Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện ung bướu Đà Nẵng
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa.
Phương pháp: Nghiên cứu trên 90 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng từ ngày
1/2/2020 đến 9/9/2020.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 59,3 tuổi, tỷ lệ người bệnh nam giới là 67,8%, cao hơn
bệnh nhân nữ giới là 32,2%. Tại thời điểm nhập viện, tỉ lệ suy dinh dưỡng tính theo BMI, PG-SGA lần lượt
là 29%, 78,9%. Từ ngày nhập viện đến ngày phẫu thuật, có đến 35,6% bệnh nhân tiếp tục sụt cân. Tỉ lệ
bệnh nhân thiếu máu là 28%. Các yếu tố cản trở đến việc ăn uống: đau, ăn không ngon miệng, nôn, nuốt
khó, tiêu chảy, táo bón, lo âu, mất ngủ.
Kết luận: Suy dinh dưỡng rất phổ biến ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa, không chỉ tại thời điểm
nhập viện mà vẫn tiếp tục trong quá trình điều trị, đây là một vấn đề sức khỏe cần được quan tâm. Cần
thực hiện tầm soát suy dinh dưỡng thường xuyên bằng công cụ thích hợp (BMI, PG-SGA) để can thiệp
dinh dưỡng kịp thời và hiệu quả.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện ung bướu Đà Nẵng
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 416 TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU ĐÀ NẴNG NGUYỄN THANH HÙNG1, NGUYỄN THỊ KHÁNH HOÀI2, PHẠM THỊ NGÂN3 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Khánh Hoài Email: khanhhoai1005@gmail.com Ngày nhận bài: 05/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 BSCKII. Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng 2 BS. Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng 3 ĐD. Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng ĐẶT VẤN ĐỀ Giảm cân và suy dinh dưỡng thường gặp ở bệnh nhân ung thư. Theo Hiệp hội Dinh dưỡng Lâm sàng châu Âu ESPEN (2006) thì tỉ lệ suy dinh dưỡng chiếm 20 - 60% bệnh nhân nằm viện và có đến 30 - 90% bệnh nhân bị mất cân trong thời gian điều trị. Ung thư đường tiêu hóa là một trong những loại ung thư gây suy dinh dưỡng nhiều nhất do có khối u nằm ở vị trí ảnh hưởng trực tiếp đến hấp thu, tiêu hóa các chất dinh dưỡng. Đối với bệnh nhân ngoại khoa, suy dinh dưỡng có thể gặp trước khi phẫu thuật do giảm lượng thức ăn bằng miệng. Tình trạng suy dinh dưỡng thường tiếp tục diễn ra do các rối loạn hậu phẫu, stress liên quan đến phẫu thuật. Hậu quả suy dinh dưỡng ở người bệnh ung thư bao gồm tăng nguy cơ bội nhiễm, giảm chức năng miễn dịch, tình trạng hoạt động, chức năng cơ, chất lượng cuộc sống, kém đáp ứng điều trị. Do đó, việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư khi điều trị phẫu thuật đơn thuần hay điều trị phối hợp đóng vai trò rất quan trọng, cần được thực hiện song song với các phương pháp điều trị đặc hiệu, đặc biệt là với những bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa. Tại bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng, chưa có công trình khảo sát tình trạng dinh dưỡng, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu: Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa với 2 mục đích: TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa. Phương pháp: Nghiên cứu trên 90 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng từ ngày 1/2/2020 đến 9/9/2020. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 59,3 tuổi, tỷ lệ người bệnh nam giới là 67,8%, cao hơn bệnh nhân nữ giới là 32,2%. Tại thời điểm nhập viện, tỉ lệ suy dinh dưỡng tính theo BMI, PG-SGA lần lượt là 29%, 78,9%. Từ ngày nhập viện đến ngày phẫu thuật, có đến 35,6% bệnh nhân tiếp tục sụt cân. Tỉ lệ bệnh nhân thiếu máu là 28%. Các yếu tố cản trở đến việc ăn uống: đau, ăn không ngon miệng, nôn, nuốt khó, tiêu chảy, táo bón, lo âu, mất ngủ. Kết luận: Suy dinh dưỡng rất phổ biến ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa, không chỉ tại thời điểm nhập viện mà vẫn tiếp tục trong quá trình điều trị, đây là một vấn đề sức khỏe cần được quan tâm. Cần thực hiện tầm soát suy dinh dưỡng thường xuyên bằng công cụ thích hợp (BMI, PG-SGA) để can thiệp dinh dưỡng kịp thời và hiệu quả. Từ khóa: Suy dinh dưỡng, phẫu thuật, ung thư, đường tiêu hóa, tình trạng dinh dưỡng. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 417 Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa có chỉ định phẫu thuật tại bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng năm 2020. So sánh hiệu quả của 2 công cụ đánh giá tình trạng dinh dưỡng người bệnh là BMI và PG-SGA. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 90 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư đường tiêu hóa có chỉ định phẫu thuật (bao gồm: ung thư thực quản, dạ dày, đại trực tràng) nhập viện điều trị tại khoa Ngoại 1 Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng từ tháng 2 đến tháng 9/2020. Tiêu chuẩn lựa chọn Người trưởng thành trên 18 tuổi. Bệnh nhân được giải thích đầy đủ và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đang trong tình trạng cấp cứu, hạn chế giao tiếp và không thể trả lời được. Bệnh nhân không tự nguyện tham gia. Phương pháp đánh giá Bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa có chỉ định phẫu thuật được đánh giá 3 thời điểm: ngày nhập viện, ngày trước mổ, ngày ra viện với các chỉ số: Chiều cao, cân nặng (cân nặng hiện tại và cách ngày nhập viện 1 tháng, 6 tháng), BMI (BMI < 18,5 suy dinh dưỡng, BMI từ 18,5 - 22,99 bình thường, BMI ≥ 23 thừa cân), PG-SGA (PG-SGA A: dinh dưỡng tốt, PG-SGA B: nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ và vừa, PG-SGA C: nguy cơ suy dinh dưỡng nặng). Hemoglobin máu (giảm nếu < 120g/l) của bệnh nhân được thu thập từ hồ sơ bệnh án. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành trên 90 bệnh nhân: 61 nam và 29 nữ. Tuổi trung bình là 59,3 tuổi. Có 27,8% ung thư thực quản, 13,3% ung thư dạ dày, 58,9% ung thư đại trực tràng. Bảng 1. Tỉ lệ loại bệnh ung thư theo giới tính (n = 90) Phân loại Nam Nữ Tổng Ung thư thực quản 22 3 25 (27,8%) Ung thư dạ dày 5 7 12 (13,3%) Ung thư đại trực tràng 34 19 53 (58,9%) Tổng 61 (67,8%) 29 (32,2%) 90 (100%) Trong tổng số 90 bệnh nhân, ung thư đại trực tràng chiếm tỉ lệ lớn nhất (58,9%), tiếp đó là ung thư thực quản (27,8%) và ung thư dạ dày ít nhất (13,3%). Ung thư dạ dày và đại trực tràng lại chiếm tỉ lệ ở nữ giới nhiều hơn, trong khi ung thư thực quản chiếm đa số ở nam giới (22/25 ca ung thư thực quản). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa. Bảng 2. Tỉ lệ bệnh nhân sụt cân trong quá trình nằm viện (trước và sau mổ) theo bệnh (n = 90) Tỉ lệ bệnh nhân sụt cân Trước mổ Sau mổ n % n % Ung thư thực quản 14 15,6 25 27,8 Ung thư dạ dày 5 5,6 11 12,2 Ung thư đại trực tràng 13 14,4 46 51,1 Tổng 32 35,6 82 91,1 Nhận xét: Tỉ lệ sụt cân trước mổ chiếm 35,6%, nhưng sau mổ tỉ lệ sụt cân lên đến 91,1%. Ung thư thực quản có tỉ lệ sụt cân trước mổ cao nhất (trước mổ 15,6%). Tỉ lệ sụt cân của ung thư đại tràng trước mổ là thấp nhất (24,5%). Nhìn chung, số lượng bệnh nhân sụt cân ngày càng nhiều lên trong quá trình điều trị (từ 35,6% trước mổ tăng lên 91,1% sau mổ). So sánh các thời điểm đánh giá, tỉ lệ đánh giá dinh dưỡng theo BMI và PG-SGA đều có sự thay đổi. Bảng 3. Đánh giá dinh dưỡng theo BMI của bệnh nhân tại ba thời điểm (n = 90) BMI Ngày nhập viện Ngày trước mổ Ngày ra viện SL % SL % SL % < 18,5 26 29 24 26,7 31 34 18,5 - 22,99 47 52 50 55,6 51 57 ≥ 23 17 19 16 17,7 8 9 Tổng 90 100 90 100 90 100 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 418 Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân suy dinh dưỡng tính theo BMI có thay đổi qua ba thời điểm nằm viện. Trong đó tỉ lệ suy dinh dưỡng cao nhất tính theo BMI là ở ngày ra viện (sau mổ) (34%). Bảng 4. Đánh giá dinh dưỡng theo PG-SGA tại ba thời điểm (n = 90) PG-SGA Ngày nhập viện Ngày trước mổ Ngày ra viện n % n % n % A 19 21,1 18 20 5 5,6 B 40 44,4 35 38,9 11 12,2 C 31 34,5 37 41,1 74 82,2 Tổng 90 100 90 100 90 100 Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân suy dinh dưỡng tính theo PG-SGA khá cao (PG-SGA B và C). Ngày nhập viện có 78,9% bệnh nhân suy dinh dưỡng, trong đó: 44,4% mức độ vừa và nhẹ, 34,5% mức độ nặng. Tỉ lệ này tăng lên vào ngày trước phẫu thuật và sau phẫu thuật (80% và 94,4%). Bệnh nhân có dinh dưỡng tốt vào ngày ra viện chiếm 5,6%. Hình 1. Nồng độ Hemoglobin của bệnh nhân trước phẫu thuật 28 72 <120 g/l >120 g/l Nhận xét: 28% bệnh nhân có thiếu máu trước phẫu thuật (Hb < 120g/l). So sánh hiệu quả giữa 2 công cụ đánh giá tình trạng dinh dưỡng là BMI và PG-SGA Hình 2. Biểu đồ so sánh tỉ lệ (%) SDD bằng 2 công cụ: Theo BMI và theo PG-SGA Nhận xét: Việc phát hiện suy dinh dưỡng và nguy cơ suy dinh dưỡng bằng các công cụ khác nhau sẽ cho ra kết quả khác nhau. Trong đó, tỉ lệ phát hiện nguy cơ suy dinh dưỡng bằng công cụ PG-SGA cao hơn nhiều so với BMI. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 419 BÀN LUẬN Vấn đề sụt cân là một trong những yếu tố tiên lượng suy giảm khả năng hồi phục của người bệnh ung thư nói chung và ung thư phẫu thuật đường tiêu hóa nói riêng. Kết quả nghiên cứu có 91,1% bệnh nhân sụt cân, cao hơn một số kết quả nghiên cứu khác trên bệnh nhân ung thư như: nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh tại bệnh viện ĐH Y Hà Nội và bệnh viện Bạch Mai năm 2016 - 2017 có 82,7% bệnh nhân ung thư đại trực tràng sụt cân, hay nghiên cứu của Ngô Thị Linh tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức Hà Nội với 80,8% sụt cân. Điều này có thể lý giải vì sụt cân trong ung thư đường tiêu hóa rất dễ xảy ra do giảm ăn vào, đồng thời bệnh nhân sau phẫu thuật cũng mất đi một lượng protein nhất định, ăn uống hậu phẫu ung thư đường tiêu hóa khó khăn (đa phần đều phải can thiệp dinh dưỡng tĩnh mạch), vì vậy việc sụt cân xảy ra với tỉ lệ rất cao. Điều này cũng cho thấy việc tầm soát và can thiệp dinh dưỡng khi bệnh nhân nằm viện vẫn còn nhiều trở ngại. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo BMI khá đơn giản, dễ thực hiện và không tốn kém. Song BMI cũng có nhược điểm là theo dõi trọng lượng có độ nhạy kém, nhất là khi sử dụng độc lập và không tiên lượng được nguy cơ suy dinh dưỡng cho người bệnh. Vì vậy, phương pháp kém hiệu quả, không phù hợp dùng trong việc phát hiện thiếu hụt dinh dưỡng trong thời gian ngắn, cũng như thiếu hụt chất dinh dưỡng đặc hiệu. Tỉ lệ suy dinh dưỡng theo BMI trước phẫu thuật của chúng tôi là 26,7%. Tương tự kết quả một số nghiên cứu khác cũng thực hiện trên bệnh nhân ung thư như nghiên cứu Phan Thị Bích Hạnh (25,9%), nghiên cứu Ngô Thị Linh (24%), Nguyễn Thị Thanh (26%). Trong khi đó, đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo PG-SGA có thể đánh giá toàn diện các yếu tố liên quan đến dinh dưỡng, đồng thời có yếu tố tiên lượng và dự phòng, độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo PG-SGA của chúng tôi cho thấy tỉ lệ bệnh nhân có nguy cơ suy dinh dưỡng là 80%, trong đó nguy cơ suy dinh dưỡng nặng chiếm 41,1%. Kết quả này của chúng tôi có sự tương đồng với nghiên cứu của Ngô Thị Linh tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức Hà Nội (85,6%), nhưng lại cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Phan Thị Bích Hạnh (58,5%) và Nguyễn Thị Hương Quỳnh tại bệnh viện Quân Y 103 (58%). Sự khác biệt này có thể là do nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên đối tượng bệnh nhân ung thư phẫu thuật đường tiêu hóa (cùng đối tượng với nghiên cứu của Ngô Thị Linh), trong khi các nghiên cứu khác đánh giá trên đối tượng ung thư nói chung hoặc ung thư đường tiêu hóa điều trị hóa chất. Nhưng dù là trên đối tượng nào, bộ công cụ PS-SGA vẫn cho ra kết quả có độ nhạy cao, có thể phân loại bệnh nhân ngay cả khi chưa có thay đổi cân nặng và mới chỉ xuất hiện triệu chứng về dinh dưỡng (chán ăn, nuốt nghẹn, nôn, buồn nôn). Thêm vào đó, nghiên cứu cho thấy có đến 28% người bệnh thiếu máu, tỉ lệ này thấp hơn nghiên cứu của Bệnh viện ĐH Y Hà Nội (2016) với 59,2%. Một số bệnh nhân có BMI thừa cân béo phì nhưng PG-SGA cho kết quả có nguy cơ suy dinh dưỡng nặng và ngược lại, một số bệnh nhân có BMI < 18,5 nhưng PG-SGA lại đánh giá dinh dưỡng tốt. Trong những trường hợp như vậy, có thể xem xét sử dụng thêm bộ công cụ khác và các xét nghiệm chỉ số máu để làm rõ tình trạng dinh dưỡng. Để tầm soát dinh dưỡng cho bệnh nhân ung thư có nhiều phương pháp. Cho đến nay chưa có phương pháp nào được xem là phương pháp tiêu chuẩn để đánh giá. Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng. Tùy vào mục đích sử dụng mà lựa chọn phương pháp phù hợp. Nếu cần tầm soát dinh dưỡng khi nhập viện, cần sự đơn giản, dễ dàng, nhanh và thuận tiện thì có thể dùng phương pháp tính chỉ số BMI. Nếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng toàn diện, độ nhạy và đặc hiệu cao, hỗ trợ tiên lượng suy dinh dưỡng thì nên dùng bộ công cụ PG-SGA. Trong một số trường hợp cho kết quả mâu thuẫn, cần sử dụng thêm các phương pháp khác để đánh giá. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 90 bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa có độ tuổi trung bình 59,3 tuổi, có 26,7% bệnh nhân suy dinh dưỡng theo đánh giá BMI, có 80% bệnh nhân suy dinh dưỡng/ nguy cơ suy dinh dưỡng theo đánh giá PG-SGA, và 91,1% bệnh nhân sụt cân sau khi điều trị. Việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho bệnh nhân cần được quan tâm hơn, đặc biệt là tầm soát dinh dưỡng khi nhập viện. Điều này sẽ giúp ích trong việc tiên lượng, can thiệp dinh dưỡng sớm cho bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa. Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng đều có ưu và nhược điểm riêng, cần linh hoạt sử dụng phối hợp các công cụ đánh giá để có hiệu quả cao nhất, hỗ trợ cho việc can thiệp dinh dưỡng sớm và kịp thời. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Thị Bích Hạnh. (2017). Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần thực tế của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa có điều trị hóa chất tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Dinh dưỡng, Trường Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 420 2. Nguyễn Thị Thanh (2017), Thực trạng dinh dưỡng trước và sau phẫu thuật của bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Đại Học Y Hà Nội năm 2016-2017, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội. 3. Ngô Thị Linh, Hà Nguyễn Kính Long, Nguyễn Xuân Hùng và cộng sự (2017). Tình trạng dinh dưỡng trước phẫu thuật của bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm. 4. Phạm Thanh Thúy, Ngô Mộng Tuyền, Trần Thị Anh Tường và cộng sự (2010). Khảo sát tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân ung thư vùng đầu cổ. Tạp chí nghiên cứu Y học tập 14, phụ bản số 4. 5. Dương Thị Phượng, Lê Thị Hương, Nguyễn Thùy Linh và cộng sự (2016). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu y học. 6. Ngô Thị Linh, Pham Văn Phú, Đỗ Tất Thành và cộng sự. Tình trạng dinh dưỡng và biến chứng của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Tạp chí Y học cộng đồng 2020. 7. WHO Expert Consultation. (2004). Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies. Lancet (London, England). 8. Vivien Choo. (2002). WHO reassesses appropriate body-mass index for Asian populations. The Lancet, 360(9328), 235. 9. J. Bauer, S. Capra, and M. Ferguson. (2002). Use of the scored Patient-Generated Subjective Global Assessment (PG-SGA) as a nutrition assessment tool in patients with cancer. European Journal of Clinical Nutrition, 56(8), 779-785. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 421 ABSTRACT Assessing the nutritional status of gastrointestinal cancer surgery patients in Danang Oncology Hospital Objective: To assess the nutrition status of gastrointestinal cancer surgery patients. Method: A prospective study was performed on 90 patients treated in the Danang Oncology Hospital in 2020. Result: According to the research, the average patient’s age is 59,3, the proportion of male patients is 67,8%, was higher than female ones (32,2%). At the administration, the prevalence of malnutrition according to BMI, PGSGA is 29%, 78,9%, respectively. Until the administration to the surgery day, 35,6% of patients kept losing weight. The rate of anemic patients is 28%. The causes may be pain, nausea, anorexia, problems swallowing, diarrhea, constipation. Conclusion: Malnutrition is very common gastrointestinal cancer patients not only occurred at the administration, but also happened during or at the end of treatment, and this health prolem needs to be considered. We should perform nutritional screening for all gastrointestinal cancer patients. Key words: Malnutrition, surgery, cancer, gastrointestinal tract, nutritional status.
File đính kèm:
- tinh_trang_dinh_duong_cua_benh_nhan_phau_thuat_ung_thu_duong.pdf