Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp

Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn

thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và

tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây

là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã

trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở

Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại

học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều

phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng,

trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành

rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu

dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động

lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi

dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng

về hình thức, thể lệ, mục đích,. Tuy nhiên, không phải lúc

nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong

muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần

lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn

trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,. Bên cạnh đó, nhiều

nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong

giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các

nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi

riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định

(nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,.)

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 1

Trang 1

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 2

Trang 2

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 3

Trang 3

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 4

Trang 4

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 5

Trang 5

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 10380
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp

Sử dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh - Mục đích và phương pháp
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 
240 
Email: ntthuyen@hluv.edu.vn 
SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH 
- MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nguyễn Thị Thúy Huyền - Phạm Thanh Tâm - Nguyễn Thị Liên 
Trường Đại học Hoa Lư 
Ngày nhận bài: 20/02/2019; ngày chỉnh sửa: 18/3/2019; ngày duyệt đăng: 19/5/2019. 
Abstract: This article focuses on the use of games in TEFL (Teaching English as a Foreign 
Language). Firstly, we present the definition of games in TEFL, the purposes of using games in 
teaching and learning as well as its classifications. Then, the article provides an insight into how 
games can be employed in the language classrooms, including when to use games, which games 
to use and the procedure to apply them. The final part of the article looks at some outstanding 
notices which should be carefully considered. 
Keywords: Games, purpose, method, TEFL classrooms. 
1. Mở đầu 
Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn 
thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và 
tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây 
là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã 
trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở 
Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại 
học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều 
phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng, 
trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành 
rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu 
dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động 
lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi 
dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng 
về hình thức, thể lệ, mục đích,... Tuy nhiên, không phải lúc 
nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong 
muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần 
lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn 
trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,... Bên cạnh đó, nhiều 
nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong 
giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các 
nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi 
riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định 
(nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,...). 
Nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về trò chơi và sử 
dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh nói chung, bài 
viết đề cập khái niệm về trò chơi, những ưu điểm của việc 
sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, phương 
pháp áp dụng trò chơi và một số điểm lưu ý khi áp dụng 
phương pháp này. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Khái niệm trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh như 
một ngoại ngữ 
Byrne (1980) định nghĩa trò chơi trong giảng dạy 
ngoại ngữ là một hình thức chơi chiểu theo các quy tắc 
và bản chất là chúng rất thú vị và vui vẻ [1]. Đề cập đến 
các đặc tính cụ thể hơn của “trò chơi” trong giảng dạy 
ngoại ngữ, Greenall (1990) nêu rõ: “thuật ngữ “trò 
chơi” được sử dụng bất cứ khi nào có yếu tố cạnh tranh 
giữa các sinh viên hoặc các nhóm trong một hoạt động 
ngôn ngữ” [2; tr 6]. Đồng tình với quan điểm trên, theo 
Rixon (1992), trò chơi bao gồm hai tính năng chính: cạnh 
tranh và hợp tác giữa các người chơi. Cạnh tranh có thể 
là “một người chống lại phần còn lại” hoặc các cá nhân 
cạnh tranh nhau, và hợp tác có thể là “mọi người cùng 
nhau”, “hợp tác trong một nhóm”, “cùng với một nhóm 
chống lại phần còn lại” hoặc “cùng với một cá nhân khác 
chống lại phần còn lại”; trong một trò chơi, có thể là cạnh 
tranh hoặc hợp tác, hoặc cả hai [3]. Bên cạnh đó, ông đưa 
ra sự phân biệt giữa “trò chơi ngôn ngữ” và “trò chơi 
thông thường” - đó là việc sử dụng ngôn ngữ để đạt được 
mục đích. Theo ông, “trò chơi ngôn ngữ” có thể sử dụng 
một số kĩ năng được thực hiện trong “trò chơi thông 
thường” như kĩ năng vật lí, phối hợp tay và mắt như chơi 
tennis, hoặc trí tuệ và chiến thuật như chơi cờ vua, cờ 
tướng. Tuy nhiên, trọng tâm trong “trò chơi ngôn ngữ” 
chính là ngôn ngữ. Bất kể mục đích cụ thể của trò chơi là 
gì, mục tiêu chung của tất cả các trò chơi ngôn ngữ là 
phát triển và cải thiện kĩ năng ngôn ngữ, chẳng hạn như 
chính tả, phát âm, nghe hiểu, đọc hiểu,... 
Tóm lại, trò chơi là một phương pháp được sử dụng 
trong giảng dạy ngoại ngữ; theo đó, các hoạt động chơi 
diễn ra có quy tắc và có tính cạnh tranh, hợp tác với trọng 
tâm là ngôn ngữ. Qua các trò chơi, người học trải nghiệm 
sự vui vẻ và phát triển khả năng ngôn ngữ của mình. 
2.2. Ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học 
ngôn ngữ 
Bàn về vai trò của trò chơi trong dạy và học ngôn 
ngữ, Wright, Betteridge và Buckby (1984) đã viết: “Học 
ngôn ngữ là công việc khó khăn. Người học cần nỗ lực ở 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 
241 
mọi thời điểm trong một thời gian dài. Trò chơi giúp đỡ 
và khuyến khích nhiều người học duy trì sự yêu thích với 
môn học và nâng cao động lực học tập”, đồng thời “trò 
chơi giúp GV tạo ra ngữ cảnh trong đó ngôn ngữ trở nên 
hữu ích và có ý nghĩa” [4; tr 1]. Cùng quan điểm trên, 
Lee (1995) nhấn mạnh, học tập là một hoạt động nghiêm 
túc nhưng nếu một người vui vẻ, cười nói thì không có 
nghĩa là việc học tập đó trở nên thiếu trang trọng. Ông 
cho rằng việc học ngôn ngữ có thể đi đôi với sự tận 
hưởng. Một trong những cách tốt nhất để làm điều này là 
thông qua trò chơi [5]. Richard-Amato (1996) trong cuốn 
sách của mình cũng đã viết, mặc dù trò chơi thường gắn 
liền với niềm vui, chúng ta không nên đánh mất các giá 
trị sư phạm của chúng, đặc biệt là trong việc dạy và học 
ngoại ngữ. Trò chơi có hiệu quả khi chúng tạo động lực, 
giảm căng thẳng cho người học và tạo cơ hội cho người 
học ngôn ngữ giao tiếp thực sự [6; tr 10]. 
Có thể thấy, các tác giả trên đều nhấn mạnh mục đích 
quan trọng của việc sử dụng trò chơi trong dạy học là GV 
muốn có một bài học tốt hơn, đồng thời học sinh (HS) 
của họ cũng hưởng nhiều lợi ích nhờ phương pháp này. 
Một số lợi ích chung của việc sử dụng t ... i ngôn ngữ được sử dụng để 
lấp chỗ trống ở một vài phút đầu hoặc cuối của một bài 
học hoặc chỉ dành cho một số HS nhanh hơn trong khi 
những HS khác chỉ quen với hình thức làm bài tập. 
Không có gì sai trong việc này, nhưng đó là một cái nhìn 
khá hạn hẹp về trò chơi. Theo Lee (1991), một trò chơi 
“không nên được coi là một hoạt động ngoài lề trong 
những khi GV và HS không có việc gì tốt hơn để làm”, 
nó phải là trung tâm của việc giảng dạy ngoại ngữ [19]. 
Wright, Betteridge và Buckby (1984) cũng nhận định 
rằng, “trò chơi là một hoạt động thực hành ngôn ngữ 
đậm nét và ý nghĩa, do đó chúng phải được coi là trọng 
tâm cho tiết dạy của GV. Chúng không nên chỉ được sử 
dụng vào những ngày mưa và cuối học kì” [4]. 
Trò chơi có thể được sử dụng để thực hành tất cả các 
kĩ năng: đọc, viết, nghe và nói; trong tất cả các giai đoạn 
của quá trình dạy và học như: trình bày, lặp lại, tái kết 
hợp và sử dụng ngôn ngữ tự do; và cho nhiều hình thức 
giao tiếp như khuyến khích, phê bình, đồng ý, giải thích. 
Nói chung, trò chơi có thể là một phần tích hợp của 
giáo trình giảng dạy và có thể được sử dụng ở bất kì giai 
đoạn nào của quá trình dạy ngôn ngữ miễn là chúng phù 
hợp và được lựa chọn một cách cẩn thận. 
2.4.2. Lựa chọn trò chơi 
Trò chơi có thể được lấy từ nhiều nguồn nhưng không 
phải tất cả chúng đều áp dụng được vào lớp học. Các trò 
chơi có thể được sử dụng phỏng theo nguyên bản hoặc 
biến tấu thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong 
thời đại công nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi trong 
giảng dạy như ngày nay, các trò chơi được thiết kế rất 
phong phú trên nhiều phần mềm hỗ trợ như: PowerPoint, 
Kahoot, Google Forms, Edmodo,... và được tiến hành 
chơi thông qua các công cụ như máy tính, điện thoại 
thông minh, máy tính bảng. Một số trò chơi khá phổ biến 
như là: Telephone Game, Crossword, Kim’s Game, Hot 
Seat, Meeting People, Jobs and Questions, Hang Man, 
Bingo, Who’s Millionaire?... GV nên lựa chọn khôn 
ngoan về việc trò chơi nào có thể sử dụng cho việc học 
hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích đó, quyết định quan 
trọng của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 
Thứ nhất là yếu tố về độ tuổi của người học. Wright, 
Betteridge và Buckly (1984) nói rằng, “thưởng thức trò 
chơi không bị hạn chế theo độ tuổi” [4; tr 2]. Một số 
người, bất kể tuổi tác, có thể ít quan tâm đến trò chơi hơn 
những người khác. Tuy nhiên, kết quả của việc áp dụng 
trò chơi phụ thuộc nhiều vào sự phù hợp và vai trò của 
người chơi. Tuổi của học viên chi phối lựa chọn trò chơi 
cho việc dạy ngôn ngữ vì không phải tất cả các trò chơi 
đều phù hợp với mọi người học bất kể độ tuổi của họ, các 
nhóm tuổi khác nhau yêu cầu chủ đề, tài liệu và phương 
thức trò chơi khác nhau. Ví như sẽ không hợp lí khi cho 
trẻ nhỏ chơi trò Hình ảnh Dominoes - trò chơi yêu cầu 
khả năng liên kết các khái niệm trừu tượng. Hay mỗi độ 
tuổi khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau về hoạt động 
chơi trò chơi. Nhóm tuổi nhỏ thường rất sẵn sàng và thích 
thú chơi trò chơi. Nhưng lứa tuổi thanh thiếu niên có thể 
coi là nhóm khó khăn nhất để sử dụng trò chơi vì họ 
không muốn bị đối xử như trẻ nhỏ. Với lứa tuổi này, tốt 
hơn hết, từ “hoạt động” cũng nên được dùng thay thế từ 
“trò chơi”. Một lí do được đưa ra là lứa tuổi thanh thiếu 
niên có khuynh hướng tự ý thức về bản thân, do đó GV 
nên “cân nhắc sự thu mình của họ” khi chọn trò chơi. 
Trong trường hợp này, các trò chơi theo cặp hoặc theo 
nhóm có thể sẽ hữu ích. Khác với nhóm trẻ em và thanh 
thiếu niên, nhóm người trưởng thành thường thoải mái 
vui vẻ tham gia các trò chơi một cách đáng ngạc nhiên, 
miễn rằng trò chơi được tổ chức một cách khéo léo. 
Thứ hai là trình độ ngoại ngữ của người học và kiến 
thức đã học. Ví dụ trò chơi thực hành cấu trúc hoặc củng 
cố một phần ngữ pháp nhất định của ngôn ngữ phải liên 
quan đến khả năng của người học và kiến thức trước đó, 
nếu không trò chơi sẽ trở nên khó khăn cho người học. 
Tuy nhiên, HS cũng sẽ cảm thấy buồn chán khi chơi các 
trò chơi quá dễ. 
Thứ ba là nền tảng kiến thức chung của người học. 
Một số trò chơi cần người chơi có một lượng kiến thức 
nhất định về thế giới xung quanh. Ví dụ trò chơi tiếng 
Anh nổi tiếng Botticelli. Trong trò chơi này, người thách 
thức sẽ nghĩ về một người nổi tiếng hoặc một tác phẩm 
nghệ thuật, văn học,... và nói cho cả nhóm biết chữ cái 
đầu của tên người hay tác phẩm đó, ví dụ: “P”. Những 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 
244 
người chơi còn lại cố gắng đoán xem đó là ai hay thứ gì 
bằng cách suy nghĩ về những câu trả lời bắt đầu bằng chữ 
cái đó và đặt câu hỏi giống như: “Bạn có phải là họa sĩ 
trừu tượng nổi tiếng không?” (Họ có thể nghĩ về Picasso). 
Trò chơi sẽ gặp khó khăn nếu người thách thức hoặc 
người chơi không biết Picasso là ai. 
Yếu tố cuối cùng là sự tự tin vào bản thân của người 
học. Nhiều người học không tin rằng mình đã thành công 
trừ khi điều đó được xác nhận và khen tặng bởi GV. 
Trong trường hợp này, những trò chơi trong đó GV là 
người phán xử và ghi điểm cho câu trả lời đúng, hoặc 
những trò chơi yêu cầu người chơi viết hay vẽ, qua đó 
mức độ hoàn thành của người chơi được thể hiện rõ, sẽ 
là một lựa chọn tốt. 
Như vậy, để chọn lựa trò chơi thích hợp sử dụng vào 
bài giảng, GV cần cân nhắc nhiều yếu tố, trong đó nổi bật 
nhất là các yếu tố về độ tuổi, trình độ ngoại ngữ, nền tảng 
kiến thức chung và sự tự tin của người học. 
2.4.3. Quá trình áp dụng trò chơi 
Như đã đề cập ở trên, trò chơi có thể được sử dụng 
trong bất kì kĩ năng nào và vào bất kì giai đoạn nào của 
kĩ năng đó tùy vào mục đích bài giảng và mục đích áp 
dụng của GV. Dù là loại trò chơi nào, GV cần chuẩn bị 
cẩn thận cho từng trò chơi, bao gồm: thời gian, tài liệu, 
phương tiện hỗ trợ, bản trình bày trò chơi, hoạt động 
trong khi chơi, sau khi chơi. Mỗi trò chơi thường kéo dài 
từ 12-15 phút, có thể dài hoặc ngắn hơn tùy thuộc vào 
mục đích và yêu cầu của bài học. Ví dụ, trò chơi được áp 
dụng trong giai đoạn khởi động nên kéo dài 3-5 phút là 
phù hợp. 
GV có thể tiến hành trò chơi theo 3 bước như sau: 
Bước 1: Trước khi chơi 
GV giới thiệu trò chơi cho HS, đó là giai đoạn quan 
trọng nhất để chơi trò chơi. Để đảm bảo thành công, tất 
cả các hướng dẫn trong giai đoạn này phải rõ ràng, ngắn 
gọn, chính xác, đơn giản nhất có thể. Hướng dẫn trò chơi 
bao gồm các bước sau: - Giới thiệu mục đích của trò chơi; 
- Giải thích các quy tắc của trò chơi, số điểm, hoặc lượng 
thời gian tối đa; - Cung cấp một ví dụ mẫu về trò chơi 
cho các sinh viên bắt chước và giúp họ hiểu tất cả các 
hướng dẫn. 
Trong giai đoạn chuẩn bị này, GV đóng một vai trò 
quan trọng vì một bài thuyết trình được chuẩn bị kĩ lưỡng 
và chi tiết sẽ đảm bảo tỉ lệ phản hồi cao từ người học. 
Bước 2: Quá trình chơi 
Trong trò chơi, GV nên can thiệp càng ít càng tốt để 
tạo ra một bầu không khí riêng cho HS, từ đó họ có thể 
tận dụng cơ hội tham gia vào trò chơi một cách tích cực 
và cố gắng thực hiện các trò chơi thành công. GV đi 
quanh lớp học quan sát, khuyến khích HS tham gia vào 
trò chơi. Trong một số loại trò chơi, GV thậm chí còn 
tham gia cùng HS. Hầu hết các trò chơi được lựa chọn 
đều được chơi giữa các nhóm. Lí do khiến HS làm việc 
theo nhóm là khuyến khích HS làm trung gian cho những 
người yếu hơn và tạo ra bầu không khí cạnh tranh giữa 
các nhóm. 
Bước 3: Kết thúc trò chơi 
GV tuyên bố người, đội thắng cuộc và giải thưởng, 
sau đó đưa ra phản hồi và nhận xét. Điểm chính ở đây là 
mang lại những điều tốt nhất cho người học và cho họ 
thấy rằng tất cả những gì họ đã làm và trải nghiệm với 
ngôn ngữ đều thú vị. 
2.5. Một số lưu ý khi áp dụng trò chơi trong giảng dạy 
tiếng Anh 
Trò chơi có thể được coi là một công cụ để tăng 
động lực học của HS, từ đó cải thiện việc học tập môn 
Tiếng Anh. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, một số ý 
kiến hướng tới khai thác các trò chơi này cũng nên được 
xem xét. 
Trong một lớp học, có rất nhiều HS với cá tính khác 
nhau: có HS nhiệt tình tham gia các hoạt động trên lớp, 
có HS chưa tích cực. Vì vậy, GV nên lựa chọn các trò 
chơi hoặc hoạt động trong đó đặt trách nhiệm trên mỗi 
cá nhân một cách bình đẳng, các thành viên trong nhóm 
không thể trốn tránh việc hoàn thành nhiệm vụ nhất 
định. Ngoài ra, cần chú ý nhiều hơn đến những HS nhút 
nhát và chậm chạp để họ tự tin hơn tham gia vào lớp 
học. Một trong những cách để làm điều này là cung cấp 
cho HS nhiều cơ hội chiến thắng hơn bằng cách tiến 
hành nhiều trò chơi có chứa một số yếu tố may mắn, ví 
dụ như trò chơi Bingo. Đối với những HS không thích 
chơi trò chơi, GV cần giải thích những lợi thế của trò 
chơi, cho họ thấy rằng trò chơi không chỉ là hoạt động 
giải trí mà còn có giá trị giáo dục cao và khuyến khích 
họ thử tham gia. GV có thể chỉ định một số HS làm 
trọng tài để đảm bảo công bằng. 
Ngoài ra, những trò chơi được chuẩn bị bằng hình 
ảnh, thẻ hình hoặc những dụng cụ trực quan có thể thu 
hút người học nhiều hơn. GV cũng nên có sự lựa chọn 
các trò chơi cho phù hợp với nhu cầu, sở thích, mối quan 
tâm của HS và liên quan đến nội dung của bài học. 
Hướng dẫn của GV cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của 
trò chơi. Điều này cho thấy rằng mệnh lệnh nên đơn giản 
và ngắn gọn. Các hướng dẫn phải được trình bày theo thứ 
tự logic với các từ liên tiếp, rõ ràng hoặc các số thứ tự. 
GV có thể sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ ở giai đoạn này nếu 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245 
245 
cần thiết vì sẽ lãng phí thời gian khi để HS không được 
chuẩn bị một cách kĩ lưỡng tham gia vào một hoạt động 
mà họ chưa hiểu đầy đủ, mọi thứ sẽ đi lệch hướng rất 
nhanh và sau đó GV sẽ phải dành nhiều thời gian hơn để 
cố gắng khắc phục tình hình. 
Lưu ý cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng 
là khâu quản lí lớp học. Trong khi HS đang chơi trò chơi, 
rất nhiều tiếng ồn có thể được tạo ra, đặc biệt là trong các 
lớp học lớn. Vì vậy, GV cần phải làm một số công tác 
quản lí lớp học cũng như đưa ra các quy tắc nhất định để 
kiểm soát tiếng ồn và sự lộn xộn gây ra bởi một vài HS 
quá kích động. 
3. Kết luận 
Phương pháp sử dụng trò chơi trong giảng dạy ngoại 
ngữ xuất hiện đã lâu nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự 
nhận được sự quan tâm thích đáng từ nhiều GV và các 
nhà giáo dục hoặc việc áp dụng chưa mang lại hiệu quả 
cao nhất. Nguyên nhân một phần có lẽ do tính ưu việt của 
phương pháp này chưa được đánh giá, thấu hiểu một 
cách sâu sắc. Bên cạnh đó, do áp lực về thời gian hoặc 
khối lượng kiến thức cần truyền tải mà nhiều GV vẫn lựa 
chọn phương pháp truyền thống là thuyết trình và luyện 
tập làm bài hơn là dành thời gian cho HS thực hành thông 
qua các hoạt động trò chơi. Một yếu tố ảnh hưởng khác 
là phương pháp trò chơi cần sự chuẩn bị cầu kì, phức tạp 
hơn trước khi lên lớp và chiếm một khoảng thời gian nhất 
định trên lớp để thực hiện; ngoài ra, nếu GV không có sự 
tinh luyện và linh hoạt, quá trình diễn biến của trò chơi 
có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát của họ, đem lại nhiều 
khó khăn cho tiết dạy. Tuy nhiên, như đã đề cập trong bài 
viết, phương pháp này hàm chứa nhiều ưu điểm nổi bật 
rất đáng được quan tâm, đặc biệt là tạo bầu không khí 
học tập vui vẻ, giúp tăng cường động lực học tập và đem 
lại nhiều cơ hội để người học thực hành ngôn ngữ. Chúng 
tôi hi vọng bài viết có thể cung cấp một cái nhìn đầy đủ, 
trọn vẹn hơn về phương pháp trò chơi trong giảng dạy 
ngoại ngữ về các mặt ưu điểm, phương pháp áp dụng 
cũng như những lưu ý khi lựa chọn trò chơi; qua đó, các 
thầy, cô giáo sẽ dành cho phương pháp trò chơi một vị trí 
xứng đáng hơn trong các bài giảng của mình. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Byrne, D. (1980). English teaching perspectives. 
London: Longman Group, United Kingdom. 
[2] Greenall, S. (1990). Language game and activities. 
Britain: Hulton Education Publication Ltd. 
[3] Rixon, S. (1992). How to use games in language 
teaching. London: Illustration Macmillan. 
[4] Wright, A. - Betteridge, D. - Buckby, M. (1984). 
Games for language learning. Cambridge: 
Cambridge University Press. 
[5] Lee, S. K. (1995). Creative games for the language 
class. Forum, Vol. 33(1), retrieved from 
[6] Richard-Amato, P.A. (1996). Making it happen: 
Interaction in the second language classroom (2nd 
ed.). New York: Longman. 
[7] David, K. - Hollowell, J. (1989). Inventing and 
playing games in the English classroom. Oxford: 
Oxford University Press. 
[8] Jacobs, G. M., - Kline-Liu, K. (1996). Integrating 
language functions and collaborative skills in the 
second language classroom. TESL Reporter, Vol. 
29(1), pp. 21-33. 
[9] Avedon, E. M. - Sutton-Smith, B. (1971). The study 
of games. London: John Wiley & Sons. 
[10] Schultz, M. - Fisher. A. (1988). Interacting in the 
language classroom: games for all reasons. 
Massachusetts: Addison-Wesley Publishing 
Company. 
[11] Richard-Amato, P. A. (1988). Making it happen: 
Interaction in the second language classroom: 
From theory to practice. New York: Longman. 
[12] Nguyen Thi Thanh Huyen - Khuat Thi Thu Nga 
(2003). The effectiveness learning vocabulary 
through games. Asian EFL Journal Quarterly, Vol. 
5(4), retrieved from 
journal.com/dec_03_vn.pdf. 
[13] Duong Ngoc Chau (2008). Do games help students 
learn vocabulary effectively? MA thesis, Lac Hong 
University. 
[14] Zdybiewska, M. (1994). One-hundred language 
games. Warszawa: WSiP. 
[15] Riedel, C. (2008). Web 2.0: helping reinvent 
education. Retrieved from 
helping-reinvent-education.aspx. 
[16] Hadfield, J. (1999). Beginners’ communication 
games. London: Longman. 
[17] Luu Trong Tuan - Nguyen Thi Minh Doan (2010). 
Teaching English grammar through games. Studies 
in literature and language, Vol. 1(7), pp. 61-75. 
[18] Mccallum, G. P. (1980). 101 word games. USA: 
Oxford University Press. 
[19] Lee, W. R. (1991). Language teaching games and 
contests. Oxford: Oxford University Press. 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_tro_choi_trong_giang_day_tieng_anh_muc_dich_va_phuon.pdf