Thực trạng mắc bệnh lao phổi AFB (+) ở cộng đồng trên địa bàn huyện Mê Linh năm 2016
Bệnh lao xuất hiện từ trước Công Nguyên ở Ấn Độ, Hy Lạp và các nước vùng Trung Á. Từ năm 1819 đến năm 1865 nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu lâm sàng, giải phẫu và thực nghiệm bệnh lao nhưng tới năm 1882, nhà bác học người Đức Robert Koch mới tìm ra vi khuẩn lao là căn nguyên gây bệnh. Từ đó mở ra một kỉ nguyên mới trong chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh lao [1]. Lần lượt các thuốc chống lao khác được tìm ra và đưa vào sử dụng, việc điều trị bệnh lao đạt được nhiều tiến bộ đồng thời với áp dụng rộng rãi việc tiêm phòng lao cho trẻ em bằng vaccine BCG làm cho tỷ lệ bệnh giảm đáng kể ở nhiều nước trên thế giới [2].
Năm 1993, TCYTTG đã đưa ra thông báo về “sự quay trở lại” của bệnh lao. Bệnh lao không chỉ gia tăng ở các nước nghèo mà còn tăng ở những nước có nền kinh tế phát triển. Nước ta là một trong 22 nước có tình hình bệnh lao nặng nề nhất thế giới [1]. Cùng với lao là đại dịch HIV/AIDS được coi là nguyên nhân hàng đầu làm gia tăng bệnh lao và tình hình kháng thuốc, là mối quan tâm toàn cầu vì tính chất nghiêm trọng của nó [2].
Để khống chế và giải quyết căn bệnh này đòi hỏi sự nỗ lực của ngành y tế và toàn xã hội. Kiến thức về bệnh lao là một trong những vấn để quan trọng trong việc phòng chống bệnh này. Những người dân hiểu biết về nguyên nhân, cách lây truyền, các triệu chứng chính và các yếu tố liên quan sẽ giúp cho họ và những người thân của họ có ý thức đến khám và chữa bệnh sớm. Việc này sẽ giúp hạn chế lây lan và ngăn ngừa được diễn biến nặng của bệnh [3].
Để phát hiện được những bệnh nhân mắc lao trong cộng đồng ngoài phương pháp thụ động như người bệnh tự đến cơ sở y tế khám chúng tôi đã chủ động tuyên truyền khám phát hiện tại cơ sở nhằm bảo vệ chăm sóc sức khỏe người dân địa phương góp phần làm ổn định tính hình kinh tế xã hội của huyện nhà. Chúng tôi thực hiện đề tài “ Nghiên cứu thực trạng mắc bệnh lao AFB (+) ở cộng đồng trên địa bàn huyện Mê Linh năm 2016” nhằm hai mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ mắc lao ở đối tượng có triệu chứng lâm sàng nghi lao
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới tình trạng mắc lao phổi AFB (+) trên địa bàn huyện Mê Linh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng mắc bệnh lao phổi AFB (+) ở cộng đồng trên địa bàn huyện Mê Linh năm 2016
SỞ Y TẾ HÀ NỘI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN MÊ LINH BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ Tên đề tài : THỰC TRẠNG MẮC BỆNH LAO PHỔI AFB (+) Ở CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH NĂM 2016 Chủ nhiệm đề tài: Ths.Bs: Nguyễn Kiến Dụ Thành viên:Bs.CKI –CNYTCC: Nguyễn Huy Nam Thạc sĩ: Nguyễn Thị Dung ĐD: Nguyễn Thị Thu Hương ĐD: Trần Thị Nguyệt Hà Nội/2016 MỤC LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AFB Vi khuẩn lao kháng cồn, kháng axít AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải BN Bệnh nhân CTCLQG Chương trình chống lao quốc gia DOTS Hóa trị liệu ngắn ngày có giám sát trực tiếp HIV Vi rút gây suy giảm miễn dịch H Isoniazid E Ethambutol S Streptomycin Z Pyrazinamid R Rifampicin PCR Phản ứng nhân gen TCYTTG Tổ chức y tế thể giới ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lao xuất hiện từ trước Công Nguyên ở Ấn Độ, Hy Lạp và các nước vùng Trung Á. Từ năm 1819 đến năm 1865 nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu lâm sàng, giải phẫu và thực nghiệm bệnh lao nhưng tới năm 1882, nhà bác học người Đức Robert Koch mới tìm ra vi khuẩn lao là căn nguyên gây bệnh. Từ đó mở ra một kỉ nguyên mới trong chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh lao [1]. Lần lượt các thuốc chống lao khác được tìm ra và đưa vào sử dụng, việc điều trị bệnh lao đạt được nhiều tiến bộ đồng thời với áp dụng rộng rãi việc tiêm phòng lao cho trẻ em bằng vaccine BCG làm cho tỷ lệ bệnh giảm đáng kể ở nhiều nước trên thế giới [2]. Năm 1993, TCYTTG đã đưa ra thông báo về “sự quay trở lại” của bệnh lao. Bệnh lao không chỉ gia tăng ở các nước nghèo mà còn tăng ở những nước có nền kinh tế phát triển. Nước ta là một trong 22 nước có tình hình bệnh lao nặng nề nhất thế giới [1]. Cùng với lao là đại dịch HIV/AIDS được coi là nguyên nhân hàng đầu làm gia tăng bệnh lao và tình hình kháng thuốc, là mối quan tâm toàn cầu vì tính chất nghiêm trọng của nó [2]. Để khống chế và giải quyết căn bệnh này đòi hỏi sự nỗ lực của ngành y tế và toàn xã hội. Kiến thức về bệnh lao là một trong những vấn để quan trọng trong việc phòng chống bệnh này. Những người dân hiểu biết về nguyên nhân, cách lây truyền, các triệu chứng chính và các yếu tố liên quan sẽ giúp cho họ và những người thân của họ có ý thức đến khám và chữa bệnh sớm. Việc này sẽ giúp hạn chế lây lan và ngăn ngừa được diễn biến nặng của bệnh [3]. Để phát hiện được những bệnh nhân mắc lao trong cộng đồng ngoài phương pháp thụ động như người bệnh tự đến cơ sở y tế khám chúng tôi đã chủ động tuyên truyền khám phát hiện tại cơ sở nhằm bảo vệ chăm sóc sức khỏe người dân địa phương góp phần làm ổn định tính hình kinh tế xã hội của huyện nhà. Chúng tôi thực hiện đề tài “ Nghiên cứu thực trạng mắc bệnh lao AFB (+) ở cộng đồng trên địa bàn huyện Mê Linh năm 2016” nhằm hai mục tiêu: Xác định tỷ lệ mắc lao ở đối tượng có triệu chứng lâm sàng nghi lao Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới tình trạng mắc lao phổi AFB (+) trên địa bàn huyện Mê Linh. Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình bệnh lao hiện nay. 1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế giới Bệnh lao đã tồn tại trong xã hội loài người từ hàng ngàn năm nay và là một bệnh hết sức phổ biến. Bệnh có thể gặp ở mọi châu lục, mọi quốc gia trên thế giới [5]. Trước năm 1944, khi chưa có các thuốc chống lao đặc hiệu ra đời bệnh lao được coi là một trong “ Tứ chứng nan y” và là nỗi khiếp đảm của loài người. Năm1944, thuốc kháng sinh Streptomycin ra đời, tiếp sau đó vào những năm 50 và 60, hàng loạt thuốc chống lao khác được phát minh và đưa vào sử dụng như H, E, Z, R, S ...đã cải thiện hẳn tình hình bệnh lao. Vì vậy trong hơn 2 thập kỷ (1962 -1986) trong nhiều hội nghị quốc tế người ta đã đề cập đến vấn đề thanh toán bệnh lao [4]. Tháng 4/1993, sau hơn 100 năm tìm ra vi khuẩn lao TCYTTG đã báo động tới các nước sự quay trở lại của bệnh lao với tuyên bố "Bệnh lao là một khẩn cấp toàn cầu" [7] Theo báo cáo của TCYTTG - 2008 [3] đã ước tính tình hình dịch tễ bệnh lao như sau: + 1/3 dân số thế giới đã nhiễm lao. + 9,2 triệu người bệnh nhân lao mới xuất hiện trong năm tương đương tỷ lệ 139/100.000 dân. + 14,4 triệu người bệnh lao cũ và mới lưu hành. + 4,1 triệu người bệnh lao phổi AFB (+), (tương đương 62/100.000) bao gồm 0,7 triệu trường hợp HIV (+). + 1,7 triệu người chết do lao. + 98% số người chết ở các nước đang phát triển. + 0,5 trường hợp mắc lao đa kháng thuốc + Số người bệnh lao chủ yếu tập trung ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Nam phi và Nigeria. 1.1.2. Tình hình bệnh lao ở Việt Nam: Năm 2006, dự án phòng, chống bệnh lao Quốc gia phối hợp với tổ chức y tế thế giới ước tính chỉ số dịch tễ bệnh lao như sau: - Dân số: 86,2 triệu dân - Tỷ lệ người bệnh lao mới các thể; 173/100.000 dân - Tỷ lệ bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới: 77/100.000 dân - Tỷ lệ hiện mắc các thể 225/100.000 dân - Tỷ lệ tử vong do lao: 23/1000.000 dân - Tỷ lệ kháng đa thuốc ở bệnh nhân lao mới: 2,7% - Tỷ lệ kháng đa thuốc ở người bệnh lao đã điều trị: 19% Việt Nam đứng thứ 12 trong 22 quốc gia có tỷ lệ bệnh lao cao trên thế giới [3]. Còng theo số liệu của Chương trình chống lao quốc gia (CTCLQG), số bệnh nhân lao phát hiện năm sau thường cao hơn năm trước. 1.2. Nghiên cứu về lao phổi 1.2.1. Một số nét về vi khuẩn lao: Vi khuẩn lao do Robert Koch tìm ra vào năm 1882, thuộc họ Mycobacteriae, là những trực khuẩn mảnh, kích thước khoảng 0,5 x 2-5 µm. Chúng không có vỏ, không có lông và không có nha bào. Trong bệnh phẩm trực khuẩn lao thường đứng thành từng đám nối đầu vào nhau. Trên tiêu bản nhuộm Ziehl- Neelsen, vi khuẩn bắt màu đỏ của fucsin [8]. * Một số đặc điểm sinh học. - Sự bền vững của vi khuẩn với môi trường bên ngoài: ở điều kiện tự nhiên, vi khuẩn có thể tồn tại 3-4 tháng. Trong phòng thí nghiệm người ta có thể bảo quản vi khuẩn trong nhiều năm. Dưới ánh nắng mặt trời vi khuẩn bị chết trong vòng 1,5 giờ. Khi chiếu tia cực tím chúng chỉ tồn tại được 2-3 phút. Ở 420 C vi khuẩn ngừng phát triển và chết sau 10 phút ở 800 C. Đờm của bệnh nhân lao trong phòng tối, sau 3 tháng vi khuẩn vẫn tồn tại và giữ đư ... o và bệnh phổi Thái Nguyên”, đối tượng có nghề nghiệp làm ruộng và hưu trí cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong sáu nhóm nghề nghiên cứu 41,88% và 18,2%. Nguyễn Huy Điện số bệnh nhân có nghề nghiệp làm ruộng chiếm tỷ lệ (30%), hưu trí là (27,5%) [26]. Điều này chứng tỏ những người có nghề nghiệp nặng nhọc, thu nhập thấp hoặc già yếu thì sức đề kháng giảm, khả năng mắc bệnh sẽ tăng lên. 4.5. Tiền sử hút thuốc lá thuốc lào Hút thuốc là một yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh đường hô hấp nói chung và lao phổi nói riêng. Nguy cơ mắc lao ở những người hút thuốc lá cao hơn 2-3 lần so với người không hút thuốc. Nguy cơ này là 2-4 lần đối với những người hút thuốc liên tục hơn 20 năm [27]. Theo Nguyễn Thu Hà (2006), tỷ lệ này là 46% [28], còn Nguyễn Văn Thiêm (2001), tỷ lệ này là 40% [29].Còn theo Trần Thị Minh Hằng (2008) tỷ lệ người lao phổi AFB(+) hút thuốc lá là 33,3% [30]. Nghiên cứu của chúng tôi (biểu đồ 4) có tỷ lệ người hút thuốc lá chiếm 22,78% ít hơn các nghiên cứu trên, có sự khác biệt này là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nam giới ít hơn các nghiên cứu trên chiếm 51.48%. Kết quả này cho thấy nếu Nhà nước làm tốt công tác tuyên truyền để người dân bỏ thuốc lá thì tỷ lệ mắc lao sẽ giảm đáng kể. 4.6. Tiền sử tiếp xúc với nguồn lây Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được một tỷ lệ cao những bệnh nhân lao không có tiền sử tiếp xúc nguồn lây (chiếm 87,22%); chỉ có một tỷ lệ thấp những bệnh nhân lao là có tiền sử tiếp xúc nguồn lây (chiếm 12,77%). Những bệnh nhân này thường có người thân trong gia đình bị lao, trong nghiên cứu của chúng tôi đó là: chồng/vợ, bố/mẹ sống chung trong gia đình. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Phan Thu Phương và cộng sự (2010) về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao phổi AFB đờm dương tính điều trị tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai; tiền sử không tiếp xúc nguồn lây chiếm 97,6% còn tỷ lệ tiếp xúc với nguồn lây rất thấp chiếm 2,4% [9]. Trần Văn Sáng (2007), Tất cả các bệnh nhân lao đều có thể là nguồn lây, nhưng mức độ rất khác nhau. Bệnh nhân lao phổi có vi khuẩn trong đờm phát hiện được bằng phương pháp soi trực tiếp là nguồn lây nguy hiểm nhất (còn gọi là nguồn lây chính) [24]. 4.7. Tỷ lệ mắc Lao theo giới tính Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được tỷ lệ mắc lao của bệnh nhân nam chiếm 6,16% trong khi tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 4,17%, tỷ lệ nam/nữ khoảng 1,5. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu đã công bố tỷ lệ mắc lao ở nam thường cao hơn nữ như đề tài của tác giả Phan Thị Quế (2005), nghiên cứu 400 bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) điều trị tại Bệnh viện lao và một số huyện ở tỉnh Thái Bình từ tháng 10/2004 đến tháng 6/ 2005 thấy:Tỷ lệ mắc ở nam nhiều hơn nữ 1,8 lần (64,3% và 35,7%) [14]; Trần Thị Xuân Phương (1999), nghiên cứu về lao phổi mới AFB (+) thấy: tỷ lệ mắc lao phổi ở nam giới cao hơn gấp 2,3 lần [13]. Bùi Đức Dương (1996) nghiên cứu ở 284 bệnh nhân thấy tỉ lệ nam/nữ là 1,7 [15].Trong nghiên cứu của Hoàng Như Dũng, Trần Thị Kim Phố (2009 ) đánh giá tình hình bệnh Lao tại huyện Phú Vang 2005 – 2009 cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh lao ở nữ (35%) thường thấp hơn ở nam giới (65%) 1,86 lần. 4.8. Tỷ lệ mắc bệnh lao trong nhóm nghiên cứu theo các nhóm tuổi Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phát hiện lao phổi dương tính ở Độ tuổi < 30 tuổi chiếm tỷ lệ AFB dương tính cao nhất 33,33%, độ tuổi ≥ 60 chiếm 6,59%. Tỷ lệ dương tính thấp nhất là độ tuổi 50-59 (2,65%). Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ mắc lao phổi AFB (+) đang ngày cáng có xu hướng trẻ hóa theo độ tuổi. Kết quả này cũng tương đương với một số nghiên cứu khác của tác giả Trần Thị Xuân Phương (1999), nghiên cứu về lao phổi mới AFB (+) cho thấy: tỷ lệ mắc lao phổi ở lứa tuổi 15-44 (53,4%) cao hơn tỷ lệ mắc lao ở lứa tuổi 55-64 (28,5%) [13]. Nghiên cứu Bùi Đức Dương, Hồ Sỹ Dưỡng (1994), nghiên cứu 693 bệnh nhân lao phổi mới ở Hà Nội cũng cho thấy tỷ lệ mắc lao ngày càng trẻ hóa cụ thể ở lứa tuổi 25 – 44 có tỷ lệ mắc lao cao chiếm 51,31%. Với tỷ lệ mắc lao ngày trẻ hóa điều này có thể chi phối đến tình hình dịch tễ lao vì luôn có một số lượng nguồn lây “tiềm tàng” ở nhóm trẻ tuổi, và cũng sẽ kéo dài trong cuộc đời họ không được chữa khỏi. Bệnh lao ở Việt Nam có xu hướng trẻ hóa một phần do liên quan đến lối sống hoặc nhiễm HIV của một bộ phận thanh thiếu niên. Nếu như trước đây do ăn uống kham khổ, vệ sinh kém, đời sống thấp... mới dễ bị nhiễm lao thì giờ do học hành căng thẳng, làm việc quá sức chính là nguyên nhân gây bệnh lao. Trong trạng thái đó, cơ thể sẽ phản ứng bằng cách hệ thần kinh kích thích tiết ra chất làm tim đập nhanh hơn, huyết áp tăng nhưng chất này cũng khiến các phản ứng miễn dịch của cơ thể bị giảm. Lâu dài, vi trùng lao bị nhiễm trước kia vốn nằm im trong cơ thể sẽ sinh sôi và gây bệnh lao. 4.9. Mối liên quan giữa ho có đờm và bệnh lao AFB (+) Đây là một triệu chứng khá điển hình trong lao phổi AFB (+), kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đối tượng có triệu chứng ho chiếm tỷ lệ cao 52,22% (bảng 3.9) và những người có triệu chứng ho có đờm có tỷ lệ mắc lao AFB (+) cao gấp 21,6 lần những người không có triệu chứng này. Sự liên quan này có ý nghĩa thống kê (p = 4,327e-06). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Bùi Đức Dương (1994) [15] cho rằng triệu chứng hay gặp nhất của lao phổi là ho có đờm chiếm 68,7%. Một số nghiên cứu của các tác giả khác cũng cho kết quả tương tự như Đào Thị Hà (2005) tỷ lệ ho khạc đờm: 94,8% [20]; Phan Lương Ái Linh (2002) tỷ lệ ho khạc đờm: 83,5% [21]; Nguyễn Thị Lan Anh (2002) tỷ lệ ho khạc đờm: 60% [22]. Trong nghiên cứu của Phan Thị Quế (2005) trên 400 bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) điều trị tại Bệnh viện lao và một số huyện ở tỉnh Thái Bình từ tháng 10/2004 đến tháng 6/ 2005 cũng cho thấy triệu chứng lâm sàng chính khiến bệnh nhân đi khám bệnh là ho khạc đờm kéo dài 70,1%. 4.10. Mối liên quan giữa sốt về chiều và bệnh lao AFB (+) Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.10 đối tượng có triệu chứng sốt về chiều chiếm tỷ lệ 9,44%. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của một số tác giả như: Nguyễn Việt Cồ (2000) tỷ lệ sốt nhẹ về chiều chiếm 69,5% [31]; Nguyễn Thu Hà (2006) thì tỷ lệ sốt nhẹ về chiều cũng đạt 54% [28]; Trần Thị Minh Hằng (2008) sốt nhẹ về chiều đạt 20,6% [30], tỷ lệ này trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Thiêm (2001) là 66,7% [29]; theo nghiên cứu của Phạm Thị Hoà Mỹ và CS thấy sốt về chiều gặp tỷ lệ tương đối cao (88%) [30]. Có sự khác biệt này là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những người có triệu chứng lâm sàng nghi lao sinh sống tại cộng đồng dân cư còn các tác giả nghiên cứu tại cơ sở điều trị, trên các bệnh nhân đã được xác định mắc lao cho nên triệu chứng sốt về chiều của họ chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Theo chúng tôi sự liên quan giữa sốt và lao là chặt chẽ, những người có triệu chứng sốt về chiều có tỷ lệ mắc lao AFB (+) cao gấp 3,5 lần (bảng 3.10) người không có triệu chứng này. Khi bệnh nhân có sốt cũng sẽ là một dấu hiệu quan trọng giúp cho hướng tới nguyên nhân do lao, tuy nhiên không phải lúc nào bệnh nhân do lao cũng có sốt, điều đó được minh chứng qua nghiên cứu của chúng tôi thấy có 3,89% bệnh nhân không hề có sốt nhưng khi được xét nghiệm đờm trực tiếp thì lại có kết quả dương tính với vi khuẩn lao. Như vậy triệu chứng này tuy không đặc hiệu nhưng theo kết quả của chúng tôi thì nó có ý nghĩa gợi ý, định hướng rất cao để chẩn đoán bệnh nhân lao phổi AFB (+). Chương 5: KẾT LUẬN Trong thời gian từ tháng 02/2016 đến tháng 9/2016, nghiên cứu trên 540 đối tượng có triệu chứng lâm sàng nghi lao phổi AFB (+) trên địa bàn huyện Mê Linh chúng tôi đưa ra những kết luận sau: Tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+): Qua kết quả khám lâm sàng 540 đối tượng nghiên cứu, chúng tôi đã xác định được tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+) là 5,19%. Dương tính (1+) chiếm tỷ lệ 2,77%, dương tính (2+) 0,93%, dương tính 3(+) 1,11%, dương tính 1-9 AFB/100VT chiếm tỷ lệ thấp nhât 0,37%. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng mắc lao phổi AFB (+): Tỷ lệ mắc lao ở nam giới cao hơn nữ giới 1,46 lần. Nhóm đối tượng mắc triệu chứng ho có đờm có tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+) cao gấp 21,6 lần nhóm khống mắc triệu chứng trên. Nhóm đối tượng mắc triệu chứng sốt về chiều có tỷ lệ mắc lao phổi AFB (+) cao gấp 3,5 lần nhóm không mắc triệu chứng sốt. Chương 6: KHUYẾN NGHỊ Từ các kết quả nghiên cứu thu được chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau: Cần tuyên truyền trong cộng đồng về bệnh lao, giúp bệnh nhân đi khám và điều trị bệnh lao sớm. Tăng cường khám phát hiện bệnh lao chủ động ở cộng đồng nhằm phát hiện và điều trị kịp thời cho những trường hợp nghi ngờ lao phổi. Hướng dẫn bệnh nhân kỹ thuật lấy đờm đúng cách tránh bỏ sót những bệnh nhân có xét nghiệm AFB đờm dương tính. TÀI LIỆU THAM KHẢO. Bệnh học lao phổi (2006), Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 3 - 5 -12 – 17. Ngô Ngọc Am (2002), “Dịch tễ học bệnh lao”. Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 18 - 24 - 28. Chương trình chống lao quốc gia Việt Nam (2009), Nhà xuất bản y học, tr 16-28 CTCLQG (1998), Hội nghị thực hiện DOTS trong CTCLQG các tỉnh phía Bắc và miền trung. Nguyễn Việt Cồ (2006), “Bệnh học lao”, Nhà xuất bản y học. Tr 12-17 Nguyễn Quốc Minh (2003), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng lao phổi mới AFB dương tính và kiến thức về bệnh lao ở bệnh nhân là sinh viên” luận văn thạc sỹ y học. Trường Đại học y Hà Nội. Trần Văn Sáng (1999), "Vi khuẩn lao kháng thuốc cách phòng và điều trị", Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Lê Huy Chính (2007), “ Vi sinh y học”, Nhà xuất bản y học Hà Nội, Tr 196-197. Phan Thu Phương, Chu Thị Hạnh, Ngô Quý Châu (2010), “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh lao phổi AFB đờm dương tính điều trị tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai”. Y học lâm sàng, Tr 23-33. CTCLQG (1999). "Hướng dẫn thực hiện CTCLQG", Nhà xuất bản Y học, Hà Nội: tr 8 - 12, 21 - 25, 29 - 39. 11. Bùi Đức Dương, Hồ Sỹ Dưỡng (1994), “Nhận xét 693 bệnh nhân điều trị công thức 2SRHZ/6HE”, Nội san lao và bệnh phổi 1994:tr 17, 114 - 7. 12. Nguyễn Phương Hoa (1995), “Hiệu quả của hoá trị liệu ngắn ngày 2SRHZ/6HE trong điều trị ngoại trú lao phổi ngay từ đầu tại Hà Nội”, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ y học, ĐH Y Hà Nội. 13. Trần Thị Xuân Phương (1999), “Nghiên cứu kết quả điều trị bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) ở giai đoạn tấn công bằng 2 phác đồ 2SRHZ/6HE và 2ERHZ/6HE”, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ y học, Đại học y Hà Nội: tr 56 - 71. 14. Phan Thị Quế (2005), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tiếp cận dịch vụ y tế của bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới tại Bệnh viện lao và một số huyện tỉnh Thái Bình”, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ y học, Đại học y Hà Nội. 15. Nguyễn Văn Tiêm, Kiều Mạnh Thắng (1991), “Nhận xét về hoá trị liệu ngắn ngày qua 2 năm thực hiện 1989 – 1990”, Nội san lao và bệnh phổi, tr 16 - 16. Hoàng Như Dũng, Trần Thị Kim Phố (2009 ) đánh giá tình hình bệnh Lao tại huyện Phú Vang 2005 – 2009, tr -3. 17. Trần Huy Nghĩa, Kiến thức về bệnh Lao của các đối tượng có triệu chứng nghi ngờ lao tại huyện Cẩm Xuyên, Tỉnh Hà Tĩnh. Đại học y dược Huế 18. Lê Ngọc Hưng (1988), “Nhận xét 176 trường hợp lao phổi AFB dương tính ở người lớn điều trị lần đầu tại viện lao và bệnh phổi TƯ từ tháng 1- 1987 đến tháng 1 - 1988”, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, ĐH Y Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Phượng (2006), "Nghiên cứu phát hiện, điều trị lao phổi mới AFB(+) và kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh lao của công nhân ngành than tại Quảng Ninh", Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội: tr 71. Đào Thị Hà (2005) “ So sánh đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của lao phổi mới AFB dương tính ở người cao tuổi và trẻ tuổi”. Luận văn thạc sĩ y học Đại học Y Hà Nội, tr. 3 – 5 – 51 – 53. Phan Lương Ái Linh (2002), “Nghiên cứu kháng thuốc tiên phát và kết quả điều trị sau 2 tháng tấn công của phác đồ 2SHRZ/6HE ở bệnh nhân lao phổi mới AFB dương tính tại nội thành Đà Nẵng từ 11/2001- 6/2001”, Luận văn thạc sĩ y học Đại học Y Hà Nội, tr. 41 – 42. Nguyễn Thị Lan Anh (2002), “So sánh lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân lao phổi mới sau hai tháng điều trị SHRZ còn và không còn AFB, kết quả tìm vi khuẩn trong đờm bằng PCR”. Luận văn thạc sĩ y học Đại Học Y Hà Nội, tr. 37 – 38. CTCLQG (2004), “Báo cáo tổng kết CTCLQG giữa kì giai đoạn 2001-2005 và phương hướng hoạt động các năm 2004-2005”, tr. 6 - 7, 10 - 11, 16 – 21. Trần Văn Sáng (2007), "Lao phổi", Bệnh học lao, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội: tr 45 - 47, 132 - 133 Nguyễn Giang Nam (2008), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của tràn dịch màng phổi do lao tại bệnh viện lao và bệnh phổi Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y dược- Đại học Thái Nguyên, tr. 44-45. Nguyễn Huy Điện (2003), “Nghiên cứu lâm sàng và cận lâm sàng tràn dịch màng phổi do lao HI V (+) tại Hải Phòng (1998- 2003)”, Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội. Phạm Ngọc Thảo (2013), “Nghiên cứu giá trị lâm sàng, Xquang phổi chẩn và PCR trong chẩn đoán lao phổi AFB âm tính”, luận văn thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội. Nguyễn Thu Hà(2006), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân lao phổi mới AFB(-) và kết quả phát hiện vi khuẩn lao của kỹ thuật PCR, MGIT”, Luận văn Bác sỹ chuyên khoa 2, Trường đại học Y Hà Nội. Nguyễn Văn Thiêm (2001), “ Nghiên cứu lâm sàng, hiệu quả phản ứng chuỗi Polymerase và phản ứng miễn dịch gắn men trong lao phổi AFB(-)”, Luận văn Thạc sỹ Y học,Trường đại học Y Hà Nội. Trần Thị Minh Hằng(2008), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả cuả phương pháp MGIT trong lao phổi AFB(-)”, Luận văn Bác sỹ chuyên khoa 2, Trường đại học Y Hà Nội. Phạm Thị Hòa Mỹ, Nguyễn Ngọc Hùng (1994), "Nhận xét về tình hình bệnh nhân tràn dịch màng phổi do lao điều trị nội trú tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai trong 6 tháng cuối năm 1993 và 6 tháng đầu năm 1994", Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, tập 5, Trường Đại học Y Hà Nội, tr. 35-38. Nguyễn Việt Cồ (2000), “Điều trị lao phổi mới phát hiện AFB(-), tổn thương Xquang nhẹ và bằng công thức ngắn hạn 2SHZ/6HE và 2S3R3Z3/6HE”, Nội san Lao và Bệnh phổi tập 31.
File đính kèm:
- thuc_trang_mac_benh_lao_phoi_afb_o_cong_dong_tren_dia_ban_hu.doc