Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp
Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn
thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và
tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây
là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã
trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở
Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại
học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều
phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng,
trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành
rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu
dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động
lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi
dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng
về hình thức, thể lệ, mục đích,. Tuy nhiên, không phải lúc
nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong
muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần
lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn
trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,. Bên cạnh đó, nhiều
nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong
giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các
nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi
riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định
(nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,.)
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 240 Email: ntthuyen@hluv.edu.vn SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH - MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP Nguyễn Thị Thúy Huyền - Phạm Thanh Tâm - Nguyễn Thị Liên Trường Đại học Hoa Lư Ngày nhận bài: 20/02/2019; ngày chỉnh sửa: 18/3/2019; ngày duyệt đăng: 19/5/2019. Abstract: This article focuses on the use of games in TEFL (Teaching English as a Foreign Language). Firstly, we present the definition of games in TEFL, the purposes of using games in teaching and learning as well as its classifications. Then, the article provides an insight into how games can be employed in the language classrooms, including when to use games, which games to use and the procedure to apply them. The final part of the article looks at some outstanding notices which should be carefully considered. Keywords: Games, purpose, method, TEFL classrooms. 1. Mở đầu Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng, trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng về hình thức, thể lệ, mục đích,... Tuy nhiên, không phải lúc nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,... Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định (nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,...). Nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về trò chơi và sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh nói chung, bài viết đề cập khái niệm về trò chơi, những ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, phương pháp áp dụng trò chơi và một số điểm lưu ý khi áp dụng phương pháp này. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ Byrne (1980) định nghĩa trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ là một hình thức chơi chiểu theo các quy tắc và bản chất là chúng rất thú vị và vui vẻ [1]. Đề cập đến các đặc tính cụ thể hơn của “trò chơi” trong giảng dạy ngoại ngữ, Greenall (1990) nêu rõ: “thuật ngữ “trò chơi” được sử dụng bất cứ khi nào có yếu tố cạnh tranh giữa các sinh viên hoặc các nhóm trong một hoạt động ngôn ngữ” [2; tr 6]. Đồng tình với quan điểm trên, theo Rixon (1992), trò chơi bao gồm hai tính năng chính: cạnh tranh và hợp tác giữa các người chơi. Cạnh tranh có thể là “một người chống lại phần còn lại” hoặc các cá nhân cạnh tranh nhau, và hợp tác có thể là “mọi người cùng nhau”, “hợp tác trong một nhóm”, “cùng với một nhóm chống lại phần còn lại” hoặc “cùng với một cá nhân khác chống lại phần còn lại”; trong một trò chơi, có thể là cạnh tranh hoặc hợp tác, hoặc cả hai [3]. Bên cạnh đó, ông đưa ra sự phân biệt giữa “trò chơi ngôn ngữ” và “trò chơi thông thường” - đó là việc sử dụng ngôn ngữ để đạt được mục đích. Theo ông, “trò chơi ngôn ngữ” có thể sử dụng một số kĩ năng được thực hiện trong “trò chơi thông thường” như kĩ năng vật lí, phối hợp tay và mắt như chơi tennis, hoặc trí tuệ và chiến thuật như chơi cờ vua, cờ tướng. Tuy nhiên, trọng tâm trong “trò chơi ngôn ngữ” chính là ngôn ngữ. Bất kể mục đích cụ thể của trò chơi là gì, mục tiêu chung của tất cả các trò chơi ngôn ngữ là phát triển và cải thiện kĩ năng ngôn ngữ, chẳng hạn như chính tả, phát âm, nghe hiểu, đọc hiểu,... Tóm lại, trò chơi là một phương pháp được sử dụng trong giảng dạy ngoại ngữ; theo đó, các hoạt động chơi diễn ra có quy tắc và có tính cạnh tranh, hợp tác với trọng tâm là ngôn ngữ. Qua các trò chơi, người học trải nghiệm sự vui vẻ và phát triển khả năng ngôn ngữ của mình. 2.2. Ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ Bàn về vai trò của trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, Wright, Betteridge và Buckby (1984) đã viết: “Học ngôn ngữ là công việc khó khăn. Người học cần nỗ lực ở VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 241 mọi thời điểm trong một thời gian dài. Trò chơi giúp đỡ và khuyến khích nhiều người học duy trì sự yêu thích với môn học và nâng cao động lực học tập”, đồng thời “trò chơi giúp GV tạo ra ngữ cảnh trong đó ngôn ngữ trở nên hữu ích và có ý nghĩa” [4; tr 1]. Cùng quan điểm trên, Lee (1995) nhấn mạnh, học tập là một hoạt động nghiêm túc nhưng nếu một người vui vẻ, cười nói thì không có nghĩa là việc học tập đó trở nên thiếu trang trọng. Ông cho rằng việc học ngôn ngữ có thể đi đôi với sự tận hưởng. Một trong những cách tốt nhất để làm điều này là thông qua trò chơi [5]. Richard-Amato (1996) trong cuốn sách của mình cũng đã viết, mặc dù trò chơi thường gắn liền với niềm vui, chúng ta không nên đánh mất các giá trị sư phạm của chúng, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ. Trò chơi có hiệu quả khi chúng tạo động lực, giảm căng thẳng cho người học và tạo cơ hội cho người học ngôn ngữ giao tiếp thực sự [6; tr 10]. Có thể thấy, các tác giả trên đều nhấn mạnh mục đích quan trọng của việc sử dụng trò chơi trong dạy học là GV muốn có một bài học tốt hơn, đồng thời học sinh (HS) của họ cũng hưởng nhiều lợi ích nhờ phương pháp này. Một số lợi ích chung của việc sử dụng t ... i ngôn ngữ được sử dụng để lấp chỗ trống ở một vài phút đầu hoặc cuối của một bài học hoặc chỉ dành cho một số HS nhanh hơn trong khi những HS khác chỉ quen với hình thức làm bài tập. Không có gì sai trong việc này, nhưng đó là một cái nhìn khá hạn hẹp về trò chơi. Theo Lee (1991), một trò chơi “không nên được coi là một hoạt động ngoài lề trong những khi GV và HS không có việc gì tốt hơn để làm”, nó phải là trung tâm của việc giảng dạy ngoại ngữ [19]. Wright, Betteridge và Buckby (1984) cũng nhận định rằng, “trò chơi là một hoạt động thực hành ngôn ngữ đậm nét và ý nghĩa, do đó chúng phải được coi là trọng tâm cho tiết dạy của GV. Chúng không nên chỉ được sử dụng vào những ngày mưa và cuối học kì” [4]. Trò chơi có thể được sử dụng để thực hành tất cả các kĩ năng: đọc, viết, nghe và nói; trong tất cả các giai đoạn của quá trình dạy và học như: trình bày, lặp lại, tái kết hợp và sử dụng ngôn ngữ tự do; và cho nhiều hình thức giao tiếp như khuyến khích, phê bình, đồng ý, giải thích. Nói chung, trò chơi có thể là một phần tích hợp của giáo trình giảng dạy và có thể được sử dụng ở bất kì giai đoạn nào của quá trình dạy ngôn ngữ miễn là chúng phù hợp và được lựa chọn một cách cẩn thận. 2.4.2. Lựa chọn trò chơi Trò chơi có thể được lấy từ nhiều nguồn nhưng không phải tất cả chúng đều áp dụng được vào lớp học. Các trò chơi có thể được sử dụng phỏng theo nguyên bản hoặc biến tấu thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời đại công nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi trong giảng dạy như ngày nay, các trò chơi được thiết kế rất phong phú trên nhiều phần mềm hỗ trợ như: PowerPoint, Kahoot, Google Forms, Edmodo,... và được tiến hành chơi thông qua các công cụ như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng. Một số trò chơi khá phổ biến như là: Telephone Game, Crossword, Kim’s Game, Hot Seat, Meeting People, Jobs and Questions, Hang Man, Bingo, Who’s Millionaire?... GV nên lựa chọn khôn ngoan về việc trò chơi nào có thể sử dụng cho việc học hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích đó, quyết định quan trọng của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất là yếu tố về độ tuổi của người học. Wright, Betteridge và Buckly (1984) nói rằng, “thưởng thức trò chơi không bị hạn chế theo độ tuổi” [4; tr 2]. Một số người, bất kể tuổi tác, có thể ít quan tâm đến trò chơi hơn những người khác. Tuy nhiên, kết quả của việc áp dụng trò chơi phụ thuộc nhiều vào sự phù hợp và vai trò của người chơi. Tuổi của học viên chi phối lựa chọn trò chơi cho việc dạy ngôn ngữ vì không phải tất cả các trò chơi đều phù hợp với mọi người học bất kể độ tuổi của họ, các nhóm tuổi khác nhau yêu cầu chủ đề, tài liệu và phương thức trò chơi khác nhau. Ví như sẽ không hợp lí khi cho trẻ nhỏ chơi trò Hình ảnh Dominoes - trò chơi yêu cầu khả năng liên kết các khái niệm trừu tượng. Hay mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau về hoạt động chơi trò chơi. Nhóm tuổi nhỏ thường rất sẵn sàng và thích thú chơi trò chơi. Nhưng lứa tuổi thanh thiếu niên có thể coi là nhóm khó khăn nhất để sử dụng trò chơi vì họ không muốn bị đối xử như trẻ nhỏ. Với lứa tuổi này, tốt hơn hết, từ “hoạt động” cũng nên được dùng thay thế từ “trò chơi”. Một lí do được đưa ra là lứa tuổi thanh thiếu niên có khuynh hướng tự ý thức về bản thân, do đó GV nên “cân nhắc sự thu mình của họ” khi chọn trò chơi. Trong trường hợp này, các trò chơi theo cặp hoặc theo nhóm có thể sẽ hữu ích. Khác với nhóm trẻ em và thanh thiếu niên, nhóm người trưởng thành thường thoải mái vui vẻ tham gia các trò chơi một cách đáng ngạc nhiên, miễn rằng trò chơi được tổ chức một cách khéo léo. Thứ hai là trình độ ngoại ngữ của người học và kiến thức đã học. Ví dụ trò chơi thực hành cấu trúc hoặc củng cố một phần ngữ pháp nhất định của ngôn ngữ phải liên quan đến khả năng của người học và kiến thức trước đó, nếu không trò chơi sẽ trở nên khó khăn cho người học. Tuy nhiên, HS cũng sẽ cảm thấy buồn chán khi chơi các trò chơi quá dễ. Thứ ba là nền tảng kiến thức chung của người học. Một số trò chơi cần người chơi có một lượng kiến thức nhất định về thế giới xung quanh. Ví dụ trò chơi tiếng Anh nổi tiếng Botticelli. Trong trò chơi này, người thách thức sẽ nghĩ về một người nổi tiếng hoặc một tác phẩm nghệ thuật, văn học,... và nói cho cả nhóm biết chữ cái đầu của tên người hay tác phẩm đó, ví dụ: “P”. Những VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 244 người chơi còn lại cố gắng đoán xem đó là ai hay thứ gì bằng cách suy nghĩ về những câu trả lời bắt đầu bằng chữ cái đó và đặt câu hỏi giống như: “Bạn có phải là họa sĩ trừu tượng nổi tiếng không?” (Họ có thể nghĩ về Picasso). Trò chơi sẽ gặp khó khăn nếu người thách thức hoặc người chơi không biết Picasso là ai. Yếu tố cuối cùng là sự tự tin vào bản thân của người học. Nhiều người học không tin rằng mình đã thành công trừ khi điều đó được xác nhận và khen tặng bởi GV. Trong trường hợp này, những trò chơi trong đó GV là người phán xử và ghi điểm cho câu trả lời đúng, hoặc những trò chơi yêu cầu người chơi viết hay vẽ, qua đó mức độ hoàn thành của người chơi được thể hiện rõ, sẽ là một lựa chọn tốt. Như vậy, để chọn lựa trò chơi thích hợp sử dụng vào bài giảng, GV cần cân nhắc nhiều yếu tố, trong đó nổi bật nhất là các yếu tố về độ tuổi, trình độ ngoại ngữ, nền tảng kiến thức chung và sự tự tin của người học. 2.4.3. Quá trình áp dụng trò chơi Như đã đề cập ở trên, trò chơi có thể được sử dụng trong bất kì kĩ năng nào và vào bất kì giai đoạn nào của kĩ năng đó tùy vào mục đích bài giảng và mục đích áp dụng của GV. Dù là loại trò chơi nào, GV cần chuẩn bị cẩn thận cho từng trò chơi, bao gồm: thời gian, tài liệu, phương tiện hỗ trợ, bản trình bày trò chơi, hoạt động trong khi chơi, sau khi chơi. Mỗi trò chơi thường kéo dài từ 12-15 phút, có thể dài hoặc ngắn hơn tùy thuộc vào mục đích và yêu cầu của bài học. Ví dụ, trò chơi được áp dụng trong giai đoạn khởi động nên kéo dài 3-5 phút là phù hợp. GV có thể tiến hành trò chơi theo 3 bước như sau: Bước 1: Trước khi chơi GV giới thiệu trò chơi cho HS, đó là giai đoạn quan trọng nhất để chơi trò chơi. Để đảm bảo thành công, tất cả các hướng dẫn trong giai đoạn này phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, đơn giản nhất có thể. Hướng dẫn trò chơi bao gồm các bước sau: - Giới thiệu mục đích của trò chơi; - Giải thích các quy tắc của trò chơi, số điểm, hoặc lượng thời gian tối đa; - Cung cấp một ví dụ mẫu về trò chơi cho các sinh viên bắt chước và giúp họ hiểu tất cả các hướng dẫn. Trong giai đoạn chuẩn bị này, GV đóng một vai trò quan trọng vì một bài thuyết trình được chuẩn bị kĩ lưỡng và chi tiết sẽ đảm bảo tỉ lệ phản hồi cao từ người học. Bước 2: Quá trình chơi Trong trò chơi, GV nên can thiệp càng ít càng tốt để tạo ra một bầu không khí riêng cho HS, từ đó họ có thể tận dụng cơ hội tham gia vào trò chơi một cách tích cực và cố gắng thực hiện các trò chơi thành công. GV đi quanh lớp học quan sát, khuyến khích HS tham gia vào trò chơi. Trong một số loại trò chơi, GV thậm chí còn tham gia cùng HS. Hầu hết các trò chơi được lựa chọn đều được chơi giữa các nhóm. Lí do khiến HS làm việc theo nhóm là khuyến khích HS làm trung gian cho những người yếu hơn và tạo ra bầu không khí cạnh tranh giữa các nhóm. Bước 3: Kết thúc trò chơi GV tuyên bố người, đội thắng cuộc và giải thưởng, sau đó đưa ra phản hồi và nhận xét. Điểm chính ở đây là mang lại những điều tốt nhất cho người học và cho họ thấy rằng tất cả những gì họ đã làm và trải nghiệm với ngôn ngữ đều thú vị. 2.5. Một số lưu ý khi áp dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh Trò chơi có thể được coi là một công cụ để tăng động lực học của HS, từ đó cải thiện việc học tập môn Tiếng Anh. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, một số ý kiến hướng tới khai thác các trò chơi này cũng nên được xem xét. Trong một lớp học, có rất nhiều HS với cá tính khác nhau: có HS nhiệt tình tham gia các hoạt động trên lớp, có HS chưa tích cực. Vì vậy, GV nên lựa chọn các trò chơi hoặc hoạt động trong đó đặt trách nhiệm trên mỗi cá nhân một cách bình đẳng, các thành viên trong nhóm không thể trốn tránh việc hoàn thành nhiệm vụ nhất định. Ngoài ra, cần chú ý nhiều hơn đến những HS nhút nhát và chậm chạp để họ tự tin hơn tham gia vào lớp học. Một trong những cách để làm điều này là cung cấp cho HS nhiều cơ hội chiến thắng hơn bằng cách tiến hành nhiều trò chơi có chứa một số yếu tố may mắn, ví dụ như trò chơi Bingo. Đối với những HS không thích chơi trò chơi, GV cần giải thích những lợi thế của trò chơi, cho họ thấy rằng trò chơi không chỉ là hoạt động giải trí mà còn có giá trị giáo dục cao và khuyến khích họ thử tham gia. GV có thể chỉ định một số HS làm trọng tài để đảm bảo công bằng. Ngoài ra, những trò chơi được chuẩn bị bằng hình ảnh, thẻ hình hoặc những dụng cụ trực quan có thể thu hút người học nhiều hơn. GV cũng nên có sự lựa chọn các trò chơi cho phù hợp với nhu cầu, sở thích, mối quan tâm của HS và liên quan đến nội dung của bài học. Hướng dẫn của GV cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của trò chơi. Điều này cho thấy rằng mệnh lệnh nên đơn giản và ngắn gọn. Các hướng dẫn phải được trình bày theo thứ tự logic với các từ liên tiếp, rõ ràng hoặc các số thứ tự. GV có thể sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ ở giai đoạn này nếu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 245 cần thiết vì sẽ lãng phí thời gian khi để HS không được chuẩn bị một cách kĩ lưỡng tham gia vào một hoạt động mà họ chưa hiểu đầy đủ, mọi thứ sẽ đi lệch hướng rất nhanh và sau đó GV sẽ phải dành nhiều thời gian hơn để cố gắng khắc phục tình hình. Lưu ý cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là khâu quản lí lớp học. Trong khi HS đang chơi trò chơi, rất nhiều tiếng ồn có thể được tạo ra, đặc biệt là trong các lớp học lớn. Vì vậy, GV cần phải làm một số công tác quản lí lớp học cũng như đưa ra các quy tắc nhất định để kiểm soát tiếng ồn và sự lộn xộn gây ra bởi một vài HS quá kích động. 3. Kết luận Phương pháp sử dụng trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ xuất hiện đã lâu nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự nhận được sự quan tâm thích đáng từ nhiều GV và các nhà giáo dục hoặc việc áp dụng chưa mang lại hiệu quả cao nhất. Nguyên nhân một phần có lẽ do tính ưu việt của phương pháp này chưa được đánh giá, thấu hiểu một cách sâu sắc. Bên cạnh đó, do áp lực về thời gian hoặc khối lượng kiến thức cần truyền tải mà nhiều GV vẫn lựa chọn phương pháp truyền thống là thuyết trình và luyện tập làm bài hơn là dành thời gian cho HS thực hành thông qua các hoạt động trò chơi. Một yếu tố ảnh hưởng khác là phương pháp trò chơi cần sự chuẩn bị cầu kì, phức tạp hơn trước khi lên lớp và chiếm một khoảng thời gian nhất định trên lớp để thực hiện; ngoài ra, nếu GV không có sự tinh luyện và linh hoạt, quá trình diễn biến của trò chơi có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát của họ, đem lại nhiều khó khăn cho tiết dạy. Tuy nhiên, như đã đề cập trong bài viết, phương pháp này hàm chứa nhiều ưu điểm nổi bật rất đáng được quan tâm, đặc biệt là tạo bầu không khí học tập vui vẻ, giúp tăng cường động lực học tập và đem lại nhiều cơ hội để người học thực hành ngôn ngữ. Chúng tôi hi vọng bài viết có thể cung cấp một cái nhìn đầy đủ, trọn vẹn hơn về phương pháp trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ về các mặt ưu điểm, phương pháp áp dụng cũng như những lưu ý khi lựa chọn trò chơi; qua đó, các thầy, cô giáo sẽ dành cho phương pháp trò chơi một vị trí xứng đáng hơn trong các bài giảng của mình. Tài liệu tham khảo [1] Byrne, D. (1980). English teaching perspectives. London: Longman Group, United Kingdom. [2] Greenall, S. (1990). Language game and activities. Britain: Hulton Education Publication Ltd. [3] Rixon, S. (1992). How to use games in language teaching. London: Illustration Macmillan. [4] Wright, A. - Betteridge, D. - Buckby, M. (1984). Games for language learning. Cambridge: Cambridge University Press. [5] Lee, S. K. (1995). Creative games for the language class. Forum, Vol. 33(1), retrieved from [6] Richard-Amato, P.A. (1996). Making it happen: Interaction in the second language classroom (2nd ed.). New York: Longman. [7] David, K. - Hollowell, J. (1989). Inventing and playing games in the English classroom. Oxford: Oxford University Press. [8] Jacobs, G. M., - Kline-Liu, K. (1996). Integrating language functions and collaborative skills in the second language classroom. TESL Reporter, Vol. 29(1), pp. 21-33. [9] Avedon, E. M. - Sutton-Smith, B. (1971). The study of games. London: John Wiley & Sons. [10] Schultz, M. - Fisher. A. (1988). Interacting in the language classroom: games for all reasons. Massachusetts: Addison-Wesley Publishing Company. [11] Richard-Amato, P. A. (1988). Making it happen: Interaction in the second language classroom: From theory to practice. New York: Longman. [12] Nguyen Thi Thanh Huyen - Khuat Thi Thu Nga (2003). The effectiveness learning vocabulary through games. Asian EFL Journal Quarterly, Vol. 5(4), retrieved from journal.com/dec_03_vn.pdf. [13] Duong Ngoc Chau (2008). Do games help students learn vocabulary effectively? MA thesis, Lac Hong University. [14] Zdybiewska, M. (1994). One-hundred language games. Warszawa: WSiP. [15] Riedel, C. (2008). Web 2.0: helping reinvent education. Retrieved from helping-reinvent-education.aspx. [16] Hadfield, J. (1999). Beginners’ communication games. London: Longman. [17] Luu Trong Tuan - Nguyen Thi Minh Doan (2010). Teaching English grammar through games. Studies in literature and language, Vol. 1(7), pp. 61-75. [18] Mccallum, G. P. (1980). 101 word games. USA: Oxford University Press. [19] Lee, W. R. (1991). Language teaching games and contests. Oxford: Oxford University Press.
File đính kèm:
- su_dung_tro_choi_trong_giang_day_tieng_anh_muc_dich_va_phuon.pdf