Tình hình và các giải pháp nhằm tăng cường an toàn giao thông đường bộ và an toàn giao thông đô thị ở Việt Nam
Trong nhiều năm gần đây, vấn đề ATGT đường bộ và ATGT đô thị đã trở thành một
trong những vấn đề nổi cộm và gây bức xúc trong dư luận xã hội ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê,
hàng ngày có tới 40 người chết vì TNGT trên toàn quốc. Các TNGT chủ yếu xảy ra trên các tuyến
quốc lộ quan trọng, có lưu lượng xe cao và mật độ xe vận tải hành khách lớn. Còn trong các đô thị lớn
như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, tình trạng ùn tắc giao thông đã và đang diễn ra ngày càng trầm trọng.
Bài báo nhằm tổng quan và tổng hợp tình hình về TNGT trên các quốc lộ và thực trạng ùn tắc giao
thông ở các đô thị lớn Việt Nam. Đồng thời tổng hợp các giải pháp lớn đã và đang được các cấp, các
địa phương nghiên cứu thực hiện nhằm góp phần giảm thiểu TNGT và ùn tắc giao thông tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình và các giải pháp nhằm tăng cường an toàn giao thông đường bộ và an toàn giao thông đô thị ở Việt Nam
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 6 TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ VÀ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM PGS. TS. Doãn Minh Tâm Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ GTVT Tóm tắt: Trong nhiều năm gần đây, vấn đề ATGT đường bộ và ATGT đô thị đã trở thành một trong những vấn đề nổi cộm và gây bức xúc trong dư luận xã hội ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê, hàng ngày có tới 40 người chết vì TNGT trên toàn quốc. Các TNGT chủ yếu xảy ra trên các tuyến quốc lộ quan trọng, có lưu lượng xe cao và mật độ xe vận tải hành khách lớn. Còn trong các đô thị lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, tình trạng ùn tắc giao thông đã và đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Bài báo nhằm tổng quan và tổng hợp tình hình về TNGT trên các quốc lộ và thực trạng ùn tắc giao thông ở các đô thị lớn Việt Nam. Đồng thời tổng hợp các giải pháp lớn đã và đang được các cấp, các địa phương nghiên cứu thực hiện nhằm góp phần giảm thiểu TNGT và ùn tắc giao thông tại Việt Nam. 1. Tổng quan về tình hình ATGT đƣờng bộ và ATGT đô thị ở Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay, tình hình đảm bảo trật tự ATGT đường bộ và ATGT đô thị đang phải đối mặt với 2 vấn đề nghiêm trọng, đó là tình trạng TNGT ngày càng gia tăng trên các tuyến quốc lộ và tình trạng ùn tắc giao thông ngày càng trở nên trầm trọng hơn trong giao thông đô thị, đặc biệt tại các thành phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Việt Nam hiện có hơn 218.500 km đường bộ, đa phần là đường giao thông nông thôn (chiếm tới 80%), còn lại là các quốc lộ, tỉnh lộ, đường đô thị và đường chuyên dùng. Với 60 tuyến đường, hệ thống các tuyến quốc lộ ở Việt Nam với tổng chiều dài 17.290 km (chiếm khoảng 8%). Trong đó, chất lượng mặt đường quốc lộ được đánh giá 32% đạt loại tốt, 35% đạt loại trung bình, 17% loại xấu và 16% thuộc loại rất xấu. Như vậy, nhiều tuyến chưa đảm bảo tiêu chuẩn, cầu và đường chưa đồng bộ. Theo khảo sát của Bộ Giao thông Vận tải, hiện tại ở nhiều đoạn trên các quốc lộ 2, 3, 5, 6, 15, 70 và 279... đã hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng. Đặc biệt ở khu vực miền Trung, các cầu, cống, tuyến đường xây dựng trước đây không phù hợp với tình hình thuỷ văn hiện nay nên nền đường dễ bị ngập lụt trong mùa mưa bão, gây sụt lở. Còn theo thống kê của Cục Đường bộ Việt Nam, tính đến cuối năm 2009, mạng lưới giao thông đường bộ ở Việt Nam đã tăng thêm 3.871 km so với năm 1999, nhưng không có một nguồn phí tu sửa nào cố định. Đại diện Bộ Giao thông Vận tải cho biết chi phí dành cho công tác bảo trì các tuyến quốc lộ năm 2008 đạt mức cao nhất là 1.915 tỷ đồng, nhưng chỉ mới đáp ứng khoảng 50% nhu cầu. Bên cạnh đó, chỉ tính riêng trong năm 2009, các đơn vị của Cục Đường bộ Việt Nam đã phát hiện, xử lý 86 điểm đen và điểm có nguy cơ mất an toàn giao thông với kinh phí 45 tỷ đồng. Rà soát thống kê, xác định trên hệ thống quốc lộ còn trên 738 cầu yếu, đang lập dự án cải tạo, sửa chữa 379 cầu, gia cường các cầu yếu còn lại để đảm bảo an toàn giao thông. Đó là chưa kể hàng ngàn tỷ đồng cho việc khôi phục các tuyến quốc lộ bị hư hại do bão lũ, đặc biệt các tuyến quốc lộ qua miền Trung, Tây Nguyên: Quốc lộ 24, đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 12, Quốc lộ 49 bị hư hại nặng do bão số 9, số 11 vừa qua... Ở Việt Nam đang tồn tại một nghịch lý, đó là dường như đường sá mỗi ngày được mở rộng và êm thuận hơn, phương tiện tham gia giao thông mỗi ngày được trang bị tiện nghi và hiện đại hơn thì dường như TNGT cũng ngày một gia tăng hơn ? Lý do cơ bản nhất, đó chính là vấn đề tốc độ. Đường càng tốt, xe càng hiện đại dẫn đến tình trạng người điều khiển phương tiện cho xe chạy càng nhanh hơn, đến mức không kiểm soát được tốc độ và gây tai nạn trong tình trạng đường sá ở Việt Nam còn nhỏ hẹp, dòng xe hỗn hợp đi lẫn nhau trên đường. Theo Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, TNGT trong 10 năm qua liên tục gia tăng. Nếu như năm 1990, số người bị chết vì TNGT là 2.368 người thì đến những năm 1995 - 1996 là 6.000 người và đến năm 2002, con số này đã lên đến 12.989 (và, 30.772 người bị thương). Chỉ tính riêng trong năm 2002, TNGT trên thế giới đã làm cho 1,2 Hình 1. Biểu đồ so sánh về số người chết và bị thương trong 10 000 vụ TNGT đường bộ ở các nước. (Số liệu trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu nước ngoài) Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng 5 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin triệu người thiệt mạng và 50 triệu người bị thương, gây phí tổn hơn 500 tỉ USD. Trong đó số người chết do TNGT ở châu Á chiếm một nửa, tức khoảng 600 ngàn người, còn thương tích là 9 triệu người. Hội Chữ thập đỏ Quốc tế và Hội Lưỡi liềm đỏ mới đây đã nhấn mạnh rằng, TNGT là một hiểm họa ngày càng trở nên nghiêm trọng. Hàng năm, số vụ TNGT tăng 10% và con số này ở các nước đang phát triển cao hơn tỉ lệ ở các nước công nghiệp phát triển. Một trong những nguyên nhân chính gây TNGT là có sự tham gia hỗn tạp của nhiều loại phương tiện giao thông trên đường. Tại châu Phi, châu Mỹ Latinh và vùng Caribe, đa số nạn nhân là người đi bộ, trong khi đó tại một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, Việt Nam, nạn nhân chủ yếu là những người đi xe hai bánh. Trung Quốc chỉ chiếm 1,9% số phương tiện tham gia giao thông của thế giới nhưng lại chiếm khoảng 15% số vụ tai nạn giao thông, làm cho hơn 100 ngàn người thiệt mạng. Ở Ấn Độ, cứ 6 phút rưỡi lại có 1 người tử vong do TNGT và con số này được dự đoán là đến năm 2020 sẽ là 3/1, có nghĩa là cứ 3 phút lại có 1 người chết. Theo thống kê của Ủy ban An toàn Giao thông quốc gia, năm 2009 cả nước đã xảy ra gần 12.500 vụ tai nạn giao thông, làm chết hơn 11.500 người, bị thương xấp xỉ 8.000 người khác. Tại Việt Nam, nhóm đối tượng vi phạm trật tự an toàn giao thông nhiều nhất chính là người điều khiển phương tiện môtô, xe máy. Đây là nguyên nhân trực tiếp và là nguyên nhân chính ... 5 tấn trở lên và các loại xe, máy thi công cấm hoạt động từ 6h đến 21h hàng ngày. Biện pháp 3: Giảm thiểu ùn tắc do xe buýt gây ra. Theo đó, chỉ những đường có chiều rộng từ 4 làn xe trở lên (rộng trên 14 m) thì mới thuận lợi cho việc chạy xe buýt 2 chiều, còn nếu bề rộng đường dưới 10,5 mét thì không thuận lợi hoặc chỉ chạy được một chiều. Đường có bề rộng từ 2 làn xe trở xuống thì không nên cho chạy xe buýt, vì khi dừng đỗ sẽ chắn gần kín làn đường, làm cho các phương tiện khác phải tránh lấn sang chèn vào làn xe đi ngược chiều không cho làn này thoát đi được, vì thế mà gây ùn tắc giao thông. Biện pháp 4: Về lâu dài phải thực hiện kế hoạch dãn dân. Theo chủ trương này, Chủ tịch TP Hà Nội cho rằng cần phải kéo một số cơ quan trong thành phố ra bên ngoài. Trước mắt, thành phố không nâng cấp, cải tạo bệnh viện hiện đại ở nội thành, tất cả phần xây dựng hiện đại phải đưa ra bên ngoài và chỉ giữ lại những bệnh viện cũ để duy trì, đáp ứng nhu cầu. Biện pháp 5: CA Hà Nội tạm dừng việc đăng ký xe máy ở 4 quận nội thành. Để góp phần giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông ngày càng nghiêm trọng, trong năm 2005 Hà Nội đã đưa ra một số biện pháp quyết liệt, trong đó có việc tạm dừng việc đăng ký xe máy ở 4 quận nội thành, sau đó mở rộng ra thêm 3 quận nữa. Tuy nhiên, việc tạm dừng đăng ký xe gắn máy đã làm phát sinh một loạt các vấn đề khác trong quản lý nhà nước. Biện pháp 6: Tăng cường năng lực quản lý điều hành giao thông và các biện pháp tổ chức giao thông. Trong đó tăng cường lắp đặt mới hệ thống đèn điều khiển giao thông và các tổ hợp camera theo dõi tình hình giao thông, phát hiện phương tiện vi phạm. Hà Nội hiện có khoảng hơn 20 máy camera hoạt động. Thành phố đã cho lắp đặt bổ sung 11 cụm đèn tín hiệu giao thông, xén vỉa hè, kẻ vạch sơn cho người đi bộ tại 170 nút giao thông và 400 điểm bố trí cho người đi bộ qua đường trên các trục đường chính. Xây dựng một số cầu vượt tại những vị trí thích hợp. Tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông trên các tuyến đường để kiểm tra, giám sát tình hình, xử lý nghiêm vi phạm. Thành phố còn có quy chế trách nhiệm cho các trường học để bảo đảm an toàn trong các giờ tan trường. Biện pháp 7: Tổ chức lại giao thông tại một số tuyến đường trên địa bàn TP Hà Nội, nhiều ngã ba, ngã tư (kể cả các nút đã được lắp đèn tín hiệu điều khiển giao thông) đã được bịt lại, thay vào đó là các ngã rẽ mới trên dải phân cách giữa, cách các nút giao thông cũ từ 100 - 200 m nhằm giảm thiểu những xung đột về dòng xe, mà chủ yếu là do dòng xe rẽ trái gây ra. Theo cách này, người tham gia giao thông tuy phải đi xa thêm một đoạn nhưng bù lại không phải mất thời gian chờ đèn xanh, đèn đỏ, và quan trọng hơn là không gặp cảnh ùn tắc giao thông thường thấy. Tuy nhiên, việc triển khai các biện pháp cụ thể theo định hướng này đã và đang gặp phải các vướng mắc như đã nêu trên. Như vậy, có thể nói TP Hà Nội đã hết sức cố gắng tìm các biện pháp để góp phần giảm thiểu ùn tắc và TNGT đường bộ và giao thông đô thị. Tuy nhiên, các biện pháp đa áp dụng cũng mới chỉ nặng về giải quyết tình thế, thậm chí có những đề xuất không mang tính khả thi. Vì vậy, vấn đề ùn tắc giao thông tại Hà Nội vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có được giải pháp mang tính đột phá nào để giải quyết trong thời gian hiện nay. 4.3. Các biện pháp do TP Hồ Chí Minh đề xuất. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Với tổng diện tích 2.095,01 km², theo kết quả chính thức điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số thành phố là 7.162.864 người, mật độ 3.419 người/km². Lượng dân cư này tập trung chủ yếu trong nội thành, gồm 5.881.511 người, mật độ lên tới 11.906 người/km². Trong khi đó các huyện ngoại thành chỉ có 1.281.353 người, đạt 801 người/km². Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, TP. Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan Hình 5. Ùn tắc giao thông đô thị tai TP. Hồ Chí Minh. Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng 12 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin trọng của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở TP. Hồ Chí Minh chiếm một tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông khoảng chiếm 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tại hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách ] . Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt Nam về cả diện tích và công suất nhà ga [57] . Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng. Toàn thành phố hiện nay có khoảng 600.000 xe hơi và 4 triệu xe máy. Giao thông đường bộ, thành phố có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Văn Thánh, Miền Tây, Chợ Lớn, Tân Bình - Tây Ninh, Ký Thủ Ôn. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng theo số liệu từ 1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm. Để giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông đô thị, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xem xét và nghiên cứu áp dụng đồng bộ các biện pháp sau đây: Biện pháp 1: Quy hoạch lại hệ thống giao thông của thành phố. Biện pháp 2: Xây dựng các trung tâm điều khiển giao thông. Biện pháp 3: Xây dựng hệ thống giao thông tĩnh. Biện pháp 4: Xây dựng các đầu mối trung chuyển giao thông. Biện pháp 5: Tăng cường mạng lưới VTHK công cộng bằng xe buýt và bố trí lại mạng lưới xe buýt và hạn chế xe buýt hoạt động. Biện pháp 6: Bố trí lệch ca, lệch giờ làm việc. Biện pháp 7: Phân lại luồng xe và tách làn xe chạy. Biện pháp 8: Hạn chế xe cá nhân bằng cách thu phí sử dụng đường bộ. Biện pháp 9: Hạn chế xe Ôtô bằng cách quy định lưu hành ngày chẵn, ngày lẻ. Biện pháp 10: Giảm thiểu ngập lụt do triều cường bằng quy hoạch thoát nước. Với 10 biện pháp nêu trên, có những biện pháp đã được áp dụng và cũng có các biện pháp không mang tính khả thi nên chưa được áp dụng trong những năm qua, song cũng tương tự tại TP Hà Nội, bài toán về giảm thiểu ùn tắc giao thông tại TP Hồ Chí Minh vẫn đang còn bị bỏ ngỏ và trông chờ vào các giải pháp mang tính đột phá và phù hợp với điều kiện hiện nay. 5. Đề xuất các giải pháp mang tính đột phá nhằm giảm ùn tắc và tăng cƣờng ATGT. Theo nhận xét chung, giao thông của Hà Nội hiện nay yếu kém về năng lực thông hành, nghèo nàn về hạ tầng giao thông, trong khi đó tốc độ tăng trưởng rất nhanh của phương tiện tham gia giao thông thay đổi hàng tháng, hàng năm, dẫn đến tình trạng ùn tắc là không thể tránh khỏi. Hiện trạng này còn có nguyên nhân sâu xa đó là do công tác quy hoạch giao thông đô thị từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức, có phần lộn xộn. Theo kết quả quan sát và nghiên cứu của Viện KH&CN GTVT, các đặc điểm riêng mang tính đặc thù của giao thông đô thị tại các đô thị lớn ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở chỗ: Trên hầu hết các tuyến đường giao thông đô thị hiện nay tại Việt Nam, chủ yếu là dòng xe hỗn hợp đi lại trên đường, mọi loại xe đi trên đường đều được bình đẳng, không có bất kỳ sự ưu tiên nào. Có thể khẳng định rằng, nguyên nhân cơ bản nhất của tình trạng ùn tắc giao thông là do dòng xe hỗn hợp gây ra. Duy nhất hiện nay tại Hà Nội mới chỉ có một đoạn đường được tổ chức lại giao thông theo nguyên tắc cấm tất cả xe 2 bánh, chỉ ưu tiên dành cho dòng xe Ô- tô chạy trên đường, đó là đoạn đường qua cầu Thăng Long (tầng trên). Mô hình tổ chức giao thông này – phân luồng dòng xe cơ giới 4 bánh tách khỏi dòng xe 2 bánh, thực chất là xóa bỏ dòng xe hỗn hợp đi chung trên mặt đường, ngay lập tức đã chứng tỏ hiệu quả, trật tự về dòng xe đi lại trên đường đã được thiết lập lại và hiện tượng ùn tắc, chen lấn, luồn lách, lộn xộn về dòng xe trên đường đã chấm dứt kể từ cuối tháng 12/ 2009. Thực tế đã chứng tỏ rằng, các nỗ lực phân làn bằng vạch sơn thời gian qua đều chưa đạt hiệu quả mong muốn, do ý thức chấp hành Luật GTĐB của người tham gia giao thông còn thiếu tự giác, xe máy di chuyển trên đường luôn ở tình trạng luồn lách, lấn cả sang làn đường dành cho xe Ô-tô. Trong khi đó, vào giờ cao điểm, tại hầu hết các nút giao thông, xe Ô-tô lại lấn chiếm cả dải làn xe dành cho người đi xe máy và xe đạp. Ý thức tự giác của người tham gia giao thông còn hạn chế, chỉ chịu phục tùng khi có mặt CSGT hoặc có biện pháp phân làn, phân luồng rõ rệt bằng các dải phân cách cứng. Tình trạng ùn tắc giao thông hiện nay thường xảy ra tại các nút giao thông vào giờ cao điểm. Mức độ và thời gian ùn tắc tại các nút phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố chính Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 13 là diện tích mặt bằng tại nút, phương án tổ chức giao thông tại nút, thành phần xe, lưu lượng xe qua nút, năng lực thông hành của nút, thành phần xe qua nút, việc đặt chế độ điều khiển tự động của hệ thống đèn (nếu có) và ý thức chấp hành Luật GTĐB của những người tham gia giao thông, ... Qua thống kê theo dõi diễn biến số điểm ùn tắc giao thông tăng hàng năm và nhận thấy, số điểm ùn tắc giao thông trong thành phố có dấu hiệu tăng tỷ lệ với số tuyến và số nút giao thông mà có xe buýt đi qua vào giờ cao điểm. Vì vậy, để từng bước khắc phục tình trạng ùn tắc kéo dài do dòng xe hỗn hợp gây ra, Viện KH&CN GTVT đề xuất 3 giải pháp cấp bách mang tính đột phá cần được nghiên cứu áp dụng đồng thời như sau: Giải pháp1: Tổ chức quy hoạch tổng thể về phân luồng giao thông trên toàn bộ các tuyến đường giao thông tại các đô thị lớn ở Việt Nam. Trong đó, mạng lưới đường đô thị tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và TP Đà Nẵng sẽ được phân ra 4 luồng xe chính, với định hướng quy hoạch có các tuyến đường dành riêng cho xe Ô-tô, các tuyến đường dành riêng cho xe mô-tô, xe máy và xe thô sơ. Giải pháp 2: Tổ chức lại giao thông tại các nút có đèn điều khiển. Trong đó, chia ra các sơ đồ mẫu về tổ chức giao thông tại các loại nút giao cắt khác nhau. Về nguyên tắc, ứng với mỗi sơ đồ mẫu, người thiết kế tổ chức giao thông sẽ phải nghiên cứu đề xuất một vài phương án mẫu mang tính định hình về cách phân làn và đặt chu kỳ đèn tại nút một cách hợp lý. Trong đó, các thông số đầu vào là số liệu về dòng xe, về mặt bằng nút, về chu kỳ đèn đang sử dụng và tình trạng ùn tắc xe hiện trạng. Còn số liệu đầu ra của phương án tổ chức giao thông mới tại mỗi loại nút là sơ đồ phân làn xe qua nút, là chu kỳ đèn sau khi được điều chỉnh và hành trình dòng xe khi qua nút. Giải pháp 3: Tiếp tục duy trì và kiểm soát chặt chẽ việc tổ chức phân làn tại các nút có dòng xe hỗn hợp. Theo đó, tiến hành vạch sơn phân định làn dành riêng cho xe Ô-tô và xe 2 bánh trên đoạn dừng xe chờ qua nút dài tối thiểu 100 m. Thực hiện quy định cấm tất cả các xe Ô- tô không được lấn chiếm làn xe máy trên đoạn này và thực hiện chế tài xử lý hành chính các xe Ô-tô cố tình luồn lách từ dưới lên để xếp thành hàng 3, thậm chí hàng 4 tại nút. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng dành cho giao thông còn đang trong giai đoạn đầu tư, cho nên các giải pháp nêu trên cần được nghiên cứu phối hợp đồng bộ với nhau và với các giải pháp khác để góp phần phát huy hiệu quả lập lại trật tự ATGT đô thị trên cơ sở số liệu khảo sát cụ thể và phát huy kỹ năng, kinh nghiệm của người làm công tác thiết kế tổ chức giao thông. 6. Kết luận. Vấn đề giảm thiểu TNGT trên mạng lưới đường bộ Việt Nam và giảm thiểu ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn ở Việt Nam đã và đang trở thành vấn đề cấp bách, được xã hội quan tâm và Chính Phủ Việt Nam chỉ đạo quyết liệt. Việc phân tích nguyên nhân đã được xem xét và nêu khá đầy đủ ở các góc cạnh của nhiều vấn đề, nhiều giải pháp đã được đề ra. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi mà dân số tăng, tăng trưởng phương tiện tham gia giao thông tăng nhanh, trong khi đó ý thức tham gia giao thông của đa số người dân và lái xe còn ở mức độ nhất định và hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ và giao thông đô thị ở Việt Nam đang còn hạn chế do nền kinh tế vừa thoát khỏi mức đói nghèo và mới đang trên đà phát triển, cho nên tiến trình giảm thiểu TNGT và ùn tắc giao thông cần có lộ trình và thời gian, không thể nôn nóng đòi hỏi giải quyết ngay trong một thời gian ngắn. Hy vọng rằng, bằng sự phát triển và tăng trưởng nền kinh tế, dưới sự chỉ đạo của Chính Phủ và kết hợp các thành tựu KH&CN mới, vấn đề TNGT trên các tuyến đường bộ và ùn tắc giao thông đô thị tại các TP lớn ở Việt Nam sẽ dần được giải quyết, góp phần đảm bảo trật tự ATGT và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Doãn Minh Tâm và những người khác. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án phát triển giao thông đô thị Hà Nội, giai đoạn 2005-2010. Viện KH&CN GTVT chủ trì, Hà Nội, tháng 11/ 2005. 2. Doãn Minh Tâm và nhóm nghiên cứu. Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng quy định phân làn đường dành riêng cho xe mô-tô và xe máy phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đề tài KH cấp Bộ GTVT quản lý, Viện KH&CN GTVT chủ trì thực hiện, Hà Nội, 02/ 2008. 3. Doãn Minh Tâm. Nghiên cứu đổi mới tổ chức giao thông đô thị chuẩn bị cho Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - Báo cáo chuyên đề. Viện KH&CN GTVT, Hà Nội, tháng 12/ 2009. 4. Xuân Hương. Hà Nội cần giải pháp tổng thể cho ùn tắc giao thông. Báo Tin tức/ Vietnam, ngày 07/ 01/ 2010. 5. Mạnh Hùng. Năm 2009 xảy ra gần 12 500 vụ TNGT Việt Nam, ngày 12/ 01/ 2010.
File đính kèm:
- tinh_hinh_va_cac_giai_phap_nham_tang_cuong_an_toan_giao_thon.pdf