúc 0 - 4 điểm 5 điểm 6 - 10 điểm 
Vấn đề hành vi 0 - 2 điểm 3 điểm 4 - 10 điểm 
Sự tăng động 0 - 5 điểm 6 điểm 7 - 10 điểm 
Quan hệ bạn bè 0 - 3 điểm 4 điểm 5 - 10 điểm 
Quan hệ xã hội 6 - 10 điểm 5 điểm 0 - 4 diểm 
Phân tích và xử lý số liệu 
Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần 
mềm Epi data 3.1 và được xử lý trên phần mềm 
Stata phiên bản 10.0. Kiểm định Chi bình 
phương (χ2) được sử dụng để tìm sự khác biệt 
giữa các nhóm, giá trị p<0,05 được xem là có ý 
nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 2: Đặc điểm của học sinh THCS (từ lớp 6 đến 
lớp 9) năm 2015 tham gia nghiên cứu (n=6.639) 
Giới tính Số lượng Tỷ lệ % 
Nam 3.233 48,7 
Nữ 3.406 51,3 
Tổng 6.639 100 
Phân bố học sinh theo giới khá đồng đều, 
nam chiếm 48,7% và nữ chiếm 51,3% (Bảng 2). 
Thực trạng các vấn đề sức khỏe tâm thần của 
học sinh THCS 
Bảng 3 cho thấy, phần lớn học sinh không có 
vấn đề về sức khỏe tâm thần chung (70,4%). Tỷ 
lệ học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6% và 
có vấn đề về SKTT chung là 14,0%. 
Bảng 3: Tỉ lệ sức khỏe tâm thần chung của học sinh 
THCS trong năm 2015 (n=6.639) 
Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ % 
Có vấn đề SKTT chung 929 14,0 
Nghi ngờ 1.036 15,6 
Bình thường 4.674 70,4 
Tổng 6.639 100 
Bảng 4: Tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học 
sinh THCS năm 2015 
 Không có 
vấn đề (%) 
Nghi ngờ 
(%) 
Có vấn đề 
(%) 
Vấn đề cảm xúc 86,6 7,0 6,4 
Vấn đề hành vi 81,4 9,8 8,8 
Vấn đề tăng động 89,5 6,5 4,0 
Quan hệ bạn bè 64,9 21,6 13,5 
Quan hệ xã hội 60,3 26,5 13,2 
Tỉ lệ học sinh nghi ngờ và có vấn đề về quan 
hệ xã hội là cao nhất (26,5% và 13,2%). Tiếp đến 
là vấn đề về quan hệ bạn bè (21,6% và 13,5%), 
vấn đề hành vi (9,8% và 8,8%). Tỉ lệ nghi ngờ và 
có vấn đề về cảm xúc và tăng động là thấp nhất, 
khoảng trên dưới 7% (Bảng 4). 
Bảng 5: Tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học 
sinh THCS theo giới năm 2015 
 Giới 
Vấn đề SKTT 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
Tổng χ
2 
(p) 
SKTT chung 
Nam 563 17,4 3.233 60,1 
(< 0,05) Nữ 368 10,8 3.406 
Vấn đề cảm 
xúc 
Nam 191 5,9 3.233 2,2 
(>0,05) Nữ 232 6,8 3.406 
Vấn đề hành 
vi 
Nam 407 12,6 3.233 112,9 
(< 0,05) Nữ 177 5,2 3.406 
Vấn đề tăng 
động 
Nam 207 6,4 3.233 95,6 
(< 0,05) Nữ 58 1,7 3.406 
Vấn đề bạn bè 
Nam 485 15,0 3.233 11,9 
(< 0,05) Nữ 412 12,1 3.406 
Vấn đề xã hội 
Nam 543 16,8 3.233 70,6 
(< 0,05) Nữ 334 9,8 3.406 
Vấn đề sức khỏe tâm thần chung ở giới nam 
cao hơn giới nữ (17,4% và 10,8%), sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. Học sinh nam có vấn đề về 
quan hệ xã hội và quan hệ bạn bè cao (16,8% và 
15,0%) và cao hơn học sinh nữ, khác biệt có ý 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 590
nghĩa thống kê; học sinh nữ có vấn đề về quan 
hệ bạn bè cao nhất (12,1%) (Bảng 5). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 
6.639 học sinh THCS ở 5 tỉnh thuộc 4 vùng 
miền. Tỉ lệ học sinh nam và nữ là tương đồng 
(48,7% và 51,3%), kết quả này phù hợp với đặc 
điểm đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu 
trước đây như nghiên cứu Đào Thị Tuyết (nam 
51,8, nữ 48,2%)(1). 
Thực trạng vấn đề SKTT ở học sinh THCS năm 
2015 
Vấn đề SKTT chung 
Bảng 3 chỉ ra trong nghiên cứu này tỷ lệ học 
sinh có vấn đề SKTT là 14,0%, ở mức bình 
thường là 70,4%, nghi ngờ 15,6%. Phân tích theo 
giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức 
khỏe tâm thần chung là 17,4% và học sinh nữ là 
10,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả 
nghiên cứu của các nghiên cứu trước đây. 
Nghiên cứu ở Anh năm 2003 chỉ ra rằng tỉ lệ 
chung trẻ em bị rối loạn tâm thần khoảng 15% (2). 
Theo nghiên cứu trên 2.863 hộ gia đình có trẻ em 
từ 7-17 tuổi ở Đức năm 2007 chỉ ra tỷ lệ chung 
trẻ em và vị thành niên có vấn đề sức khỏe tâm 
thần là 21,9%(5). Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Thọ 
và cộng sự báo cáo tỷ lệ học sinh từ 6-14 tuổi có 
vấn đề SKTT ở các dạng khác nhau từ 10,4% - 
24,3%(4). Nghiên cứu này có kết quả tương 
đương với nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan tại 
trường THCS Cầu Giấy năm 2011 cho thấy tỷ lệ 
học sinh nam có vấn đề SKTT là cao hơn nữ giới 
15,8% và 11,4%(9). 
Các vấn đề SKTT được đánh giá trên thang 
SDQ 
Bảng 4 cho thấy vấn đề SKTT được chia 
thành 5 nhóm: Nhóm có tỷ lệ thấp nhất là nhóm 
có vấn đề SKTT trong biểu hiện tăng động 4,0%, 
biểu hiện cảm xúc là 6,4% và hành vi là 8,8%. 
Vấn đề cảm xúc như buồn rầu, thất vọng, lo 
lắng, thờ ơ với xung quanh, ít giao tiếp. Trẻ có 
vấn đề cảm xúc cũng ảnh hưởng đến sức khỏe 
thể chất và sự tiếp thu kiến thức văn hóa, kiến 
thức xã hội kém. Kết quả nghiên cứu này thấp 
hơn nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan 
(14,07%)(9). Trong nhóm có vấn đề SKTT trong 
biểu hiện cảm xúc: nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam 
tương ứng là 6,8% và 5,9%. Kết quả này phù hợp 
với các nghiên cứu khác, vấn đề cảm xúc ở nữ 
thường cao hơn nam. Điều này lý giải ở mỗi giai 
đoạn phát triển, tâm sinh lý của các em cũng 
thay đổi. Bước vào lứa tuổi dậy thì, học sinh nữ 
tuổi dậy thì sớm hơn nam nên biểu hiện cảm xúc 
cũng có khác nhau. 
Vấn đề biểu hiện hành vi thể hiện như càn 
quấy, cư xử hung hãn với người khác hoặc động 
vật, phá hoại tài sản, ăn cắp, nói dối, hỗn láo với 
người lớn, bỏ nhà đi. Tỉ lệ có vấn đề biểu hiện 
hành vi trong nghiên cứu này là 8,8%, kết quả 
nghiên cứu thấp hơn kết quả của Ngô Thanh 
Hồi (9,23%)(3) và thấp hơn nghiên cứu của Vũ 
Thị Hoàng Lan (17,4%)(9). Trong nghiên cứu này 
tỷ lệ học sinh có vấn đề biểu hiện hành vi ở nam 
là 12,6% cao hơn so với nữ (5,2%). Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan 
(nam: 24,1%, nữ: 10,2%). Tỷ lệ học sinh có vấn đề 
biểu hiện hành vi cao như vậy cho ta thấy thực 
trạng vấn đề bạo lực học đường thời gian gần 
đây gia tăng đáng kể, chính vì vậy ngành giáo 
dục nên xem xét đến việc đưa giáo dục kỹ năng 
sống vào trong chương trình học. Các bài học đó 
sẽ góp phần giúp các em chế ngự được cảm xúc, 
hành vi trong môi trường nhà trường, gia đình. 
Vấn đề quan hệ xã hội thể hiện khi trẻ ít tiếp 
xúc với môi trường xung quanh, thờ ơ, vô cảm 
với mọi người, không chia sẻ, giúp đỡ hay tình 
nguyện tham gia các hoạt động. Tỷ lệ có vấn đề 
về mối quan hệ xã hội trong nghiên cứu này 
chiếm cao 13,2%, trong đó nam có vấn đề về 
quan hệ xã hội cao nhất trong 5 nhóm và cao 
hơn nữ (16,8% và 9,8%), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao 
hơn kết quả của Ngô Thanh Hồi (7,6%)(3). 
Nhóm có vấn đề trong quan hệ bạn bè là 
13,5% kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 591
Nguyễn Văn Thọ (4,8%)(4) và thấp hơn nghiên 
cứu của Vũ Thị Hoàng Lan (25,4%)(9). Trong đó 
nhóm có vấn đề SKTT trong quan hệ bạn bè nam 
chiếm 16,8% và cũng cao hơn nữ (12,1%). Điều 
đáng chú ý là tỷ lệ hai nhóm có vấn đề về quan 
hệ bạn bè và có vấn đề về quan hệ xã hội là cao. 
Các thang điểm dùng để đánh giá quan hệ bạn 
bè và quan hệ xã hội nhằm đánh giá thái độ, 
hành vi tự nguyện của học sinh trong mối quan 
tâm, chia sẻ, giúp đỡ và cư xử tốt với bạn bè. Tỷ 
lệ cao của hai rối loạn này có thể được giải thích 
bởi thực trạng hiện tại gia đình cha mẹ quá tập 
trung vào việc dạy văn hóa cho học sinh, làm 
tăng áp lực học hành, cũng như quản lý quá chặt 
chẽ của gia đình dẫn đến thiếu sự đầu tư vào 
việc bồi dưỡng kỹ năng sống cho trẻ, mở rộng 
các mối quan hệ xã hội cho học sinh(8). 
Nghiên cứu của chúng có kết quả có thấp 
hơn với kết quả điều tra thực trạng tâm thần của 
một số nghiên cứu trước. Điều đáng chú ý ở 
nghiên cứu này là hai nhóm rối loạn sức khoẻ 
tâm thần thường gặp nhất là nhóm quan hệ 
nhóm bạn và giao tiếp xã hội. Thang điểm đánh 
giá quan hệ nhóm bạn và giao tiếp xã hội nhằm 
đánh giá hành vi tự nguyện, thái độ của trẻ, mối 
quan hệ và giao tiếp trong xã hội, sự quan tâm 
chia sẻ, giúp đỡ và cư xử với bạn bè. Tỉ lệ rối 
loạn ở hai nhóm này cao được giải thích là bởi vì 
hiện nay cha mẹ qua tập trung vào dạy văn hoá, 
làm sao cho con học giỏi tiến bộ gây áp lực nặng 
về học tập cho học sinh, đồng thời việc quản lý 
quá chặt của gia đình dẫn đến thiếu đầu tư vào 
bồi dưỡng kỹ năng sống cho trẻ, không mở rộng 
mối quan hệ bạn bè, tạo sân chơi vui chơi cho trẻ 
rèn luyện. Nhìn chung, thực trạng các vấn đề 
SKTT của học sinh năm 2015 còn tương đối cao, 
do sự phát triển của xã hội ảnh hưởng lớn đến 
vấn đề tinh thần, tâm thần của trẻ. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là 
14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 
15,6%. Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh 
nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chung là 
17,4% và học sinh nữ là 10,8%, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê. 
Tỉ lệ học sinh có vấn đề và nghi ngờ có vấn 
đề SKTT ở khía cạnh quan hệ xã hội là cao nhất 
(13,2 % và 26,5%), tiếp đến là ở khía cạnh quan 
hệ bạn bè (13,5% và 21,6% ). 
Học sinh nam có vấn đề về quan hệ xã hội và 
quan hệ bạn bè cao (16,8% và 15,0%) và cao hơn 
học sinh nữ, khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05); học sinh nữ có vấn đề về quan hệ bạn 
bè cao nhất (12,1%). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Thị Tuyết (2014). Thực trạng SKTT và các yếu tố liên quan 
của học sinh trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, 
Hà Nội năm 2014. Luận văn Thạc sĩ Y tế Công cộng, Đại học Y tế 
công cộng. 
2. Meltzer H, et al (2003). Mental health of children and 
adolescents in Great Britain. Int Rev Psychiatry. 15(1-2):185-7. 
3. Ngô Thanh Hồi, Trần Thị Hồng Thu (2010). Khảo sát sức khỏe 
tâm thần học sinh trường học thành phố Hà Nội. Tạp chí Y học 
thực hành, 8(730):44-48. 
4. Nguyễn Văn Thọ (2010). Khảo sát các vấn đề sức khỏe tâm thần 
học sinh cơ sở cơ sở tại thành phố Biên Hòa. Tạp chí Y học Quân 
sự, 35(3):33-37. 
5. Ravens-Sieberer U, et al (2007). Mental health of children and 
adolescents in Germany. Results from the BELLA study within 
the German Health Interview and Examination Survey for 
Children and Adolescents (KiGGS). Bundesgesundheitsblatt 
Gesundheitsforschung Gesundheitsschutz, 50(5-6):871-8. 
6. Robert Goodman (1997). Scoring the Self-Report Strengths and 
Difficulties Questionnaire. Institute of Psychiatry London. 
7. Tran Tuan, Trudy Harpham và Nguyen Thu Huong (2005). 
Measuring social capital and mental health in Viet Nam: A 
validity study Young Lives- An International Study on 
Childhood Poverty, No. 12. Working Paper, London. 
8. Vitolo YLC, et al (2005). Parental beliefs and child- rearing 
attitudes and mental health problem among school childen. Rev 
Saude Publica, 39(5):716-724. 
9. Vũ Thị Hoàng Lan, Lương Ngọc Khuê và Nguyễn Thị Thúy 
Anh (2011). Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên 
quan ở trường THCS Cầu Giấy Hà Nội. Tạp chí Y dược học Quân 
sự, 5:78-86. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfty_le_hien_mac_cac_van_de_suc_khoe_tam_than_hoc_sinh_trung_h.pdf