Thực trạng phát triển nhà ở xã hội cho thuê tại thành phố Hà Nội
Kinh nghiệm tại các nước phát triển trên thế giới đều cho thấy là phát triển nhà ở xã hội
(NOXH) dạng cho thuê là một giải pháp mang tính chiến lược cho phép tăng tối đa cơ hội
tiếp cận nhà ở đến các đối tượng có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội, giúp giải quyết
một cách hiệu quả nhu cầu về nhà ở, đặc biệt là tại các khu vực đô thị lớn. Tuy nhiên, phát
triển NOXH dành để cho thuê tại nước ta nói chung và tại thành phố Hà Nội nói riêng còn
rất nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp bất động sản (BĐS) không mặn mà với việc phát triển
loại hình NOXH này, các dự án phát triển nhà ở cho công nhân, sinh viên sử dụng vốn ngân
sách cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập. Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở, tính
đến năm 2015 quỹ nhà ở cho thuê (bao gồm cả NOXH để cho thuê) trên cả nước chỉ chiếm
khoảng 14% quỹ nhà ở; tại TP. Hà Nội chiếm 14%; tại TP.HCM chiếm 19%; các đô thị loại
1 chiếm 4-6% và các đô thị còn lại chỉ chiếm khoảng 4%
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng phát triển nhà ở xã hội cho thuê tại thành phố Hà Nội
SË 95+96 . 201882 Kinh nghiệm tại các nước phát triển trên thế giới đều cho thấy là phát triển nhà ở xã hội (NOXH) dạng cho thuê là một giải pháp mang tính chiến lược cho phép tăng tối đa cơ hội tiếp cận nhà ở đến các đối tượng có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội, giúp giải quyết một cách hiệu quả nhu cầu về nhà ở, đặc biệt là tại các khu vực đô thị lớn. Tuy nhiên, phát triển NOXH dành để cho thuê tại nước ta nói chung và tại thành phố Hà Nội nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp bất động sản (BĐS) không mặn mà với việc phát triển loại hình NOXH này, các dự án phát triển nhà ở cho công nhân, sinh viên sử dụng vốn ngân sách cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập. Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở, tính đến năm 2015 quỹ nhà ở cho thuê (bao gồm cả NOXH để cho thuê) trên cả nước chỉ chiếm khoảng 14% quỹ nhà ở; tại TP. Hà Nội chiếm 14%; tại TP.HCM chiếm 19%; các đô thị loại 1 chiếm 4-6% và các đô thị còn lại chỉ chiếm khoảng 4%. Khung chính sách phát triển NOXH cho thuê Trước Đổi mới, chính sách nhà ở của nước ta về thực chất cũng là chính sách NOXH nhưng đặt trên cơ sở bao cấp. Từ những năm 1960-1990, tại thành phố Hà Nội rất nhiều các khu nhà ở tập thể để phân phối cho cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang thuê với chi phí khấu trừ vào lương. Tuy nhiên, do tiêu chuẩn thiết kế còn thấp, giải pháp thiết kế chưa linh hoạt nên các khu nhà tập thể này đã bộc lộ nhiều vấn đề mà cho đến nay vẫn chưa giải quyết được. Một số KTT được xây dựng trong giai đoạn này như: Kim Liên, Trung Tự, Thanh Xuân, Giảng Võ, Trương Định, Tân Mai Sau 1991, Chính phủ xóa bỏ bao cấp về nhà ở và cho phép người dân, cán bộ, công nhân tự xây dựng nhà ở cho mình. Một số khu đô thị mới được quy hoạch, xây dựng đồng bộ tại Hà Nội như Linh Đàm, Định Công. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, để giải quyết các vấn đề trước mắt về nhà ở, thành phố chủ yếu phát triển các loại hình nhà chia lô, căn hộ chung cư để bán theo cơ chế thị trường, các loại hình NOXH chưa được chú ý phát triển. tại thành phố Hà Nội Thực Trạng pháT Triển nhà ở xã hội cho Thuê & Tác giả QuY hoạch TS.KTS. Lê Thị Bích Thuận* TS.KTS. nguYễn Trung Dũng** 83SË 95+96 . 2018 Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Nhà ở, quy định cụ thể về các hình thức phát triển nhà ở, bao gồm: Phát triển nhà ở thương mại (do doanh nghiệp, tổ chức đầu tư theo dự án); Phát triển nhà ở riêng lẻ (cá nhân, hộ gia đình tự xây); Phát triển NOXH để cho thuê, thuê mua, để bán; Phát triển nhà ở công vụ (cho cán bộ, công chức luân chuyển công tác); Hỗ trợ, tạo điều kiện cải thiện nhà ở cho các đối tượng diện chính sách xã hội. Lần đầu tiên, khái niệm NOXH đã được đưa ra một cách chính thức và Luật Nhà ở đã dành riêng một mục quy định về phát triển NOXH (Chương III, Mục 4, gồm 13 điều từ điều 45÷57). Tiếp theo, giai đoạn 2008-2009 hàng loạt chính sách ra đời: Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 20/04/2009 về một số cơ chế chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên, các cơ sở đào tạo và nhà ở công nhân khu lao động tập trung, người TNT tại các đô thị; các Quyết định 65/2009/ QĐ-Ttg, 66/2009/QĐ-Ttg, 67/2009/QĐ-Ttg triển khai nghị quyết trên cho các đối tượng tương ứng. Trong đó, chính sách NOXH cho thuê được gắn liền và nằm trong các nội dung văn bản về NOXH nói chung. NOXH cho công nhân (NOCN), sinh viên (NOSV), người thu nhập thấp đã được chính phủ quan tâm phát triển với sự ra đời của Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên và nhà ở cho công nhân trong các khu công nghiệp (KCN) tập trung, người có thu nhập thấp tại các đô thị cũng như trong các văn bản khác về quản lý phát triển các KCN. Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 30/11/2011, vấn đề NOXH được định hướng giải quyết một cách cụ thể, theo đó NOXH được xác định là nhà ở thị trường phi hàng hóa có sự hỗ trợ của nhà nước để giảm giá thành, giúp cho các đối tượng chính sách, người nghèo, thu nhập thấp, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, công nhân, sinh viên không có khả năng chi trả theo cơ chế thị trường có điều kiện cải thiện chỗ ở. Kết quả của chính sách này là sự ra đời của hàng loạt dự án NOXH do các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội và cả nước. Trong đó, tiêu biểu là dự án khu NOXH Đặng Xá - Gia Lâm do Tổng công ty Vigracera, Bộ Xây dựng đầu tư. Tuy nhiên, số lượng căn hộ để cho thuê còn hạn chế, chủ yếu là hình thức bán đứt hoặc cho thuê mua. Sự hạn chế trong chính sách phát triển nhà ở cho thuê của Nhà nước được bù lấp bởi một thị trường nhà thuê tự phát do các hộ gia đình, cá nhân đầu tư vận hành tại các đô thị lớn, điển hình là Hà Nội và TP.HCM. Thực trạng đầu tư phát triển một số loại hình NOXH cho thuê trên địa bàn Quỹ nhà ở cho công nhân Nhà ở công nhân được đầu tư tập trung tại các KCN. Hiện nay, có 04 khu với diện tích đất khoảng 135.999m2 cung cấp 215.062m2 sàn xây dựng đảm bảo chỗ ở cho 2.407 cá nhân, hộ gia đình c ... c tiếp đến hiệu quả phát triển NOXH của thành phố trong thời gian qua. Các vấn đề tồn tại bao gồm: q Chưa có quy định tỷ lệ % đất ở dành để phát triển nhà xã hội khi lập, thẩm duyệt quy hoạch chung,quy hoạch phân khuDo đó dẫn đến thiếu tính chủ động khi bố trí quỹ đất, đề xuất dự án xây dựng NOXH đáp ứng nhu cầu theo đúng chương trình, kế hoạch đặt ra. q Công tác giải phóng mặt bằng quỹ đất 20% phụ thuộc vào tiến độ giải phóng mặt bằng chung của dự án. Việc buông lỏng quản lý nhà nước trong khâu xét duyệt phương án quy hoạch chi tiết 1/500 đã bị một số CĐT lợi dung, cố tình bố trí quỹ đất dành cho NOXH vào các khu vực khó giải phóng mặt bằng nhất trong dự án (các khu vực dân cư hiện hữu, khu nghĩa trang) khiến cho việc bàn giao quỹ đất gặp nhiều khó khăn. n Tồn tại trong công tác đầu tư xây dựng n Đối với nhà ở cho học sinh, sinh viên q Quỹ nhà ở cho sinh viên hiện nay là chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn về nhà ở cho gần 300.000 sinh viên trên địa bàn thủ đô. Các Khu ký túc xá của các trường đại học hiện nay mới đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu, phần còn lại phải đi thuê trọ tại các khu nhà ở cho người dân tự đầu tư xây dựng. q Phát triển nhà ở cho sinh viên chủ yếu vẫn dựa vào nguồn vốn ngân sách của TW thông qua Bộ Giáo dục đào tạo và ngân sách của thành phố, xã hội hóa trong phát triển nhà ở sinh viên gặp nhiều khó khăn, trên địa bàn thành phố chỉ có duy nhất 01 dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách, do doanh nghiệp đầu tư. q Việc Quy hoạch các khu KTX tập trung sử dụng ngân sách nhà nước được đầu tư khá bài bản tuy nhiên một số dự án khu KTX việc lựa nghiên cứu dự án tiền khả thi chưa hợp lý khi đánh giá nhu cầu thuê nhà và việc xác định vị trí quy hoạch, đã khiến cho lượng sinh viên thuê không đạt được mục tiêu (điển hình là dự án khu NOSV Pháp Vân). \n Đối với nhà ở cho công nhân trong các KCN tập trung Mặc dù đã có các cơ sở pháp lý cho việc phát triển nhà ở cho người lao động gắn với quy hoạch các KCN như nêu trên, quá trình đầu tư xây dựng các khu nhà ở công nhân KCN còn rất hạn chế do thiếu các hướng dẫn cụ thể về cơ chế chính sách đầu tư, giải pháp thiết kế quy hoạch, xác định quỹ đât, quản lý khai thác sử dụng. Việc Quy hoạch các khu NOCN vẫn chưa là yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý đối với các chủ đầu tư khu công nghiệp tập trung, do vậy vẫn còn tình trạng né tránh trách nhiệm của chủ đầu tư, doanh nghiệp và đẩy trách nhiệm sang cho chính quyền thành phố. n Đối với NOXH cho thuê theo dạng dự án NOXH q Các khu NOXH cho thuê tại địa bàn thành phố chủ yếu được quy hoạch tích hợp trong các dự án NOXH theo quy định phải dành 20% quỹ NOXH để cho thuê. Do vậy số lượng các căn hộ NOXH cho thuê còn rất hạn chế. Chủ đầu tư các dự án NOXH chưa thực sự quan tâm phát triển loại hình NOXH này mà chủ yếu là đối phó với quy định chung. Đã có hiện tượng, tại một số khu NOXH các căn hộ dành để cho thuê bị bỏ không và không vận hành chờ chuyển đổi sang nhà bán. n Tồn tại trong công tác quy hoạch, thiết kế Chất lượng nhà ở trong các khu nhà ở công nhân do chủ đầu tư trong nước xây dựng còn tương đối thấp; các tiện ích phục vụ, hạ tầng xã hội còn thiếu. Một số khu KTX, bên cạnh nhà ở, các tiện ích phục vụ, vui chơi giải trí, học tập còn chưa được đầu tư cũng khiến cho các khu KTX không hấp dẫn được sinh viên Trang thiết bị nội thất căn hộ còn đơn giản, chưa tiện nghị; loại hình phòng cho thuê còn đơn điệu. q Các dự án NOXH độc lập xây dựng trong thời gian gần đây được quy hoạch khá tốt; chú trọng đến phát triển không gian sống và tiện ích phục vụ. Tuy nhiên còn nhiều dự án chưa chú trọng đầu tư các dịch vụ tiện ích phục vụ đời sống và văn hóa tinh thần của công nhân. q Phần lớn các dự án được quy hoạch tại vị trí ven đô, nhằm giảm chi phí đất đai nên khiến cho chi phí đi lại của người sử dụng tăng cao. q Việc kết nối hạ tầng giao thông công cộng đến các dự án NOXH còn khó khăn. q Bố trí các căn hộ cho thuê trong các dự án NOXH độc lập tương đối tốt về mặt công năng sử dụng nhưng cần chú trọng hơn đến thói quen lối sống của công nhân, khi đại bộ phận là lao động đến từ các khu vực ngoại thành. n Tồn tại trong công tác quản lý, vận hành q Về công tác quản lý vận hành Thực hiện các quy định tại Nghị định 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật nhà ở, quy định về phân cấp quản lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước: q Đại diện cơ quan địa diện chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước: UBND Thành phố Hà Nội; q Đại diện cơ quan quản lý nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước tại địa phương: Sở Xây dựng Hà Nội; q Đơn vị quản lý vận hành nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước: vào thời điểm hiện tại, Công ty Nhà và Ban Quản lý nhà ở và công sở là đơn vị quản lý vận hành theo hình thức giao nhiệm vụ tuy nhiên theo quy định của pháp luật có thể được thực hiện lựa chọn thông qua đấu Quy hoπch & t∏c gi∂ SË 95+96 . 201890 thầu hoặc đấu thầu lựa chọn đơn vị cung ứng dịch vụ quản lý vận hành. Bên cạnh đó, tại khoản 2 điều 42 nghị định 99/2015/ NĐ-CP có quy định “2. Thực hiện cho thuê và quản lý việc sử dụng nhà ở theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành ký kết với cơ quan quản lý nhà ở”. Tồn tại: Căn cứ theo điều 41, Nghị định 99/2015/NĐ-CP, quy định về quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước thì Sở Xây dựng tại địa phương phải đảm nhiệm những 12 nhiệm vụ liên quan đến công tác vận hành tòa nhà. Tuy nhiên, với định biên công chức và phân công nhiệm vụ của các phòng chuyên môn thì một số nội dung công tác khó có thể hoàn thành được. Do vậy, nên xem xét bổ sung một bộ phận trực thuộc Sở có chức năng, nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo Sở trực tiếp quản lý thực hiện các công tác trên (mô hình Chi cục quản lý nhà hoặc Ban quản lý nhà) đối với các địa phương có nhiều nhà thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài ra, với khu NOCN, việc chấp thuận đối tượng thuê nhà thực hiện theo quy định tại nghị định 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 và thông tư số 19/2016/TT- BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng thì các hồ sơ thuê nhà của công nhân, sinh viên đều phải được chuẩn bị đầy đủ theo quy định tại điều 14 và xét duyệt theo trình tự tại điều 16 của thông tư này. Việc xét duyệt có thể mất nhiều thời gian và bất cập trong công tác đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho sinh viên, công nhân do khó có thể có đầy đủ giấy tờ chứng minh ngay khi mới lên công tác, học tập. Cơ quan giúp việc này có thể thay mặt Cơ quan quản lý nhà tại địa phương để thực hiện công tác kiểm tra, xét duyệt hồ sơ nhanh gọn theo ủy quyền hoặc giao nhiệm vụ. q Về công tác bảo trì công trình. Hiện nay, công tác bảo trì công trình được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng vàThông tư số 26/2016/TT- BXD ngày 26/10/2016 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng tuy nhiên khi áp dụng còn tồn tại không ít khó khăn về sự tương thích giữa các từ ngữ quy định tại hệ thống Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và các văn bản hướng cụ thể. q Đối với nhà thuộc sở hữu nhà nước, theo quy định tại Luật Nhà ở phân biệt 03 khái niệm: Chủ sở hữu – Đại diện chủ sở hữu; Cơ quan quản lý nhà ở; Đơn vị quản lý vận hành. q Đối với nhà thuộc sở hữu nhà nước, theo quy định tại Luật Xây dựng phân biệt 03 khái niệm: Chủ sở hữu – Đại diện chủ sở hữu; Người quản lý sử dụng. Trên thực tế, khái niệm Chủ sở hữu – Đại diện chủ sở hữu tương đối rõ ràng và đối với các công trình nhà của nhà nước thì UBND Thành phố là đại diện. Tuy nhiên, vai trò Chủ Đầu tư – Đại diện Chủ đầu tư chỉ xuất hiện rõ nét trong khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình và thường kết thúc khi thanh quyết toán và bảo hành công trình. Nhiều quy định tại các văn bản hướng dẫn Luật Nhà ở yêu cầu các đơn vị Chủ đầu tư phải thực hiện một số nhiệm vụ của giai đoạn sau đầu tư thì chưa tương thích với các mô hình Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng hiện nay, còn các đơn vị được giao quản lý sau đầu tư thực hiện thì lại chưa phù hợp với luật và các văn bản hướng dẫn. Ngoài ra, khái niệm người quản lý sử dụng công trình trong Nghị định 46 liên hệ sang Nghị định 99 được hiểu là rất nhiều khái niệm: công tác quản lý do cơ quan quản lý nhà ở và đơn vị quản lý vận hành; người sử dụng có người sử dụng trực tiếp (người thuê nhà) và người tổ chức khai thác sử dụng (đơn vị quản lý vận hành hoặc cơ quan quản lý nhà). n Việc không đồng bộ các khái niệm dẫn đến lúng túng trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện kế hoạch bảo trì hàng năm của công trình.Trong các văn bản quy phạm pháp luật thời gian tới cần làm rõ và đồng bộ các chủ thể tham gia trong công tác đầu tư xây dựng, vận hành và bảo trì công trình. Theo quy định pháp luật hiện hành các công trình xây dựng khi bàn giao đưa vào sử dụng đều phải có quy trình bảo trì được duyệt. Công tác lập quy trình bảo trì do tư vấn thiết kế lập khi thực hiện thiết kế cơ sở hoàn thiện khi thiết kế kỹ thuật. Các thiết bị lắp đặt trong công trình quy trình do các nhà thầu cung cấp thiết bị bổ sung sau khi lắp đặt. Như vậy, hệ thống quy trình bảo trì không được đồng bộ và không do một đầu mối xây dựng, kiểm tra dẫn đến phần lớn quy trình bảo trì không được thẩm định, phê duyệt (chủ yếu do Chủ đầu tư đóng dấu). Việc không phân định rõ trách nhiệm lập, thẩm định, phê duyệt quy trình bảo trì dẫn đến sự không đồng bộ giữa các công trình khác nhau và chất lượng hồ sơ của quy trình bảo trì vô cùng kém. Đây là đầu Quy hoπch & t∏c gi∂ 91SË 95+96 . 2018 vào quan trọng dẫn đến chất lượng kế hoạch bảo trì hàng năm thường không đáp ứng được yêu cầu có tính chất dự báo các hư hỏng mà chủ yếu là sửa chữa các hư hỏng đã được phát lộ ra bên ngoài. Về khái niệm bảo dưỡng công trình: Tại thông tư số 02/2016/TT-BXD ngày 15/02/2016 của Bộ Xây dựng ban hành Quy chế quản lý, sử dụng nhà chung cư thì chi phí bảo dưỡng thường xuyên được xác định thuộc về chi phí quản lý vận hành tuy nhiên theo Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng thì chi phí bảo dưỡng định kỳ thuộc chi phí bảo trì công trình. Hai chi phí này cấu thành giá dịch vụ quản lý vận hành và giá cho thuê nhà được thực hiện theo các quy định khác nhau nên cần phải phân biệt rõ để các đơn vị áp dụng. Hiện nay, chưa có định nghĩa cụ thể nào về hai khái niệm này. n Nhận thức của chính quyền, doanh nghiệp và thói quen tâm lý người thuê nhà q Chính quyền: Chính quyền trung ương tập trung chủ yếu vào ban hành các cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển NOXH nói chung, nhà ở cho công nhân và sinh viên, chính sách phát triển NOXHCT cho nhóm đối tượng thu nhập thấp còn khá mờ nhạt. Chính quyền cấp địa phương chưa nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong phát triển NOXHCT. q Doanh nghiệp BĐS: Tập trung vào phát triển nhà ở thương mại giá rẻ để thu hồi vốn nhanh và NOXH để tận dụng các ưu đãi của Chính Phủ, địa phương. Doanh nghiệp không mặn mà với phát triển NOXHCT do lợi nhuận thấp, chậm thu hồi vốn đầu tư và chi phí quản lý vận hành lớn, quá trình quản lý vận hành tòa nhà tiềm ẩn nhiều rủi ro về mặt pháp lý.Việc phát triển quỹ NOXHCT tại các dự án NOXH hiện nay còn mang tính đối phó với các quy định pháp luật, thiếu thực chất. q Doanh nghiệp sử dụng lao động, chủ đầu tư các KCN: Có tâm lý ỷ lại vào Nhà nước và Chính quyền địa phương, chưa nhận thức rõ trách nhiệm và lợi ích của mình trong việc bảo đảm nhà ở cho người lao động để tái sản xuất sức lao động, ổn định sản xuất. q Người dân: Chưa quen với việc thuê nhà ở, suy nghĩ truyền thống luôn coi trọng việc sở hữu ngôi nhà như một tài sản đảm bảo lâu dài./. * Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng ** Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia
File đính kèm:
- thuc_trang_phat_trien_nha_o_xa_hoi_cho_thue_tai_thanh_pho_ha.pdf