Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050

Hà Nội có 1350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 257 làng được

Thành phố công nhận là làng nghề. Theo Quy hoạch phát triển nghề,

làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm

2030 của Hà Nội được Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội phê duyệt

tại Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 2/1/2013, đây là những mô hình

“trụ đỡ” trong xây dựng kinh tế ngoại thành

 

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050 trang 1

Trang 1

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050 trang 2

Trang 2

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050 trang 3

Trang 3

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050 trang 4

Trang 4

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050 trang 5

Trang 5

pdf 5 trang viethung 3880
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050

Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong định hướng phát triển Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050
SË 99 . 201990
& TÁC GIẢ 
QUY HOẠCH
ThS.KTS. NGUYễN ANH VUõ
Giảng viên bộ môn Quy hoạch vùng Khoa Quy hoạch đô thị & nông thôn - Đại học Kiến trúc Hà Nội
Khái quát các đặc trưng của làng nghề
Hà Nội có 1350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 257 làng được 
Thành phố công nhận là làng nghề. Theo Quy hoạch phát triển nghề, 
làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 
2030 của Hà Nội được Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội phê duyệt 
tại Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 2/1/2013, đây là những mô hình 
“trụ đỡ” trong xây dựng kinh tế ngoại thành. 
Trong thực trạng phát triển kinh tế và đô thị hiện nay, việc đô thị hóa 
ngày càng nhanh và tỉ trọng đất nông nghiệp giảm mạnh khiến những 
hộ nông dân không còn đất canh tác trở nên lạc lõng và thất nghiệp 
trên chính quê hương của mình. Trong quá trình này, “làng nghề” chính 
là hình thái phát triển phù hợp và có tiềm năng cho các vùng nông thôn 
và các khu vực ven các đô thị lớn. Hình thức “làng nghề” không phải là 
nét riêng của Việt Nam. Thực ra, nền kinh tế Việt Nam qua các triều 
đại đều lấy canh tác nông nghiệp làm gốc rễ, mọi làng quê đều làm 
nông. Chế tác sản phẩm thủ công và trao đổi hành hóa, buôn bán là 
hoạt động trong lúc nông nhàn và tạo ra các sản phẩm hỗ trợ đời sống 
xã hội. Chính các mối quan hệ kinh tế, văn hoá và cảnh quan đã hình 
thành nên vùng trung tâm đồng bằng Sông Hồng thống nhất và cân 
bằng, trong đó các làng xa xôi vẫn là một thành phần quan trọng của 
đô thị Hà Nội (theo TS.KTS. Trần Nhật Kiên). Muốn thấu hiểu Hà Nội 
thì không thể đặt thành phố tách rời với những làng mạc xung quanh. 
Làng nghề là bộ phận cấu thành nên đô thị Hà Nội. “Làng” là cấu trúc 
tự cung tự cấp, đầy đủ hạ tầng cho một nhóm người nhất định, chợ, 
khu vực canh tác, không gian công cộng, nguồn nước (giếng làng), tín 
ngưỡng tôn giáo, văn chỉ... Không gian cư trú này khép kín, bao bọc 
lẫn nhau. Các khối dân cư này tự quản lý gọn ghẽ và nằm trên mạng 
lưới phân bố đều đặn xung quanh cánh đồng lớn, giữ một khoảng vừa 
đủ gần để đi bộ, cũng vừa đủ xa để có khoảng đệm cách ly.
Phố cổ Hà Nội là loại hình khá độc đáo trên thế giới, khi mỗi tuyến 
phố đều gắn liền với một phường hội buôn bán và làm nghề thủ công. 
Ngày nay, dù nhiều nơi không còn giữ nghề cũ nữa, nhưng những tấm 
biển tên của những con phố cũ và phố cổ Hà Nội vẫn là bằng chứng 
về một thành phố sầm uất mà Samuel Baron đã miêu tả: “Hoạt động 
náo nhiệt hơn hầu hết các thành phố khác ở châu Á”. Khu vực Kẻ 
Chợ - khu chợ lớn nhất, là khu 36 phố phường mà ta biết đến ngày 
nay cũng từng được chính Samuel Baron nhắc đến “ngày có phiên 
chợ chính, khi dân từ các làng lân cận đổ về đây với các loại hàng hóa 
nhiều vô kể”. Theo TS.KTS. Nguyễn Quốc Thông, trong “Lịch sử Hà 
Nội: thành phố trong lòng mỗi khu phố” có đề cập về cấu trúc khu vực 
các phường buôn bán tại Ha Nội như sau: “Thông thường, mỗi phường 
đều tập trung những cư dân đến từ một làng. Bản thân họ khi chuyển 
lên thành phố sinh sống cũng mang theo không chỉ lối sống, phong 
tục của mình mà cả những kỹ thuật xây dựng truyền thống. Vì vậy, 
cách tổ chức phường đô thị hoàn toàn khép kín (bằng những cánh 
cổng lớn) giống như những ngôi làng truyền thống.”.
Các giai đoạn biến đổi của làng nghề thủ công
Dựa theo quá trình phát triển làng nghề từ giữa thế kỷ 20 đến, có thể 
tạm chia thành 4 mốc thời gian chính như sau: 
Giai đoạn 1954–1986: Từ khi miền Bắc Việt Nam độc lập, nhà nước 
ta đã triển khai nền kinh tế tập trung với mục tiêu lớn nhất là xây 
dựng lại sau chiến tranh và chi viện cho miền Nam. Giai đoạn này, 
hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội như trường học, y 
Vai trfl
CỦA LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG 
TRONG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 
NĂM 2030, TẦM NHÌN 2050
91SË 99 . 2019
tế được chú trọng xây dựng. Giữa những năm 1960, 
Hà Nội chuyển từ thành phố tiêu thụ sang thành phố 
sản xuất, bắt đầu xuất hiện nhiều nhà máy và khu tập 
thể trên các khu đất trống, ruộng trũng ở xung quanh 
vành đai La Thành và vành đai sông Tô Lịch. Các làng 
nghề lúc này vẫn sản xuất thủ công theo cách truyền 
thống. Với mục tiêu tiến lên sản xuất công nghiệp và 
cung ứng đủ lương thực cho cả nước, nhà nước hầu 
như chỉ tập trung vào các nhà máy quốc doanh và các 
nông trường, lâm trường. Ở các xã huyện thì thành lập 
hợp tác xã, tổ chức này thành đầu mối thương mại và 
đại diện cho nông dân trong việc buôn bán và hợp tác. 
Tuy nhiên, nền kinh tế tập trung này không phù hợp với 
sản xuất sản phẩm thủ công, nhất là trong giai đoạn 
cần sản xuất lấy số lượng hơn là tạo ra những tác phẩm 
có giá trị cao. Trong bối cảnh đó, việc sản xuất cá nhân 
hoàn toàn bị cấm. Các nghề truyền thống có hai nhánh 
rẽ chính: hoặc là giảm thiểu cho tới dừng hẳn (nhất là 
các sản phẩm vô ích với công cuộc chiến tranh), hoặc 
là phát triển nhanh chóng và được định hướng bởi nhà 
nước, dứoi hình thức các hợp tác xã thủ công nghiệp 
(FANCHETTE, 2016). Từ khi thống nhất đất nước cho 
đến năm 1986, nền kinh tế tập trung này đã bộc lộ 
nhiều khuyết điểm và bị thay thế bởi chính sách Đổi 
Mới năm 1986. Trong quá trình này ... 2018)
Giả thuyết về sự phát triển của phố cổ Hà Nội
(Nguồn: R. ORFEUVRE, 2015 d’après TIBOR ALEXY et LUONG TU QUYÊN (chữ
nhỏ), 1998 in : fanchette (dir) 2015), p. 48
SË 99 . 201992
Giai đoạn đầu thế kỷ 21: Đây là giai đoạn 
nhà nước đưa ra nhiều chính sách bảo tồn 
làng nghề và phát triển sản phẩm thủ công, 
tuy nhiên trong thời kỳ được coi là phát triển 
kinh tế nóng hổi này, thị trường chưa mặn 
mà với các sản phẩm truyền thống. Sức mua 
mạnh nhưng nhu cầu của người mua hướng 
đến những sản phẩm giá rẻ, bắt mắt, có tuổi 
thọ sử dụng cao. Thậm chí, nhiều sản phẩm 
thiết yếu giai đoạn trước bị thay thế dần bằng 
sản phẩm công nghiệp, như đồ thờ sơn thếp, 
khuôn gỗ làm bánh bị thay thế bằng đồ nhựa 
công nghiệp, dệt vải lụa thay dần bằng buôn 
bán vải pha sợi tổng hợp. Các làng nghề có 
sản phẩm giá thành vừa phải như đồ gốm, 
chổi lông gà lông vịt nhưng cũng thay đổi 
hướng kinh doanh: Bát Tràng tập trung vào 
phát triển du lịch, cho ra nhiều dòng sản 
phẩm lưu niệm từ giá rẻ đến tinh xảo đắt tiền; 
Triều Khúc thu hẹp không gian làm nghề, vẫn 
tiếp tục thu mua phụ phẩm từ các nơi khác để 
tái chế, chuyển hướng sang làm đồ nhựa và 
thủy tinh, phân loại lông gà lông vịt để xuất 
khẩu là chính. Trong giai đoạn phát triển kinh 
tế này, thị trường trong nước không mấy mặn 
mà với các sản phẩm truyền thống giá trị cao. 
Trong khi đó, thị trường nước ngoài lại ngày 
được mở rộng cho các mặt hàng truyền thống 
mang tính nghệ thuật này. Thời điểm đó, các 
chính quyền địa phương đã đưa ra chính sách 
nhằm tạo dựng các điểm công nghiệp làng 
nghề tập trung, tạo thuận lợi cho hoạt động 
sản xuất lớn. Các hoạt động sản xuất thủ công 
công nghiệp này thường có chi phí giá thành 
không đắt và phổ biến tại thị trường giá rẻ. Mặt 
khác, sự đơn giản hoá tiếp cận quỹ đất đối với 
các hộ làm nghề thủ công đã gây ra tình trạng 
lấn chiếm, xây dựng nhà ở ngay trong các 
điểm công nghiệp này (FANCHETTE, 2016) 
Giai đoạn ổn định kinh tế từ năm 2010 đến 
nay: Sau giai đoạn phát triển nóng và phục 
hồi sau khủng hoảng kinh tế, sức mua và 
nhận thức xã hội cũng thay đổi ít nhiều, bắt 
đầu hướng đến các sản phẩm tốt, tinh xảo, 
ngoài khả dụng còn mang ý nghĩa sưu tầm, 
trang trí. Giai đoạn này, Chính phủ đã đưa 
ra hàng loạt chính sách nhằm bảo tồn, phát 
huy các làng nghề, sản phẩm nghề thủ công 
truyền thống. Theo báo cáo của UBND TP 
Hà Nội, trong khoảng từ năm 2009–2015, 
chính quyền đã thành công trong việc hỗ 
trợ các hoạt động làm nghề thủ công, nâng 
cao năng suất và chất lượng của sản phẩm. 
Nỗ lực của thành phố Hà Nội trong lĩnh vực 
này có thể kể tới như: Xây dựng 6 điểm công 
nghiệp, tăng cường hoạt động đào tạo nghề, 
tổ chức, quảng bá hoạt động thương mại và 
triển lãm nghề thủ công truyền thống. Tuy 
nhiên, các đồ án quy hoạch hiện đại, trên lý 
thuyết, khuyến khích phát triển “làng nghề” 
bên cạnh các làng thuần nông, thậm chí có 
thể là hình thức hoạt động thay thế cho làng 
thuần nông đã mất ruộng đất sau đô thị hóa. 
Làng nghề dần trở thành một hình thức kinh 
tế vừa tạo nguồn thu cho nông dân, đóng 
góp vào sự phát triển kinh tế cho Thành phố, 
vừa thu hút lao động đáp ứng được mục tiêu 
chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang hướng tăng 
dịch vụ và công nghiệp. Đề án Quy hoạch 
phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội 
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 
có tham vọng tạo ra một lớp doanh nhân trẻ 
- những người trí thức trở về vùng quê của 
mình sau khi tốt nghiệp đại học, dùng kiến 
thức để thay đổi cách vận hành kinh tế vùng 
Bản đồ các làng nghề thuộc Hà Nội và Hà Tây
(Nguồn : Jica Mard 2000, enquêtes Casrad / IRD 2006 Conception S. FANCHETTE/M.
PASCHIER - Hanoi, future métropole – Rupture de l’intégration urbaine des villages future 
métropole, p.155 – Dịch : ThS.KTS. Nguyễn Anh Vũ)
93SË 99 . 2019
Quy hoπch & t∏c gi∂ 
nông thôn, chuyển đổi dần dần những hộ gia đình làm nghề thành các 
doanh nghiệp nhỏ (PME16) có thương hiệu.
Các làng nghề có vị trí phát triển chiến lược trong xu thế phát triển 
chung của toàn thành phố Hà Nội. Trong tương lai, chắc chắn sẽ có 
ngày càng nhiều sự xung đột giữa sự mở rộng ngày càng lớn của đô thị 
và sự tồn tại của vành đai các làng nghề truyền thống này.
Sự xung đột này không chỉ thể hiện trong vấn đề cảnh quan đô thị và 
sự tích hợp của các dự án đô thị mới xung quanh làng xóm cũ mà nó 
còn được thể hiện qua những lợi ích đối lập của các bên tham gia và bị 
ảnh hưởng bởi dự án, giữa các giai cấp khác nhau trong xã hội mà các 
cuộc chạy đua nhà đất tại các không gian đô thị mở rộng tại Hà Nội là 
một phần điển hình cho xung đột này.
Thách thức trong phát triển đô thị tại các làng nghề 
thủ công truyền thống ven
đô tại Hà Nội 
a) Quy hoạch sử dụng đất đai và sự hình thành của các siêu dự án
Trong giai đoạn triển khai xây dựng chương trình nhà ở quốc gia do Bộ 
Xây dựng thực hiện từ năm 1975 đến năm 1985, tại Hà Nội, mỗi năm 
xây dựng 80.000 ngôi nhà ở KTT hoặc khu tập thể, các đơn vị nhà 
ở tập thể chủ yếu dành cho công chức. Sau đó, con số này đã giảm 
xuống còn 40.000 vào năm 1986. Mặc dù sản lượng nhà ở tại Thủ đô 
trong suốt ba mươi năm của nền kinh tế tập thể không đủ, phần lớn là 
do tăng gấp đôi dân số, nhưng cũng do nhiều sự phá hoại trong quá 
trình đánh bom trong những năm 1966 và 1972. Vào cuối những năm 
1980, khi đối mặt với tình trạng nhà nước không có khả năng cung cấp 
quyền nhà ở được trợ cấp cho công chức (khoảng 30% tổng số nhân 
viên điều hành và nhân viên chính phủ ở trong khu nhà ở công cộng) 
và tình trạng xây dựng ồ ạt và không kiểm soát được lan tràn dấn đến 
sự phát triển của một thị trường chợ đen buôn bán các lô đất xây dựng. 
Hệ thống khung cứng nhắc về quản lý phi thị trường đối với việc sử 
dụng đất không thể theo kịp nhu cầu nhà ở ngày càng tăng cùng một 
công thức hỗn hợp về xây dựng nhà ở sau đó được nhà nước “và nhà 
nước cùng xây dựng” đánh dấu quá trình chuyển đổi từ một hệ thống 
quy hoạch sang một hệ thống thúc đẩy sáng kiến cá nhân được đóng 
khung bởi các dịch vụ công.
Một thách thức đáng kể nữa là ở khía cạnh luật pháp. Luật Đất đai 1993 
và các nghị định, Luật Đất đai sửa đổi sau đó phải hợp thức hóa nhiều 
khu đất trống bị lấn chiếm. Ví dụ như trong Luật Đất đai sửa đổi năm 
2003, đất đai không có giấy tờ nhưng đã ở ổn định trước năm 1993, 
không có tranh chấp và phù hợp với các quy hoạch được xem xét hợp 
thức hóa. Việc chấp nhận hợp thức hóa đất đai này nghiêng về khía 
cạnh ổn định xã hội, tránh những can thiệp mạnh tay gây tranh chấp 
giữa nhà nước và người dân trong tình thế sự đã rồi, hơn là mục đích 
quy hoạch hay thiết kế đô thị. Các quy hoạch treo cũng là cơ hội để 
người dân tự lấp kín đất đai. Ví dụ như quy hoạch hồ đua thuyền ở bên 
cạnh bệnh viện Thể thao và sân vận động Mỹ Đình Những sự việc đã 
xảy ra là đề bài của những bài toán quy hoạch và chính sách trong 
tương lai, làm nên sắc thái bản địa của mỗi khu vực. So với hai thập kỷ 
trước, kinh tế của Việt Nam hiện nay đã phát triển vượt bậc, kéo theo 
những thay đổi về nhận thức xã hội. Nhìn chung, người ta không còn 
thông cảm, nhìn nhận việc chiếm dụng đất đai như một hành vi sinh 
tồn, để tìm kiếm cơ hội trong đô thị nữa. Lúc này có thể là thời điểm 
thích hợp để cách thức quản lý đất đai.
SË 99 . 201994
b) Sự chuyển đổi về không gian sản xuất của mỗi gia đình
Theo truyền thống, các bí quyết nhà nghề được cất giấu cẩn thận, chỉ 
truyền cho người nhà. Không gian làm nghề và không gian gắn kết gia 
đình có thể là vấn đề then chốt trong việc duy trì nghề gia truyền. Từ 
việc thờ cúng tổ tiên gia đình, tổ nghề, các lễ cầu tài lộc cho nghề phát 
triển, người làm nghề được no ấm, đến những nơi mà người trong gia 
đình có thể vừa làm việc vừa nói chuyện với nhau. “Nghề” và những 
tâm tư thường nhật hòa quyện, gắn bó, không còn sự phân biệt.
c) Sự biến đổi không gian bao quanh làng đến từ hoạt động cho thuê 
nhà ở tại các làng đô thị hoá.
Các khu đô thị mới xây dựng với cơ sở vật chất hạ tầng theo tiêu 
chuẩn, đường xá, vỉa hè rộng rãi. Ngược lại, các làng xóm hiện hữu 
trong đô thị phát triển trên những con đường cũ nhỏ bé. Sự tiếp giáp 
giữa hai không gian này không khỏi gợi lên cho chúng ta nhiều suy 
nghĩ về khoảng cách kinh tế. Khi một dự án quy hoạch được thực 
hiện, những người đầu tiên được hưởng lợi là những người sống ở 
rìa làng, nơi những đường lớn mới mở đi qua. Họ mất một phần đất 
đai, nhưng bù lại miếng đất đó có vị thế kinh doanh thuận lợi. Rìa 
của làng cũ, nơi trông ra khu đô thị đang xây dựng, sẽ phát triển 
những dịch vụ dân sinh và hàng hóa phục vụ cho công trường trước 
mặt. Đó là những cơ hội hiển nhiên, khó từ chối. Những ngôi nhà 
truyền thống mái ngói, nhà gạch cao 1-2 tầng nhanh chóng được 
thay thế bằng những ngôi nhà mang dáng dấp đô thị cao ráo, đẹp 
đẽ hơn. Trước đây, chỉ là những người nghèo, người lang bạt đến 
làng mới ở miếng đất “chó ỉa bìa làng”, các gia đình khá giả, có vai 
vế thường ở trong lõi làng, gần chợ, đình làng và những không gian 
công cộng quan trọng. Đô thị đi qua và lợi thế đã đảo ngược. Các 
ngôi nhà bơi theo làn sóng “đô thị mới” ngày một cao lên, che lấp 
đi lõi làng truyền thống bên trong. Sự đô thị hóa cứ thế ăn dần vào 
trong, ai cũng muốn có ngôi nhà mới hơn, đẹp hơn. Nó đến từ nhu 
cầu ở tất yếu của mỗi gia đình, nhất là khi họ đã là gia đình nhiều 
thế hệ. Phát triển dịch vụ và thay đổi theo đô thị dường như là tất 
yếu. Cũng bởi vậy, các dịch vụ buôn bán năng động nhất đều phát 
triển ở khu vực giao nhau giữa làng và đô thị, còn các không gian 
sản xuất theo nghề thủ công và buôn bán sản phẩm thủ công bị 
đẩy sâu vào trong lõi, trong ngõ ngách giữa làng hoặc các vị trí xa 
đường lớn nhất. Nghề truyền thống trải qua thăng trầm trong nhiều 
năm bởi đô thị hóa và quá trình thay đổi kinh tế của đất nước.
d) Sự thay đổi không gian cảnh quan
Làng mạc trước kia nằm dọc đường thủy: Vì trước kia, đường thủy là 
phương tiện di chuyển ưu tiên đối với các thương lái, hồi đó họ có thể 
liên kết với các khu vực lãnh thổ lân cận hoặc với thị thành Hà Nội. 
Chính vì vậy, trung tâm các làng đều hướng ra các dòng sông mà 
không hướng ra đường quốc lộ. Hình ảnh làng Văn Chương trong thế 
kỷ 20 phản ánh phần nào điều đã diễn ra với những làng ven đô như 
Triều Khúc trong những năm 1990 đến nay. Từ những ngôi nhà nằm 
giữa vườn tược, cánh đồng, đầm nước, xoay theo hướng gió và ánh 
sáng tự nhiên, dần dần chuyển đổi thành nhà mặt đường phù hợp với 
kinh doanh. Mật độ gia tăng đến khi gần như phủ kín các khoảng trống 
như hiện nay.
Kết luận
Sự phát triển và gắn bó của các làng nghề thủ công trong quá trình 
phát triển của Hà Nội là yếu tố quan trọng cần được nghiên cứu và 
xem xét kỹ lưỡng. Có ba câu hỏi đặt ra cho các làng nghề truyền thống 
xung quanh Hà Nội:
n Làm sao gắn kết được khu phát triển mới và khu làng nghề thủ công
n Làm sao phát triển kinh tế của làng nghề?
n Làm sao xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường ở làng nghề?
Để trả lời được ba câu hỏi này, cần phải nhận biết được mối quan hệ 
nhân sinh giữa hai yếu tố Khu đô thị mới và làng nghề; rạch ròi những 
tranh cãi về văn minh đô thị - mỹ quan đô thị để đưa ra những thiết kế 
hợp lý cho khu vực chuyển tiếp giữa phát triển đô thị và làng nghề thủ 
công truyền thống.
Tài liệu Tham khảo:
1. NGUYEN Quoc Thong. Lịch sử Hà Nội: thành phố trong lòng mỗi khu phố. NXB 
Xây Dựng. 1995
2. TRAN Nhat Kien. Le patrimoine villageois face à l’urbanisation : le cas des 
villages périurbains de Triều Khúc et Nhân Chính-Hà Nội-Vietnam. Luận án tiến 
sĩ. Đại học Toulouse 2. 2010
3. FANCHETTE Sylvie (éd.). Hà Nội, Future métropole. Rupture de l’intégration 
urbaine des villages. NXB IRD. Marseille. 2015
4. FANCHETTE Sylvie, STEDMAN Nicholas. À la découverte des villages de 
métierau Vietnam : Dix itinéraires autour de Hanoi. NXB IRD. Marseille. 2016
5. DAO Ngoc Nghiem. Đô thị hoá khu vực ven đô TP Hà Nội và những thách thức 
đặt ra. Bài báo. Tạp Chí Kiến Trúc. 2017.
6. NGUYEN Phu Duc. Hà Nội & câu chuyện « Đô thị có trí nhớ ». Bài báo. Tạp 
Chí Kiến Trúc. 2017.
Quy hoπch & t∏c gi∂ 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_lang_nghe_thu_cong_truyen_thong_trong_dinh_huong.pdf