Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5a tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định
Đặt vấn đề: Bệnh nhân xem lời khuyên cai thuốc lá từ nhân viên y tế là động lực quan trọng giúp họ cai
thuốc lá. Tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A được chứng minh là khả thi có hiệu quả. Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn cai
thuốc lá 5A tại Việt Nam chưa được nghiên cứu.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 bệnh nhân tại bệnh viện Nhân
Dân Gia Định về tỷ lệ được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A.
Kết quả: 49,5% bệnh nhân nội trú, 58,5% bệnh nhân ngoại trú được hỏi tình trạng hút thuốc lá. Có
68,1% bệnh nhân nội trú và 91,3% bệnh nhân ngoại trú được khuyên cai (p <0,001), có 50,7% bệnh nhân
nội trú và 58,8% bệnh nhân ngoại trú được đánh giá quyết tâm cai, 31,9% bệnh nhân nội trú và 52,5%
bệnh nhân ngoại trú được hỗ trợ cai (p = 0,011); 17,4% bệnh nhân nội trú và 50% bệnh nhân ngoại trú
được sắp xếp cai (p <0,001).
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định thấp hơn kỳ
vọng của hướng dẫn quốc gia tư vấn cai thuốc lá. Tỷ lệ bệnh nhân nội trú được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A thấp
hơn bệnh nhân ngoại trú.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5a tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 128 TỶ LỆ BỆNH NHÂN ĐƯỢC TƯ VẤN NGẮN CAI THUỐC LÁ 5A TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH Lê Khắc Bảo* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bệnh nhân xem lời khuyên cai thuốc lá từ nhân viên y tế là động lực quan trọng giúp họ cai thuốc lá. Tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A được chứng minh là khả thi có hiệu quả. Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn cai thuốc lá 5A tại Việt Nam chưa được nghiên cứu. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 bệnh nhân tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định về tỷ lệ được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A. Kết quả: 49,5% bệnh nhân nội trú, 58,5% bệnh nhân ngoại trú được hỏi tình trạng hút thuốc lá. Có 68,1% bệnh nhân nội trú và 91,3% bệnh nhân ngoại trú được khuyên cai (p <0,001), có 50,7% bệnh nhân nội trú và 58,8% bệnh nhân ngoại trú được đánh giá quyết tâm cai, 31,9% bệnh nhân nội trú và 52,5% bệnh nhân ngoại trú được hỗ trợ cai (p = 0,011); 17,4% bệnh nhân nội trú và 50% bệnh nhân ngoại trú được sắp xếp cai (p <0,001). Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định thấp hơn kỳ vọng của hướng dẫn quốc gia tư vấn cai thuốc lá. Tỷ lệ bệnh nhân nội trú được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A thấp hơn bệnh nhân ngoại trú. Từ khóa: tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A ABSTRACT PREVALENCE OF PATIENTS RECEIVING BRIEF CONSULTATION 5A FOR SMOKING CESSATION Le Khac Bao * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 128 - 132 Background: Patients consider the advice for smoking cessation from healthcare professionals as their key motivation to quit smoking. Brief consultation 5A for smoking cessation has been shown feasible and effective. The prevalence of patients receiving brief consulation 5A for smoking cessation has not been studied in Vietnam. Objective: Determines the prevalence of patients at Nhan Dan Gia Dinh receiving brief consultation 5A for smoking cessation. Methods: Cross-sectional study at Nhan Dan Gia Dinh hospital on 400 patients about their prevalence receiving brief consultation 5A for smoking cessation. Results: The prevalence of inpatients whom are asked about smoking status by physicians is 49.5% vs 58.5% in outpatients (p=0.071). The prevalence of inpatients whom are advised to quit smoking by physicians is 68.1% vs 91.3% in outpatients (p <0.001); whom are assessed about their willingness to quit smoking is 50.7% vs 58.8% in outpatients (p=0.326); whom are assisted to quit smoking is 31.9% vs 52.5% in outpatients (p=0.011); whom are arranged to quit smoking is 17.4% vs 50% in outpatients (p <0.001). Conclusion: The prevalence of patients receiving brief consulation 5A for smoking cessation at Nhan Dan Gia Dinh hospital is lower than expected by Vietnam National guidelines on smoking cessation. The prevalence of *Bộ môn Nội – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Khắc Bảo ĐT: 0908888702 Email: lekhacbao@ump.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 129 inpatients receiving 5A brief consultation to quit smoking is lower than that of outpatients. Key words: 5A brief consultation to quit smoking ĐẶT VẤN ĐỀ Hút thuốc lá là gánh nặng trong sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam(1). Nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong giảm nhẹ gánh nặng này vì bệnh nhân xem lời khuyên cai thuốc lá từ nhân viên y tế là động lực quan trọng giúp họ cai thuốc lá. Tư vấn ngắn 5A chỉ mất khoảng 3 phút song đã được chứng minh có hiệu quả giúp giảm đáng kể tỷ lệ hút thuốc lá(2). Tháng 12/2018, Bộ Y tế Việt Nam đã công bố hướng dẫn quốc gia tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá, trong đó nhấn mạnh mọi bệnh nhân đến cơ sở y tế đều phải được nhân viên y tế tư vấn ngắn cai nghiện thuốc lá 5A(3). Bệnh viện Nhân Dân Gia Định đã triển khai tập huấn tư vấn ngắn cai nghiện thuốc lá 5A trong thời gian vừa qua. Chúng tôi giả thiết rằng bệnh nhân nằm viện nội trú là đối tượng có nguy cơ cao hơn bị tác hại của thuốc lá so với bệnh nhân khám ngoại trú, và dân số mạnh khỏe bên ngoài; bên cạnh đó, bác sỹ điều trị nội trú sẽ có nhiều thời gian tiếp xúc bệnh nhân, từ đó sẽ tư vấn cai thuốc lá 5A cho bệnh nhân điều trị nội trú nhiều hơn là bác sỹ điều trị ngoại trú tư vấn cai thuốc lá 5A cho bệnh nhân ngoại trú. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ bệnh nhân nội trú và ngoại trú tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân nội trú và ngoại trú >18 tuổi tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định có thể hiểu và trả lời câu hỏi của người nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang Cỡ mẫu Dùng công thức tính cỡ mẫu trên dân số: n = Z21-α/2 p (1-p)/ d2 Với: n là cỡ mẫu tối thiểu. Z 1- /2 là hệ số tương ứng với khoảng tin cậy 95%, = 5%, p là tỷ lệ cần xác định, d là độ chính xác mong muốn=5%. Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A tại Việt Nam chưa từng được biết vì thế để đảm bảo tính chính xác, chúng tôi chọn p dự đoán=50%. Cỡ mẫu tối thiểu sẽ là 385 bệnh nhân. Bộ câu hỏi thu thập dữ liệu Phiếu thu thập số liệu khảo sát tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn 5A. Tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định Số phiếu: Khoa phòng: Ngày khảo sát: Bảng 1: Bộ câu hỏi thu thập dữ liệu Bác sỹ có hỏi ông, bà có hút thuốc lá hay không? Có Không Nếu ông bà có hút thuốc lá xin trả lời tiếp các câu hỏi 2 – 5 Bác sỹ có khuyên ông, bà cai thuốc lá không? Có Không Bác sỹ có hỏi ông, bà muốn cai thuốc lá không? Có Không Bác sỹ có đề nghị hỗ trợ ông, bà cai thuốc lá không? Có Không Bác sỹ có hướng dẫn ông, bà đi tư vấn cai thuốc lá không? Có Không Người thu thập dữ liệu 20 nghiên cứu viên được tập huấn trước để có thể dùng cùng bộ câu hỏi, hỏi bệnh nhân cùng một cách và ghi nhận cùng một kết quả nhằm đảm bảo độ tin cậy của kết quả nghiên cứu. Thu thập và phân tích dữ liệu Vào cùng một thời điểm thu thập số liệu, 20 nghiên cứu viên được phân đều vào các khoa phòng trong toàn bệnh viện, mỗi nghiên cứu viên thu thập 10 bệnh nhân nội trú và 10 bệnh nhân ngoại trú đầu tiên nghiên cứu viên gặp trong khu vực phụ trách. Nếu bệnh nhân từ chối trả lời, nghiên cứu viên bỏ qua và hỏi bệnh nhân Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 130 nối tiếp. Số liệu thu thập được lưu và xử lý bởi phần mềm STATA 14.1. Tỷ lệ được báo cáo gồm tỷ lệ bệnh nhân hiện đang hút thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân được khuyên cai thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân được đánh giá quyết tâm cai thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân được đề nghị hỗ trợ cai thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân được sắp xếp đi tư vấn cai thuốc lá. So sánh các tỷ lệ này ở bệnh nhân nội trú và ngoại trú, sử dụng phép kiểm 2, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p <0,05. KẾT QUẢ So với bệnh nhân không hút thuốc lá, tỷ lệ bệnh nhân có hút thuốc lá được hỏi về tình trạng hút thuốc lá cao hơn có ý nghĩa thống kê ở cả nhóm bệnh nhân nội trú (89,9% so với 28,2%, p <0,001) và ngoại trú (96,3% so với 33,3%, p <0,001). Tỷ lệ đang hút thuốc lá trong nhóm bệnh nhân nội trú là 34,5% và ngoại trú là 40%. Tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá là 49,5% và 58,5% ở nội trú và ngoại trú (Bảng 2). Tỷ lệ rất cao bệnh nhân đang hút thuốc lá nội trú và ngoại trú được hỏi tình trạng hút thuốc lá lần lượt là 89,9% và 96,3%, so với tỷ lệ rất thấp bệnh nhân không hút thuốc lá nội trú và ngoại trú được hỏi về tình trạng hút thuốc lá lần lượt là 28,2% và 33,3% (Bảng 3). Tỷ lệ bệnh nhân nội trú đang hút thuốc lá được khuyên cai thuốc lá là 68,1%, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ 91,3% ở ngoại trú. Tỷ lệ bệnh nhân được bác sỹ đề nghị hỗ trợ cai thuốc lá và sắp xếp cho đi tư vấn cai nghiện thuốc lá lần lượt là 31,9% và 17,4% đều thấp hơn tỷ lệ tương ứng ở ngoại trú là 52,5% và 50% (Bảng 4). Bảng 2: Tỷ lệ hút thuốc lá và được hỏi tình trạng hút thuốc tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định Nội trú n = 200 Ngoại trú n = 200 p Tỷ lệ bệnh nhân đang hút thuốc lá 34,5% (27,9% – 41,1%) 40% (33,2% – 46,8%) 0,225 Tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá 49,5% (42,5% – 56,5%) 58,5% (51,6% – 65,4%) 0,071 Bảng 3: Tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá phân bố theo tình trạng hút thuốc lá Nội trú Ngoại trú p Bệnh nhân đang hút thuốc 89,9% (n = 69) (82,7% – 97,1%) 96,3% (n = 80) (92% – 100%) 0,120 Bệnh nhân đang không hút thuốc 28,2% (n =131) (20,5% – 36%) 33,3% (n = 120) (24,8% – 41,8%) 0,635 Bảng 4: Tỷ lệ bệnh nhân đang hút thuốc lá được tư vấn 5A tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định Nội trú (n = 69) Ngoại trú (n = 80) p Tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá 89,9% (82,7% – 97,1%) 96,3% (92% – 100%) 0,120 Tỷ lệ bệnh nhân được khuyên cai thuốc lá 68,1% (56,9% – 79,3%) 91,3% (85% – 97,5%) <0,001 Tỷ lệ bệnh nhân được đánh giá ý muốn cai thuốc lá 50,7% (38,7% – 61,3%) 58,8% (47,8% – 69,7%) 0,326 Tỷ lệ bệnh nhân được hỗ trợ cai thuốc lá 31,9% (20,7% – 43,1%) 52,5% (41,4% – 63,6%) 0,011 Tỷ lệ bệnh nhân được sắp xếp cai thuốc lá 17,4% (8,3% – 26,5%) 50% (38,9% – 61,1%) <0,001 BÀN LUẬN Tỷ lệ đang hút thuốc lá trong nhóm bệnh nhân nội trú là 34,5% và ngoại trú là 40%. Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ hút thuốc lá trong dân số chung tại Việt Nam là 22,5%(1). Hút thuốc lá là nguyên nhân gây bệnh quan trọng, tỷ lệ mắc bệnh trên người hút thuốc lá sẽ cao hơn trên người không hút thuốc lá. Kết quả nghiên cứu này một lần nữa minh họa liên quan giữa hút thuốc lá và bệnh. Tỷ lệ bệnh nhân đang hút thuốc lá trong nhóm bệnh nhân nội trú và ngoại trú không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Kết quả này trái ngược với kỳ vọng thông thường là khi bệnh nặng hơn, bệnh nhân sẽ tự bỏ thuốc lá. Hút thuốc lá không chỉ là thói quen mà là nghiện chất với mã số bệnh tật F.17(2). Người nghiện thuốc lá vẫn hút thuốc lá dù biết thuốc lá gây hại cho sức khỏe(2). Tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá là 49,5% và 58,5% ở nội Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 131 trú và ngoại trú. Hai tỷ lệ này là rất thấp so với yêu cầu của hướng dẫn tổ chức tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá tại Việt Nam là toàn thể bệnh nhân đến với cơ sở y tế phải được nhân viên y tế hỏi và ghi nhận lại tình trạng hút thuốc lá(3). Phân tích sâu hơn để lý giải tỷ lệ hỏi tình trạng hút thuốc lá thấp này, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ rất cao bệnh nhân đang hút thuốc lá nội trú và ngoại trú được hỏi tình trạng hút thuốc lá lần lượt là 89,9% và 96,3%, so với tỷ lệ rất thấp bệnh nhân không hút thuốc lá nội trú và ngoại trú được hỏi về tình trạng hút thuốc lá lần lượt là 28,2% và 33,3%. Về mặt logic, ghi nhận biến cố “có hay không hút thuốc lá” xảy ra sau can thiệp “hỏi tình trạng hút thuốc lá” làm cho tỷ lệ bệnh nhân được hỏi về tình trạng hút thuốc lá theo kỳ vọng là không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có kết quả ghi nhận là hút thuốc lá và nhóm không hút thuốc lá. Kết quả nghiên cứu cho thấy có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân được hỏi tình trạng hút thuốc lá giữa nhóm có và không có hút thuốc lá gợi ý sự hiện diện của một yếu tố nào đó làm sai lệch mối quan hệ giữa “hỏi tình trạng hút thuốc lá” và “tình trạng hút thuốc lá”. Chúng tôi cho rằng giới tính bệnh nhân là một yếu tố như vậy: bác sỹ sẽ luôn hỏi bệnh nhân nam về tình trạng hút thuốc lá vì tin rằng họ hút thuốc lá và sẽ không hỏi bệnh nhân nữ về tình trạng hút thuốc lá vì tin rằng họ không hút thuốc lá. Quyết định này có vẻ là phù hợp khi tỷ lệ hút thuốc lá rất thấp chỉ 1,1% ở nữ so với tỷ lệ hút thuốc lá rất cao ở nam đến 45,3% ở Việt Nam(1). Tuy nhiên, quyết định này vô tình làm cho tỷ lệ bệnh nhân được hỏi về tình trạng hút thuốc lá thấp hơn có ý nghĩa thống kê trên nhóm bệnh nhân không hút thuốc lá (chủ yếu là nữ) so với nhóm bệnh nhân đang hút thuốc lá (chủ yếu là nam). Nếu chỉ tính riêng trên nhóm bệnh nhân đang hút thuốc lá (chủ yếu là nam), bác sỹ hầu như luôn hỏi về tình trạng hút thuốc lá như đòi hỏi của khuyến cáo quốc gia về tư vấn cai thuốc lá. Tuy nhiên với xu hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, du nhập lối sống và văn hóa phương tây, tỷ lệ nữ hút thuốc lá ngày càng tăng, bác sỹ nên hỏi tình trạng hút thuốc lá ở cả bệnh nhân nam và nữ để tránh bỏ sót bệnh nhân đang hút thuốc lá. Tỷ lệ bệnh nhân nội trú đang hút thuốc lá được khuyên cai thuốc lá là 68,1%, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ 91,3% ở ngoại trú. Tương tự, tỷ lệ bệnh nhân được bác sỹ đề nghị hỗ trợ cai thuốc lá và sắp xếp cho đi tư vấn cai nghiện thuốc lá lần lượt là 31,9% và 17,4% đều thấp hơn tỷ lệ tương ứng ở ngoại trú là 52,5% và 50%. Trên thực hành lâm sàng, chúng tôi ghi nhận một số thực tế có thể giải thích cho tình trạng này. Thứ nhất, bác sỹ có thể giả định rằng bệnh nhân nội trú sẽ tự nhiên cai thuốc lá do bệnh của họ đã nặng rồi, do đó bác sỹ không cần khuyên nhủ, hỗ trợ, hay sắp xếp cho đi tư vấn cai thuốc lá nữa. Thứ hai, bác sỹ có thể cho rằng giải quyết tình trạng hút thuốc lá mạn tính không phải là ưu tiên so với tình trạng bệnh cấp tính làm bệnh nhân nhập viện hiện tại. Thứ ba, dịch vụ tư vấn cai nghiện thuốc lá không có sẵn trong nội trú, trong đó lại sẵn có cả một phòng tư vấn cai nghiện thuốc lá tại ngoại trú. Đề tài của chúng tôi không được thiết kết để khảo sát vấn đề này nên không thể trả lời chắc chắn lý do vì sao bệnh nhân nội trú lại được bác sỹ tư vấn cai nghiện thuốc lá 5A ít hơn hẳn ngoại trú. Đề tài chúng tôi đã nêu lên được vấn đề và gợi mở một đề tài mới để trả lời cho câu hỏi này. KẾT LUẬN Tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A còn thấp hơn yêu cầu đề ra bởi hướng dẫn quốc gia tư vấn cai thuốc lá tại Việt Nam. Tỷ lệ bệnh nhân nội trú và ngoại trú được hỏi về tình trạng hút thuốc lá là 49,5% và 58,5%; được khuyên cai thuốc lá là 68,1% và 91,3%; được đánh giá ý muốn cai thuốc lá là 50,7% và 58,8%; được đề nghị hỗ trợ cai thuốc lá là 31,9% và 52,5%; được sắp xếp đi tư vấn cai nghiện thuốc lá là 17,4% và 50%. Tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn ngắn cai thuốc lá 5A thấp hơn ở nội trú so với ngoại trú. Cần tiến hành một nghiên cứu định tính để khảo Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 132 sát lý do giải thích cho kết quả nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Van Minh H, et al (2017). Prevalence of tobacco smoking in Vietnam: findings from the Global Adult Tobacco Survey 2015. Int J Public Health, 62(S1):121-129. 2. Fiore MC, Jaén CR, Baker TB, et al (2008). Treating Tobacco Use and Dependence 2008 update. Clinical Practice Guideline Rockville, MD: US Department of Health and Human Services. 3. Bộ Y Tế (2018). Tài liệu hướng dẫn tổ chức tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá tại Việt Nam. URL: vinacosh.gov.vn›huong- dan-quoc-gia-cai-thuoc-la. Ngày nhận bài báo: 02/12/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/12/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
- ty_le_benh_nhan_duoc_tu_van_ngan_cai_thuoc_la_5a_tai_benh_vi.pdf