Tổng hợp hạt Oxide sắt từ trên bề mặt nano tinh thể Cellulose bằng phương pháp đồng kết tủa
Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành tổng hợp nano tinh thể cellulose từ tính (MGCNCs) trong một bước bằng phương pháp đồng kết tủa tạo hạt oxide sắt từ (Fe3O4) trên bề mặt nano tinh thể cellulose (CNCs).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp hạt Oxide sắt từ trên bề mặt nano tinh thể Cellulose bằng phương pháp đồng kết tủa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng hợp hạt Oxide sắt từ trên bề mặt nano tinh thể Cellulose bằng phương pháp đồng kết tủa
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 3(4):271-278 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM Liên hệ Vũ Năng An, Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM Email: vnan@hcmus.edu.vn Lịch sử Ngày nhận: 21-12-2018 Ngày chấp nhận: 21-5-2019 Ngày đăng: 21-12-2019 DOI :10.32508/stdjns.v3i4.660 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Tổng hợp hạt Oxide sắt từ trên bềmặt nano tinh thể Cellulose bằng phương pháp đồng kết tủa Vũ Năng An*, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn Thái Ngọc Uyên, Hà Thúc Chí Nhân, Lê Văn Hiếu Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành tổng hợp nano tinh thể cellulose từ tính (MGCNCs) trong một bước bằng phương pháp đồng kết tủa tạo hạt oxide sắt từ (Fe3O4) trên bề mặt nano tinh thể cellulose (CNCs). Nano tinh thể cellulose được tổng hợp thông qua quá trình thủy phân cellulose bằng acid chlohydric (HCl 6M, 25 mL/g cellulose) ở điều kiện tối ưu 90oC trong 90 phút. Cellulose cô lập từ thân cây dừa nước Việt Nam, đây là loại cây rất phổ biến ở Việt Nam. CNCs được khảo sát các tính chất như độ kết tinh, hình thái và độ bền nhiệt. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) cho thấy CNCs thu được có dạng sợi với chiều dài và đường kính trung bình lần lượt là 410 nm và 10 nm (tỷ lệ kích thước L/D = 41) và với độ kết tinh là 85,2% (xác định bằng phương pháp nhiễu xạ tia X, XRD). MGCNCs sau khi tổng hợp được khảo sát thông qua các phương pháp như phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FT-IR), nhiễu xạ tia X (XRD), phân tích nhiệt – khối lượng (TGA) và từ kế mẫu rung (VSM). Kết quả cho thấy Fe3O4 gắn trên bề mặt CNCs khoảng 51% theo khối lượng, MGCNCs có từ tính với độ bão hòa từ hóa ở khoảng 24 emu/g. Vật liệu tạo thành với mong muốn kết hợp giữa tính tương thích sinh học của CNCs cùng từ tính của Fe3O4 hứa hẹn khả năng ứng dụng của vật liệu trong lĩnh vực xử lý môi trường. Từ khoá: nano tinh thể cellulose, hạt nano từ tính, quá trình đồng kết tủa MỞĐẦU Cellulose là một trong những loại polymer thiên nhiên phổ biến nhất trên thế giới. Nanocellulose cấu trúc tinh thể (CNCs) được tổng hợp thông qua quá trình thủy phân cellulose bằng acid, có cấu trúc tinh thể dạng sợi cứng chắc với đường kính từ 1 – 100 nanomet, và chiều dài khoảng vài trăm nanomet tùy thuộc vào nguồnnguyên liệu cellulose ban đầu. CNCs có rất nhiều ưu điểm như tính năng cơ lý tốt, tỷ lệ giữa chiều dài và đường kính lớn, kích thước nanomet, tương thích sinh học và có khả năng tái tạo nên được sử dụng rộng rãi làm pha gia cường cho vật liệu com- posite nhựa nhiệt dẻo. Một trong số những ứng dụng của nanocellulose đang thu hút được sự quan tâm là sử dụng làm chất mang cho các loại xúc tác. Xúc tác gắn trên giámang nanocellulose sẽ giúp cho quá trình thu hồi và tái sử dụng dễ dàng. Hướng nghiên cứu này được tiếp cận dựa trên một số lý do như sau1: (i) nanocellulose bền nhiệt, có diện tích bề mặt cao và khả năng chức hóa bềmặt thông qua những phản ứng hóa học, (ii) các nhóm chức trên bề mặt của nanocel- lulose, chủ yếu là hydroxyl và nhóm ester sulfate, là những nhóm có khả năng khử những ion của kim loại để tạo kim loại ở kích thước nanomet, hơn nữa cấu trúc kết tinh cao và tính thủ tính của nanocellulose cũng sẽ đóng vai trò hiệu quả trong quá trình xúc tác, (iii) hệ huyền phù của nanocellulose trong nước rất bền, từ đó góp phần ổn định những xúc tác gắn trên bề mặt, và cuối cùng (iv) là nanocellulose có nguồn gốc sinh học, có khả năng phân hủy sinh học, không độc hại và có khả năng áp dụng trên quy mô công nghiệp1–3. Hiện nay, đã có khá nhiều các công bố sử dụng nanocellulose làm giá mang để tổng hợp các hạt nano kim loại như Au, Pt, Ag, Pd, Fe...4–7 bằng các phương pháp hóa học xanh, với những tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực vật liệu nanocomposite hiệu năng cao và xúc tác sinh học để làm sạchmôi trường. Cách tiếp cận này không những giúp cải thiện khả năng phân tán và bền hóa học của các hạt nano kim loại hay nano oxide kim loại mà còn giải quyết xu hướng tập hợp lại tạo vật liệu khối trong dung dịch, do các hạt nano này không bền nhiệt động học. Trên quan điểm đó, tổng hợp các hạt oxide sắt trên giámang là các polymer sinh học làmột phương pháp không những thân thiện môi trường mà còn thể hiện những tính chất nổi bật như tính chất điện, từ và quang hướng đến các ứng dụng tiềm năng như cảm biến, y sinh, dịch chuyển sóng điện từ, dẫn truyền thuốc cũng như làm xúc tác phân hủy các chất ô nhiễm độc hại. Tuy nhiên, mới chỉ có ít các công bố trên việc chế tạo các hạt oxide sắt trên nền nanocel- lulose. Chen và các cộng sự8 đã tổng hợp Fe3O4 cố Trích dẫn bài báo này: An V N, Văn Hiền N, Ngọc Uyên N T, Chí Nhân H T, Hiếu L V. Tổng hợp hạt Oxide sắt từ trên bề mặt nano tinh thể Cellulose bằng phương pháp đồng kết tủa. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 3(4):271-278. 271 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 3(4):271-278 định trên SiO2 gắn trên CNCs. Vật liệu sau đó được ghép với b -cyclodextrin nhằm sử dụng để hấp phụ dược chất. Nanocomposite thu được có cấu trúc lõi – vỏ với độ từ hóa và độ bền nhiệt cao, ngoài ra còn có dung lượng hấp phụ lớn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành tổng hợp hạt oxide sắt từ (Fe3O4) trên bề mặt nano tinh thể cellulose (CNCs) bằng phương pháp đồng kết tủa, sử dụngmuối sắt và CNCs được tổng hợp từ bẹ dừa nước Việt Nam. Vật liệu tạo thành với mong muốn kết hợp giữa tính tương thích sinh học của CNCs cùng từ tính của Fe3O4 hứa hẹn khả năng ứng dụng của vật liệu trong lĩnh vực xử lý môi trường. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Vật liệu Nguồn nguyên liệu bẹ cây dừa nước được thu gom từ khu vực đầm lầy nhiễmmặn huyện Cần Giờ - Tp. Hồ Chí Minh. NaOH, HCOOH, H2O2, HCl, NH3, cùng hai tiền chất của Fe là FeCl2.4H2OvàFeCl3.6H2Ođều là dạng t ... o 360,42oC, đồng thời lượng tro còn lại giảm đi rất nhiều còn 11,9% (Bảng 1). Kết quả khảo sát phân tích nhiệt - khối lượng củamẫuCNCs có hai giai đoạn phân hủy, bao gồm cả quá trình bay hơi nước. Giai đoạn kế tiếp sau sự mất hơi nước là quá trình giảm cấp của nano cellulose đã xảy ra, nhiệt độ phân hủy của mẫu CNCs thấp hơn mẫu cellulose có thể là do kích thước của sợi. Kích thước nhỏ làm cho diện tích bề mặt tiếp xúc với nhiệt của sợi lớn so với kích thước của sợi cellulose nên nhiệt độ phân hủy thấp hơn các mẫu trước thủy phân17. Phân tích cấu trúc tinh thể bằng giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) Theo lý thuyết, giản đồ XRD của cellulose tinh khiết sẽ bao gồm bốn mũi kết tinh tại các vị trí 2q lần lượt là 14,4o, 16,5o, 22,6o và 34,9o, ứng với các mặt phẳng (101), (10 1) (002) và (040)18. Kết quả nhiễu xạ tia X của các mẫu dừa nước thô, cellulose và CNCs được thể hiện trong Hình 3. Đỉnh cao ở 2q = 22,5 là sắc nét nhất ở CNCs, cho thấy mức độ kết tinh cao hơn trong cấu trúc của mẫu này so với các mẫu còn lại. Các quá trình tiền xử lý mẫu, xử lý HCOOH, xử lý PFA và tẩy trắng đã loại bỏ hiệu quả các thành phần hemicellulose, lignin và pectin, chỉ còn lại thành phần cellulose tinh khiết với các vùng vô định hình và kết tinh tồn tại đan xen nhau. Hơn nữa quá trình thủy phân làm cắt đứt các liên kết b -glycoside bởi các ion hydronium của acid mạnh, các ion này tấn công vào vùng vô định hình trên sợi đồng thời loại bỏ các vùng này và giữ lại những vùng có độ kết tinh cao. Kết quả là độ kết tinh của sợi tăng từ mẫu dừa nước thô đến mẫu cellulose và CNCs. Theo công thức (1) độ kết tinh của các mẫu được xác định là 57,1% đối với mẫu dừa nước thô, 78,9% đối với cellulose và 85,2% đối với CNCs. Hình3: GiảnđồXRDcácmẫu (a) dừanước thô, (b) cellulose, và (c) CNCs Phân tích ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) Kết quả ảnh hiển vi điện tử truyền qua của cellu- lose sau khi được thủy phân bằng acid chlohydric 6M (Hình 4) thu được CNCs có dạng sợi với chiều dài và đường kính trung bình lần lượt là 410 nm và 10 nm, tỷ lệ giữa chiều dài và đường kính là 41. 274 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 3(4):271-278 Hình4: ẢnhTEMcủahuyềnphùCNCsởcác thang đo khác nhau (a) 1,0 mmvà (b) 500,0 nm. Thành phần, cấu trúc và tính chất của vật liệuMGCNCs Thành phần hóa học của mẫu oxide sắt từ ghép lên nanocellulose (MGCNCs) được xác định bằng phổ FTIR (Hình 6). CNCs với bề mặt tích điện âm gây ra bởi số lượng lớn các nhóm chức hydroxyl trên bềmặt. Khi thêmCNCs vào dung dịchmuối sắt (có chứa Fe2+ và Fe3+), những cation này sẽ tương tác tĩnh điện với các nhóm hydroxyl của CNCs và tạo thành dung dịch phân tán đồng đều của CNCs – Fe2+/Fe3+. Tiếp đến quá trình đồng kết tủa xảy ra, sản phẩm Fe3O4 sinh ra sẽ tương tác với các nhóm hydroxyl và gắn lên bề mặt CNCs. Cơ chế ghép oxide sắt từ lên nanocellu- lose thông qua phản ứng đồng kết tủa đượcmô tả trên Hình 5. Hình 5: Cơ chế ghép oxide sắt từ lên nanocellu- lose bằng phương pháp đồng kết tủa. Kết quả FTIR cho thấy mẫu MGCNCs xuất hiện các mũi hấp thu đặc trưng của cellulose tại các số sóng 2908, 1427, 1319, 1208, và 894 cm 1 tương ứng với dao động kéo dãn CH, dao động biến dạng CH2, dao động lắc CH2, dao động biến dạng C OH trong mặt phẳng C-6 và dao động biến dạng bất đối xứng của C O C của liên kết b -glucosidic19. Những mũi hấp thu này có cường độ thấp do sự hiện diện của các hạt Fe3O4 cố định trên bề mặt CNCs. Cường độ của mũi hấp thu đặc trưng cho nhóm hy- droxyl tự do của CNCs tại 3280 cm 1 giảm, đồng thời cũng quan sát thấy mũi tại 1647 cm 1 của CNCs bị dịch chuyển về 1652 cm 1 trongMGCNCs. Điều này có thể là do sự tạo thành Fe3O4 sau quá trình đồng kết tủa trên bề mặt hydroxyl của CNCs đã hạn chế sự dao động của các nhóm hydroxyl của CNCs 10. Ngoài ra, đối chiếu với phổ FTIR của Fe3O4, phổ FTIR của MGCNCs có sự xuất hiện hai mũi hấp thumới tại 620 cm 1 và 700 cm 1 tương ứng với dao động kéo dãn và biến dạng của Fe – O. Điều này một lần nữa xác định sự tạo thành của Fe3O4 trên CNCs20. Hình 6: Phổ FTIR của các mẫu CNCs, Fe3O4 và CNCs/Fe3O4: Giản đồ XRD của mẫu MGCNCs (Hình 7) cho thấy sự hiện diện của một số mũi tại các giá trị 2q lần lượt là 33,1, 35,6, 49,5, 54,1, 62,4, và 64,0, tương ứng với các mặt mạng (220), (311), (422), (511), (440), và (531) trong cấu trúc của Fe3O4 21. Tuy nhiên không quan sát thấy các mũi đặc trưng cho tinh thể của CNCs. Điều này có thể được giải thích là do sự khác nhau của yếu tố tán xạ nguyên tử cũng như quá trình đồng kết tủa trong môi trường kiềm ở 90oC đã làm giảm độ kết tinh của CNCs, do đó làm giảm cường độ các mũi nhiễu xạ trong MGCNCs10. Giản đồ TGA của MGCNCs trong môi trường N2 cũng xảy ra hai giai đoạn mất khối lượng tương tự như CNCs (Hình 8). MGCNCs có độ bền nhiệt cao hơn do sự gắn kết của các hạt Fe3O4 thông qua tương tác với các nhóm hydroxyl trên bề mặt CNCs. Sự có mặt của Fe3O4 làm cho mẫuMGCNCs ổn định nhiệt khi nhiệt độ lên tới 400oC trong môi trường khí trơ. Hàm lượng Fe3O4 kết tụ trên bề mặt CNCs có thể được tính dựa trên sự mất khối lượng của cả hai mẫu CNCs và MGCNCs tại 500oC10. Kết quả cho thấy, sau quá trình đồng kết tủa hàm lượng Fe3O4 gắn kết trên CNCs là khoảng 51% theo khối lượng. 275 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 3(4):271-278 Hình 9: Đường cong từ hóa củamẫu (a) Fe3O4 và (b) CNCs/Fe3O4 Hình 7: Giản đồ XRD của cácmẫu CNCs, Fe3O4 và CNCs/Fe3O4. Tính chất từ của vật liệuMGCNCs Đường cong VSM của Fe3O4 và MGCNCs được thể hiện trên Hình 9. Sự xuất hiện đường cong từ hóa chứng tỏ mẫu CNCs/Fe3O4 có từ tính với độ bão hòa từ hóa ở khoảng 24 emu/g. So với oxide sắt từ khoảng 36 emu/g thì độ bão hòa từ hóa của CNCs/Fe3O4 có Hình 8: Giản đồ TGA và DTG củamẫu (a) CNCs và (b) CNCs/Fe3O4. thấp hơn, do khi oxide sắt từ được ghép lên CNCs thì từ tính có giảm, tuy nhiên thì từ tính vẫn khá cao. KẾT LUẬN Từ nguồn nguyên liệu là bẹ lá dừa nước, trải qua các quy trình xử lý hóa học khác nhau, chúng tôi đã cô lập được các tinh thể cellulose, từ đó làm cơ sở cho việc tổng hợp hạt oxitde Fe3O4. Vật liệu tinh thể cel- lulose từ tính được tổng hợp thành công thông qua phương pháp đồng kết tủa một giai đoạn đơn giản, trong đó hàm lượng Fe3O4 gắn lên bề mặt CNCs là 276 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 3(4):271-278 khoảng 51%. MGCNCs được khảo sát thông qua các phương phápXRD, FTIR, TGAvàVSM.Kết quảVSM cho thấy mẫu MGCNCs có độ bão hòa từ hóa thấp hơn Fe3O4. Phổ FTIR xác nhận sự tương tác giữa Fe3O4 với các nhóm chức hydroxyl trên bề mặt của CNCs. Vật liệu tạo thành với mong muốn kết hợp giữa tính tương thích sinh học của CNCs cùng từ tính của Fe3O4 hứa hẹn khả năng ứng dụng của vật liệu trong lãnh vực xử lý môi trường. LỜI CẢMƠN Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài mã số “T2018-30”. Nhóm tác giả xin chân thành cám ơn. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CNCs: nano tinh thể cellulose FT-IR: phổ hồng ngoại biến đổi Fourier MGCNCs: nano tinh thể cellulose từ tính TEM: Ảnh hiển vi điện tử truyền qua TGA: phân tích nhiệt – khối lượng VSM: từ kế mẫu rung XRD: nhiễu xạ tia X XUNG ĐỘT LỢI ÍCH Nhóm tác giả cam kết không có xung đột lợi ích. ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ Vũ Năng An, Nguyễn Văn Hiền: thực nghiệm Vũ Năng An, Nguyễn Thái Ngọc Uyên, Hà Thúc Chí Nhân, Lê Văn Hiếu: chuẩn bị bản thảo và chỉnh sửa/phản hồi phản biện, hoàn chỉnh bản thảo. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Kaushik M, Moores A. nanocelluloses as versatile supports for metal nanoparticles and their applications in catalysis. Green Chemistry. 2016;18(3):622–659. 2. Wang S, Lu A, Zhang L. Recent advances in regenerated cellu- losematerials. Progress in Polymer Science. 2016;53:169–206. 3. Grishkewich N, Mohammed N, Tang J, Tam KC. Recent ad- vances in the application of cellulose nanocrystals. Current Opinion in Colloid & Interface Science. 2017;29:32–45. 4. Wu X, Lu C, Zhou Z, Yuan G, Xiong R, Zhang X. Green syn- thesis and formation mechanism of cellulose nanocrystal- supportedgold nanoparticleswith enhanced catalytic perfor- mance. Environmental Science: Nano. 2014;1(1):71–80. 5. Rezayat M, Blundell RK, Camp JE, Walsh DA, Thielemans W. Green one-step synthesis of catalytically active palladium nanoparticles supported on cellulose nanocrystals. ACS Sus- tainable Chemistry & Engineering. 2014;2(5):1241–50. 6. Shin Y, Bae IT, Arey BW, Exarhos GJ. Facile stabilization of gold- silver alloynanoparticlesoncellulosenanocrystal. The Journal of Physical Chemistry C. 2008;112(13):4844–4852. 7. Dhar P, Kumar A, Katiyar V. Fabrication of cellulose nanocrystal supported stable Fe (0) nanoparticles: a sustainable catalyst for dye reduction, organic conversion and chemo-magnetic propulsion. Cellulose. 2015;22(6):3755–71. 8. Chen L, Berry RM, Tam KC. Synthesis of b -Cyclodextrin- modified cellulose nanocrystals (CNCs)@ Fe3O4@ SiO2 super- paramagnetic nanorods. ACS Sustainable Chemistry & Engi- neering. 2014;2(4):951–959. 9. Segal L, Creely JJ,Martin AE, Conrad CM. An empiricalmethod for estimating the degree of crystallinity of native cellulose using the x-ray diffractometer. Textile Research Journal. 1959;29(10):786–94. 10. Dhar P, Kumar A, Katiyar V. Magnetic cellulose nanocrystal based anisotropic polylactic acid nanocomposite films: influ- ence on electrical, magnetic, thermal, and mechanical prop- erties. ACS applied Materials & Interfaces. 2016;8(28):18393– 409. 11. Lu P, Hsieh YL. Preparation and properties of cellulose nanocrystals: Rods, spheres, andnetwork. Carbohydrate Poly- mers. 2010;82(2):329–365. 12. Oh SY, Yoo DI, Shin Y, Kim HC, Kim HY, Chung YS. Crystalline structure analysis of cellulose treated with sodium hydroxide and carbon dioxide by means of X-ray diffraction and FTIR spectroscopy. Carbohydrate Research. 2005;340(15):2376–91. 13. Wang N, Ding E, Cheng R. Thermal degradation behaviors of spherical cellulose nanocrystals with sulfate groups. Polymer. 2007;48(12):3486–93. 14. Lavoine N, Desloges I, Dufresne A, Bras J. Microfibrillated cellulose-Its barrier properties and applications in cellulosic materials: A review. Carbohydrate Polymers. 2012;90(2):735– 64. 15. Coelho CC, Michelin M, Cerqueira MA, Gonalves C, Tonon RV, Pastrana LM. Cellulose nanocrystals from grape pomace: Pro- duction, properties and cytotoxicity assessment. Carbohy- drate Polymers. 2018;192:327–363. 16. Negi S, Negi YS. Studies on cellulose nanocrystals iso- lated from groundnut shells. Carbohydrate Polymers. 2017;157:1041–1050. 17. Leszczyska A, Radzik P, Harana K, Pielichowski K. Thermal sta- bility of cellulosenanocrystals preparedby succinic anhydride assisted hydrolysis. Thermochimica Acta. 2018;663:145–56. 18. Habibi Y, Lucia LA, Rojas OJ. Cellulose nanocrystals: chem- istry, self-assembly, and applications. Chemical Reviews. 2010;110(6):3479–500. 19. Jiao Y, Wan C, Bao W, Gao H, Liang D, Li J. Facile hydrothermal synthesis of Fe3O4@ cellulose aerogel nanocomposite and its application in Fenton-like degradation of Rhodamine B. Car- bohydrate Polymers. 2018;189:371–379. 20. Zarei S, Niad M, Raanaei H. The removal of mercury ion pol- lution by using Fe3O4-nanocellulose: Synthesis, character- izations and DFT studies. Journal of hazardous materials. 2018;344:258–73. 21. Nypel T, Rodriguez-Abreu C, Rivas J, Dickey MD, Rojas OJ. Magneto-responsive hybrid materials based on cellulose nanocrystals. Cellulose. 2014;21(4):2557–66. 277 Science & Technology Development Journal – Natural Sciences, 3(4):271-278 Open Access Full Text Article Research Article University of Science, VNU-HCM Correspondence Vu Nang An, University of Science, VNU-HCM Email: vnan@hcmus.edu.vn History Received: 21-12-2018 Accepted: 21-5-2019 Published: 21-12-2019 DOI : 10.32508/stdjns.v3i4.660 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Preparation of magnetic iron Oxide coated on the surface of Cellulose nanocrystals by in-situ coprecipitation process Vu Nang An*, Nguyen Van Hien, Nguyen Thai Ngoc Uyên, Ha Thuc Chi Nhan, Le Van Hieu Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT This study reported a single-step method for the fabrication of magnetic cellulose nanocrystals (MGCNCs) by coprecipitation iron oxide nanoparticle onto cellulose nanocrystals (CNCs). Cellulose nanocrystals (CNCs) were derived by hydrochloric acid hydrolysis (HCl 6M, 25mL/g cellulose) in the optimum condition at 90 C for 90min. Pure cellulose was isolated fromNypa fruticans branches, a popular tree in Vietnam. The structure andmorphology of CNCs were characterized by crystallinity index, morphology and thermal stability. TEM images showed that the average fiber length of the nanocrystals was 410 nmwith a diameter of 10 nm (aspect ratio of 41) and the crystallinity index of 85.2 % (by XRD). The as-prepared MGCNCs were characterized by Fourier transform infrared spec- troscopy (FTIR), wide-angle X-ray diffractionmeasurement (XRD), thermal gravity analysis (TGA) and vibrating sample magnetometry (VSM). The results showed that the magnetic cellulose nanocrys- tals absorbed about 51%w/w on CNCs surfaces withmagnetic properties and the saturationmag- netization of about 24 emu/g. Possessing the biocompatibility as well as paramagnetism, themag- netic cellulose nanocrystals were promising materials for environmental treatment. Key words: magnetic cellulose nanocrystals, magnetic nanoparticles, coprecipitation Cite this article : Nang An V, Van Hien N, Thai Ngoc Uyên N, Thuc Chi Nhan H, Van Hieu L. Preparation of magnetic iron Oxide coated on the surface of Cellulose nanocrystals by in-situ coprecipitation process. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 3(4):271-278. 278
File đính kèm:
- tong_hop_hat_oxide_sat_tu_tren_be_mat_nano_tinh_the_cellulos.pdf