Tác động của chính sách thuế đối với thị trường bất động sản
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống chính sách thuế còn bộc lộ
những hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện để giảm thất thu cho ngân sách
nhà nước, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đặc biệt là chính sách
thuế liên quan đến bất động sản. Hiện nay, đối với “hàng hóa bất động sản” tùy
thuộc vào đối tượng nộp thuế, mục đích sử dụng mà áp dụng các luật thuế khác
nhau như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng Hơn nữa, thuế là công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản ổn định, lành mạnh,
bền vững, thu hút đầu tư để phát triển kinh tế đất nước
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của chính sách thuế đối với thị trường bất động sản
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 15 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Nguyễn Thị Lý 1 Nguyễn Đức Hậu 1 TÓM TẮT Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống chính sách thuế còn bộc lộ những hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện để giảm thất thu cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đặc biệt là chính sách thuế liên quan đến bất động sản. Hiện nay, đối với “hàng hóa bất động sản” tùy thuộc vào đối tượng nộp thuế, mục đích sử dụng mà áp dụng các luật thuế khác nhau như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng Hơn nữa, thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản ổn định, lành mạnh, bền vững, thu hút đầu tư để phát triển kinh tế đất nước. Từ khóa: Bất động sản, thuế, chính sách thuế, thị trường bất động sản, thuế nhà đất 1. Chính sách thuế đối với thị trường bất động sản Thị trường bất động sản (BĐS) nước ta trong thời gian qua đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, thị trường BĐS phát triển mang tính tự phát, thiếu minh bạch, giao dịch phi chính thức còn chiếm tỷ trọng cao. Cung - cầu về BĐS bị mất cân đối, đặc biệt là về nhu cầu nhà ở của nhân dân. Tình trạng đầu cơ nhà đất, kích cầu “ảo” để nâng giá BĐS làm cho thị trường diễn biến thất thường, nhiều cơn sốt giá nhà đất đã xảy ra rất phức tạp, dẫn đến hệ quả là nhu cầu nhà ở cho đại bộ phận dân cư gặp khó khăn, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với thị trường BĐS, chính sách thuế ngoài mục tiêu thu ngân sách còn nhằm mục tiêu quản lý và phát triển thị trường BĐS thông qua từng sắc thuế nhắm vào các đối tượng chịu thuế khác nhau tùy vào quan điểm của nhà quản lý. Hiện nay, đối với “hàng hóa bất động sản” tùy thuộc vào đối tượng nộp thuế, mục đích sử dụng mà áp dụng các luật thuế khác nhau như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, Các sắc thuế trên chưa bao quát hết các nguồn thu từ BĐS; còn bộc lộ những hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, đặc biệt là chính sách thuế liên quan đến BĐS. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, chính sách thuế liên quan đến BĐS áp dụng ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thể hiện được vai trò điều tiết của thuế trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, để khắc phục các vấn đề nêu trên nhằm phát triển thị trường BĐS, phải hoàn thiện các chính sách tài chính mà cụ thể là chính sách thuế. Bài báo “Tác động của chính sách thuế đối với thị 1Trường Đại học Đồng Nai Email: lynt2005@gmail.com TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 16 trường bất động sản” nghiên cứu quan hệ giữa chính sách thuế và sự phát triển của thị trường BĐS để hình thành một hệ thống thuế đối với BĐS hoàn thiện, phát huy được hiệu quả sử dụng đất, thúc đẩy thị trường BĐS phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu tăng thu ngân sách. 1.1 Đặc điểm của thuế bất động sản Đất đai là tài sản quý giá của mỗi một quốc gia mà thiên nhiên ban tặng, do đặc điểm của tài sản này mà giá cả của nó có khuynh hướng ngày càng tăng nên việc đảm bảo công bằng trong việc nắm giữ, sử dụng có hiệu quả, chuyển nhượng đất đai, BĐS có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc tăng giá đất phụ thuộc nhiều vào sự phát triển kinh tế và đầu tư của xã hội, nhất là vấn đề quy hoạch xây dựng, cơ sở hạ tầng, Do đó phần giá trị tăng thêm của đất đai, BĐS phải được điều tiết một cách công bằng thông qua công cụ thuế. Do những đặc điểm riêng có của BĐS mà các sắc thuế đối với BĐS có những đặc điểm riêng, cụ thể: Một là, BĐS có đặc điểm bất động, mang tính ổn định, không thể di dời được nên thuế đối với BĐS là nguồn thu mang tính ổn định và bền vững của ngân sách Nhà nước (NSNN). Hai là, cơ sở tính thuế BĐS là tổng giá trị của BĐS hoặc là giá trị tăng thêm của nó, việc định giá BĐS là đất đai có thể được thực hiện một lần để xác định cho nhiều kỳ tính thuế, hoặc xác định cho từng lần chuyển nhượng để tiến hành thu thuế, tùy thuộc vào từng loại thuế của từng nước. Độ chính xác của việc định giá BĐS sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới số thuế phải nộp của các đối tượng nộp thuế [1]. 1.2. Các sắc thuế trong lĩnh vực bất động sản 1.2.1. Thuế sử dụng đất đai, bất động sản Chính phủ kỳ vọng việc thu thuế đối với việc sở hữu đất đai, cùng lúc đạt được hai mục tiêu: tăng nguồn tài chính quốc gia và tối đa hóa năng suất hoạt động của nguồn tài nguyên quý giá này, đồng thời ngăn chặn đầu cơ đất đai. Xác định cơ sở thuế: Giá trị đất tăng lên do quá trình phát triển chung của toàn xã hội, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công được Nhà nước đầu tư, nên Chính phủ có quyền sử dụng một loại thuế đặc biệt đối với đất đai để điều tiết một phần giá trị mới tạo ra. Về cơ sở tính thuế: phổ biến nhất hiện nay là dựa trên diện tích và giá trị của BĐS. Dựa trên diện tích là dựa vào kích thước của BĐS là đất, khu vực xây dựng hoặc diện tích nhà sử dụng, số thuế phải nộp được tính trên cơ sở diện tích (m 2) nhân với mức thuế đơn vị tùy vào mục đích sử dụng BĐS [2]. Dựa trên giá trị BĐS được thực hiện theo hai cách là xác định giá trị thị trường và giá trị cho thuê của BĐS. Trong đó, giá trị tiền thuê phản ánh giá trị tài sản được sử dụng hiện tại của nó, còn giá trị thị trường bao gồm sự mong đợi của thị trường vào thu nhập tương lai của BĐS đó, những biến động của thị trường mua bán khó dự đoán hơn hệ thống giá trị cho thuê của BĐS. Bảng 1 thể hiện xu hướng xác định cơ sở thuế BĐS của một số khu vực TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 17 trên thế giới, trong đó các quốc gia lựa chọn cơ sở thuế là giá trị BĐS c ... n quyết định đầu tư/tiêu dùng BĐS, tất yếu sẽ tác động đến cung, cầu BĐS và ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường BĐS. Tóm lại, chính sách thuế là một trong các chính sách tài chính quan trọng nhằm điều tiết thị trường BĐS, vì vậy chính sách thuế chưa hoàn thiện sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường BĐS nói riêng và sự phát triển toàn nền kinh tế nói chung. Thực tế tại Việt Nam thời gian qua cho thấy việc sử dụng đất đai và BĐS lãng phí, không hiệu quả, hiện tượng đầu cơ nhà đất là khá phổ biến, dẫn đến một khối lượng BĐS khá lớn bỏ trống không khai thác hoặc mua đi bán lại với mục đích đầu cơ không sử dụng vào mục đích ở hoặc sản xuất kinh doanh. 3. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đối với thị trường bất động sản ở Việt Nam 3.1. Giải pháp chung về hệ thống chính sách bất động sản Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện làm chủ sở hữu và thống nhất quản lý, giao cho các tổ chức và cá nhân quyền sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường BĐS phải thống nhất, ổn định chính sách, tránh trường hợp nhiều ban ngành quản lý ra quyết định, quy định chồng chéo như hiện nay, quy hoạch đất đai phải mang tính chiến lược và ổn định, thay đổi theo lộ trình, không thường xuyên thay đổi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư dự án của chủ đầu tư, vì hầu hết các dự án BĐS đều có thời gian thực hiện cũng như thu hồi vốn rất dài. Ngược lại, chính sách đất đai chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội sẽ kìm hãm quá trình phát triển của thị trường BĐS nói riêng, toàn nền kinh tế nói chung. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 24 3.2. Đổi mới thuế thu nhập cá nhân từ thừa kế bất động sản Hiện nay, luật thuế quy định miễn thuế thu nhập từ chuyển nhượng BĐS, thừa kế, quà tặng là BĐS giữa người có quan hệ gia đình, do xuất phát từ cuộc sống thực tiễn, tính chất truyền thống của các gia đình Việt Nam. Vì vậy, phần miễn thuế cần phải xác định lộ trình cho miễn thuế, sau đó thu thuế như các nước phát triển đã làm (thường các nước phát triển mức thu thuế thừa kế và quà tặng rất cao: Nhật 70%, Hàn Quốc 50%, Mỹ 46%, Pháp 40%...), một phần nhằm tăng thu NSNN, phần khác nhằm khỏa lấp những khe hở pháp luật mà ngày nay các đối tượng nộp thuế đang lợi dụng nhằm trốn thuế, lách thuế [4]. Theo đó, thời gian miễn thuế đề xuất là 2 năm kể từ khi quy định của pháp luật có hiệu lực, quá thời hạn quy định nêu trên, các khoản thu nhập phát sinh từ các đối tượng này sẽ bị thuế điều tiết như các trường hợp chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng khác. Vấn đề miễn thuế đối với nhà ở, đất ở duy nhất chưa phù hợp với thực tế, nên quy định hạn mức miễn thuế hoặc thời gian nắm giữ tài sản để thu thuế, tác giả kiếm nghị: Thuế suất từ 65% đến 75% nếu người bán sở hữu nhiều BĐS, BĐS không dùng để ở hoặc kinh doanh, BĐS chưa đăng ký Nếu BĐS được nắm giữ dưới 6 tháng, mức thuế suất 40%, dưới 18 tháng, thuế suất là 35%, dưới 3 năm thuế suất là 30%, đối với một số trường đặc biệt có mức thuế suất đến 76% hoặc 80% mà những BĐS nằm ở các vị trí khác nhau, vị trí đặc biệt chiếm ưu thuế. Việc quy định hạn mức miễn thuế hoặc thời gian nắm giữ tài sản để thu thuế còn có ý nghĩa hạn chế tình trạng đầu cơ nhà đất hiện rất phổ biến tại Việt Nam. Để hạn chế tình trạng đầu cơ, tích tụ BĐS tác giả đề suất công cụ thuế suất dựa trên thời gian nắm giữ tài sản để thu thuế. Biểu thuế đề xuất trong bảng 6: Bảng 6: Đề xuất biểu thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng bất động sản Thời gian nắm giữ BĐS Thuế suất Dưới 6 tháng 40% Từ 6 tháng đến dưới 18 tháng 35% Từ 18 tháng đến dưới 3 năm 30% Từ 3 năm đến dưới 5 năm 20% Từ 5 năm đến dưới 10 năm 12% Từ 10 năm trở lên nhưng sau thời điểm ngày 15/10/1993 5% BĐS có nguồn gốc trước thời điểm ngày 15/10/1993 0% Thời gian nắm giữ tài sản được tính từ ngày nhận chuyển nhượng (mua) BĐS đến ngày chuyển nhượng (bán) BĐS ghi trên hợp đồng chuyển nhượng BĐS. 3.3. Đổi mới thuế sở hữu bất động sản Việt Nam hiện nay chưa có chính sách thuế tài sản. Ở Việt Nam giá mua nhà rất cao, nhưng sau đó không phải nộp thuế nhà (thuế đất lại thấp) nên TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 25 thường dẫn đến tình trạng đầu cơ nhà gây sốt giá trên thị trường, càng làm khó khăn hơn cho Nhà nước khi giải quyết nhà ở cho dân nói chung, cho người có thu nhập thấp nói riêng. Theo đó, hướng xây dựng sắc thuế BĐS như sau: Mức thuế nhà đất và thuế đất có thể xác định riêng biệt, sau đó kết hợp để hình thành thuế BĐS. Thuế bất động sản = Thuế nhà (công trình xây dựng) + Thuế đất Trong đó: Thuế đất = Diện tích đất chịu thuế x Giá tính thuế đất (m2) x Tỷ lệ giá trị đất tính thuế (%) Thuế suất (%) Thuế nhà = Diện tích nhà chịu thuế x Giá trị nhà xây dụng (m 2 ) x Thuế suất (%) Thuế đất Diện tích đất: Diện tích đất chịu thuế là diện tích đất sử dụng hợp pháp, không phân biệt đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa. Giá tính thuế đất: Là giá trị thị trường của đất (1 m2), được ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh công bố hằng năm tùy theo mục đích sử dụng. Giá này đồng thời cũng là căn cứ tính thuế thu nhập từ chuyển nhượng đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, lệ phí trước bạ và tính giá bồi thường khi nhà nước thu hồi đất Quy định này nhằm đảm bảo thống nhất giữa chính sách thu thuế BĐS với các chính sách tài chính khác. Qua phân tích từ bộ dữ liệu BĐS thu thập được trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh cho thấy giá đất do UBND thành phố công bố hằng năm là khá thấp so với giá trên thị trường. Tỷ lệ giá trị đất tính thuế: Giá tính thuế đất thường thấp hơn giá trị thị trường. Để cân đối nguồn thu từ giá tính thuế đất và thuế suất, tỷ lệ giá trị đất tính thuế tác giả đề xuất là 80% giá trị đất tính thuế. Thuế suất: Về nguyên tắc thu thuế phải dựa trên khả năng sinh lợi của đất, nên thuế suất được thay đổi phụ thuộc vào mục đích sử dụng đất. Đối với đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp điều tiết thuế cao hơn đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Đất ở vừa không có khả năng sinh lợi, vừa đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người nên mức điều tiết thuế đối với đất ở thấp hơn so với đất sử dụng vào kinh doanh. Đặc biệt đối với đất bỏ hoang không sử dụng thuế điều tiết cao hơn so với đất đã đưa vào sử dụng, nhằm hạn chế đầu cơ đất, tích tụ đất và khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả. + Căn cứ xác định mức thuế suất tùy theo mục đích sử dụng đất được thực hiện bằng phương pháp phân tích tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc là giá đất, hệ số đối các khu vực nhà ở, khu vực có khả năng buôn bán và khu vực làm văn phòng, khách sạn có hệ số tương ứng ảnh hưởng đến giá lần lượt là 1; 2,2 và 4,0. Có nghĩa, đất thuộc khu vực buôn bán sẽ có giá trung bình cao hơn đất chỉ dùng vào TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 26 mục đích ở là 2,2 lần; tương tự đất thuộc khu vực làm văn phòng, khách sạn trung bình có giá cao hơn khu vực đất ở là 3,5 lần. Bảng 7: Thuế suất tùy vào mục đích sử dụng đất Mục đích sử dụng đất Thuế suất so với thuế suất của đất ở Đất ở 100% Đất khu vực kinh doanh buôn bán 220% Đất khu vực làm văn phòng, khách sạn 350% (Nguồn: Tác giả tính toán.) + Đối với đất bỏ hoang không sử dụng, chủ sở hữu nộp thuế với mức thuế suất cao hơn đất đã đưa vào sử dụng, nhằm tránh tình trạng sử dụng đất lãng phí, hạn chế đầu cơ, tích tụ đất, đồng thời khi đất bỏ hoang không đưa vào sử dụng sẽ không tạo ra sản phẩm cũng như việc làm, nhà nước sẽ thất thu một phần thuế (chẳng hạn không thu được thuế nhà, thuế thu nhập do cho thuê nhà). Hiện nay, hiện tượng sử dụng sai mục đích sử dụng đất rất nhiều, cụ thể là đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích ở và mục đích kinh doanh. Trường hợp này không quy định mức thuế suất mà quy định hình thức phạt, mức thu gồm phần thuế theo mục đích sử dụng hiện tại và mức phạt. ii) Thuế nhà - Diện tích nhà chịu thuế: Diện tích nhà chịu thuế là toàn bộ diện tích sàn xây dựng của nhà ở, căn hộ, hoặc công trình xây dựng khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tổ chức và cá nhân. - Giá tính thuế: Đối với nhà mới xây dựng là đơn giá 1 m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do Bộ Xây dựng công bố suất vốn đầu tư hàng năm, hoặc do UBND cấp tỉnh công bố; đối với nhà đã sử dụng, căn cứ theo đơn giá nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, trừ phần khấu hao theo quy định [5]. - Thuế suất: Thuế suất nhà được thu cùng mức với thuế suất đất tùy theo mục đích sử dụng. 3.4. Đối mới thuế thu nhập doanh nghiệp từ chuyển nhượng bất động sản Nhà nước quản lý các doanh nghiệp kinh doanh BĐS thông qua quá trình khai báo thuế, hóa đơn, chứng từ kế toán nên đối với doanh nghiệp, hiện tượng lách thuế, trốn thuế hạn chế hơn so với thuế TNCN. Tuy nhiên, chính sách thuế thu nhập cần có mức thuế suất ưu đãi với doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà ở cho công nhân làm trong các khu công nghiệp tập trung thuê để ở, Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành, giá vốn của BĐS được xác định dựa vào giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng BĐS. Tuy nhiên, một số trường hợp BĐS mua từ rất lâu nên giá mua tính bằng vàng, bằng USD, ngay cả trường hợp mua bằng tiền thì đến nay thời giá đã thay đổi, giá vàng, giá USD đã tăng mạnh trong thời gian gần đây, tiền đồng Việt Nam bị tác động bởi tỷ lệ lạm phát của các năm nên không phản TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 27 ánh đúng giá trị như là một chi phí về giá vốn. Do đó, không ít những trường hợp chuyển nhượng BĐS, giá vốn được trừ không đáng kể, dẫn đến nghĩa vụ thuế rất cao. Thu nhập chịu thuế = Giá BĐS thực tế chuyển nhượng - Giá vốn BĐS x Chỉ số giá - Chi phí đầu tư, cải tạo và các khoản thuế, phí, lệ phí đã nộp Chỉ số giá đưa vào điều chỉnh giá vốn BĐS là chỉ số giá tiêu dùng được nhà nước công bố hàng năm. Đối với trường hợp giá mua BĐS bằng vàng, bằng USD được quy thành tiền đồng Việt Nam theo giá thống kê bình quân hàng tháng tại thời điểm mua, sau đó điều chỉnh giá vốn theo chỉ số giá. Trường hợp không xác định được giá vốn BĐS thì ấn định giá do UBND cấp tỉnh ban hành tại thời điểm mua. Tóm lại, với gợi ý sửa đổi chính sách thu tiền sử dụng đất và thu tiền thuê đất như trên, góp phần bình đẳng giữa tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong chính sách tài chính đất đai. Mặt khác, tăng mức thu tiền thuê đất là thúc đẩy các đối tượng thuê đất sử dụng đất có hiệu quả, tiết kiệm, đồng thời tăng thu cho NSNN, góp phần phát triển thị trường BĐS. 4. Kết luận Trước bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực như hiện nay, nguồn thu ngân sách bị giảm sút do Việt Nam phải đáp ứng những cam kết hội nhập, nguồn thu ngân sách từ chính sách thuế đối với BĐS cần được chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi những quy định bất cập của pháp luật thuế đối với BĐS hiện hành để các sắc thuế này thực sự thể hiện vai trò quan trọng của mình trong hệ thống pháp luật thuế Việt Nam. Với những gợi ý hoàn thiện chính sách thuế thu nhập tại Việt Nam, tác giả kỳ vọng thuế thu nhập từ chuyển nhượng BĐS là công cụ tài chính hữu hiệu huy động một phần nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, công bằng giữa các đối tượng nộp thuế và đặc biệt là hạn chế tình trạng đầu cơ, tích tụ BĐS, đẩy giá BĐS tăng cao, ảnh hưởng không tốt đến thị trường BĐS nói riêng, nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó, mức thuế đề nghị tương đối thấp nhằm khuyến khích các chủ sở hữu BĐS đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS; góp phần tạo lập “hàng hóa BĐS” có đầy đủ pháp lý trên thị trường, góp phần minh bạch hóa thị trường BĐS cũng như góp phần phát triển thị trường BĐS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đàm Văn Huệ (2006), Thuế đất đai – công cụ quản lý và điều tiết thị trường bất động sản, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 28 2. Thái Bá Cần (2004), Giải pháp tài chính phát triển thị trường bất động sản, Nxb Tài chính, Hà Nội 3. Trịnh Hồng Loan (2010), Property Taxation and Land Use Management in Vietnam: the Potential for Reform, Nxb Tài chính, Hà Nội 4. Nguyễn Hồng Thắng (2010), “Thuế nhà, đất: Cải cách như thế nào?”, Tạp chí Tài chính, tháng 5/2010, tr. 20-33 5. Thái Bá Cẩn và Trần Nguyên Nam (2003), Thị trường bất động sản: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội THE IMPACT OF TAX POLICY ON REAL ESTATE MARKET ABSTRACT In the process of international economic integration, the tax policy system has still revealed the limitations that need to be supplemented and improved to reduce revenue losses to the state budget, contributing to promoting production and business development, especially tax policies related to real estate. Currently, for “real estate goods” depending on the taxpayer, the purpose of use, etc., various tax laws, such as Agricultural Land Use Tax, Housing Tax, Business Income Tax Business, Personal Income Tax, Value Added Tax, and so on are applied. Moreover, tax is a tool to regulate the macro economy in order to promote the stable, sound, and sustainable development of the real estate market to attract investments for national economic growth. Keywords: Real estate, taxes, policy of tax, real estate market, housing tax (Received: 17/2/2020, Revised: 22/4/2020, Accepted for publication: 6/8/2020)
File đính kèm:
- tac_dong_cua_chinh_sach_thue_doi_voi_thi_truong_bat_dong_san.pdf