Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng

Áp lực công việc là một tác nhân gây sang chấn tâm lý khá phổ biến, với các dạng rối loạn tâm thần (RLTT) như stress, trầm cảm và lo âu Mỗi ngành nghề có tải công việc khác nhau nên tỉ lệ, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến các rối loạn cũng khác nhau.

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 1

Trang 1

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 2

Trang 2

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 3

Trang 3

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 4

Trang 4

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 5

Trang 5

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 6

Trang 6

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 700
Bạn đang xem tài liệu "Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng

Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 223
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU Ở ĐIỀU DƯỠNG 
Hồ Thị Thu Hương*,Trần Kim Trang** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Áp lực công việc là một tác nhân gây sang chấn tâm lý khá phổ biến, với các dạng rối loạn tâm thần 
(RLTT) như stress, trầm cảm và lo âu Mỗi ngành nghề có tải công việc khác nhau nên tỉ lệ, mức độ và các yếu 
tố ảnh hưởng đến các rối loạn cũng khác nhau. 
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng (ĐD). 
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả 441 ĐD đang làm việc tại các khoa nội, khoa hồi sức 
tích cực và khoa cấp cứu của bệnh viện (BV) Nhân dân Gia Định (NDGĐ), BV Nguyễn Tri Phương (NTP) từ 03 
– 07/2015. Sử dụng thang đánh giá DASS 21. 
Kết quả: Tỉ lệ ĐD bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 35,8%, 25,9%, 47,8%, đa số ở mức độ nhẹ và vừa. 
17,2% ĐD có cùng 3 dạng rối loạn trên. Số giờ làm việc trung bình trong tuần, khối lượng công việc nhiều, quan 
hệ không tốt với bệnh nhân và thân nhân liên quan độc lập với cả stress, trầm cảm và lo âu. Trong khi khoa phòng 
công tác chỉ ảnh hưởng đến stress, lo âu thì quan hệ không tốt với lãnh đạo lại làm tăng nguy cơ trầm cảm ở ĐD. 
Kết luận: ĐD có tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu khá cao. Cần tổ chức khám sàng lọc định kỳ, cải thiện môi 
trường làm việc và các quan hệ trong công việc cũng như sắp xếp thời gian nghỉ ngơi hợp lý sẽ góp phần cải thiện 
thực trạng này. 
Từ khóa: stress, trầm cảm, lo âu, điều dưỡng 
ABSTRACT 
STRESS, ANXIETY, DEPRESSION IN NURSES 
Ho Thi Thu Huong, Tran Kim Trang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 223 - 229 
Background: Pressure at the workplace is a popular stressor of mental disorders as stress, depression, 
anxiety Different professions have various pressures leading to different agents, prevalence and level of 
mental disorders. 
Objectives: To investigate the state of stress, anxiety and depression in nurses. 
Methods: A cross – sectional survey using DASS 21 questionnaire was conducted on 441 nurses of Internal 
Medical Department, Intensive Care Unit, Emergency Department in Nhan dan Gia Dinh hospital and Nguyen 
Tri Phuong hospital during 03 - 07/2015. 
Results: The prevalence of stress, anxiety and depression was 35.8%, 25.9%, 47.8%, respectively with 
mostly mild and moderate level. 17.2% of nurses had all 3 disorders. The average work week, workload, bad 
relationship with patient and their family were independently associated with all stress, depression and anxiety. 
While workplace factor has been found to be associated with stress and anxiety, bad relationship with leader seem 
to increase the risk of triggering depression. 
Conclusion: There was a high prevalence of stress, depression, anxiety in nurses. Organizing 
periodical screening, improving the work environment and work relationships, having respite from hard 
work will improve this condition. 
* Bệnh viện Quận Thủ Đức, ** Bộ môn nội ĐHYD TPHCM 
Tác giả liên lạc: ThS BS. Hồ Thị Thu Hương ĐT: 0935388740 Email: ant_huong@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 224
Keywords: stress, anxiety, depression, nurse 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Áp lực công việc là một tác nhân gây sang 
chấn tâm lý khá phổ biến, với các thể RLTT như 
stress, trầm cảm và lo âu. So với các ngành nghề 
khác, do điều kiện lao động đặc thù, nguy cơ 
mắc RLTT ở nhân viên y tế (NVYT) cao gấp 1,5 
lần và ở ĐD cao hơn nữa(12). Các RLTT này để lại 
những hậu quả nghiêm trọng như sai lầm trong 
chăm sóc bệnh nhân, giao tiếp không tốt với 
bệnh nhân, thân nhân cũng như ảnh hưởng đến 
sức khoẻ bản thân và cuộc sống gia đình của ĐD. 
Trong khi đó, báo cáo của ngành y tế tại 
thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) ghi nhận, số 
trường hợp điều trị nội trú ngày càng gia tăng, 
khiến NVYT, đặc biệt là ĐD, trở thành đối tượng 
nguy cơ của stress, trầm cảm, lo âu. Tuy nhiên 
hầu hết các nghiên cứu đã công bố hoặc khảo sát 
độc lập (không cùng lúc) 3 RLTT trên hoặc khảo 
sát ngoài TP.HCM. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này 
nhằm xác định tỷ lệ, mức độ và các yếu tố liên 
quan đến stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD TP.HCM, 
với mong muốn các kết quả nghiên cứu sẽ làm 
tiền đề cho các nghiên cứu liên quan đến phòng 
chống stress, trầm cảm, lo âu và bảo vệ sức khoẻ 
cho ĐD TP.HCM sau này, đối tượng quan trọng 
có nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ người bệnh. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo 
âu ở ĐD các khoa nội. 
Khảo sát mối liên quan của stress, trầm cảm, 
lo âu với các yếu tố dân số học (giới, tuổi), xã hội 
học (nơi cư trú, tình trạng gia đình, kinh tế gia 
đình, trình độ học vấn), đặc tính công việc (khoa 
phòng công tác, thời gian lao động, lương bổng, 
chức vụ, khối lượng công việc, môi trường làm 
việc), quan hệ trong công việc (với lãnh đạo, 
đồng nghiệp, bệnh nhân, thân nhân). 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Địa điểm: 
BV NTP và BV NDGĐ tại TP.HCM. 
Thời gian nghiên cứu 
22/02/2015- 20/07/2015. 
Đối tượng nghiên cứu 
ĐD đang làm việc tại các khoa nội và hồi sức 
cấp cứu của 2 BV trên. 
Cỡ mẫu 
Theo công thức tính tỷ lệ lưu hành của 1 
quần thể. 
n: cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra = 228 
α : xác suất sai lầm loại 1, chọn α = 0,05 thì Z1- α/2 = Z0,975 
= 1,96. 
d: sai số cho phép (độ chính xác mong muốn của ước 
lượng), chọn d = 0,05. 
p = 0,181 (Tình trạng stress của ĐD và nữ hộ sinh BV 
Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014”của Ngô Thị Kiều My 
có 18,1% trên 370 ĐD và nữ hộ sinh được khảo sát có 
biểu hiện stress)(7). 
Phương pháp chọn mẫu 
Thuận tiện liên tiếp không xác suất. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tất cả ĐD đang làm việc tại 1 trong các khoa 
nội và hồi sức cấp cứu của 1 trong 2 BV kể cả 
biên chế và hợp đồng. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Vắng mặt dài hạn trong đợt khảo sát (nghỉ 
hậu sản, nghỉ ốm). 
Vắng mặt cả ba lần trong đợt khảo sát. 
Từ ch ... o rằng có quan hệ tốt (36,5%). 
Tỷ lệ, mức độ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD 
Bảng 3: Số điểm stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD 
RLTT TB ± ĐLC TV (ĐLC) 
Stress 12,7 ± 7,2 12 (8 – 16) 
Trầm cảm 6,5 ± 6,1 6 (2 – 10) 
Lo âu 7,6 ± 6,3 6 (4 – 10) 
Bảng 4: Tỉ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD 
RLTT Stress Trầm cảm Lo âu 
Không 64,2 74,2 52,2 
Rối loạn 35,8 25,8 47,8 
Nhẹ 18,1 14,1 14,7 
Vừa 11,8 7,9 23,1 
Nặng 5,4 2.7 4,1 
Rất nặng 0,5 1,1 5,9 
58,7% ĐD có RLTT, trong đó 17,2% ĐD có 
cả 3 dạng RLTT; 16,3% có 2 trong 3 dạng 
RLTT. 
Biểu đồ 2: Tỷ lệ điều dưỡng có rối loạn tâm thần 
Các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, 
lo âu 
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến stress – phân tích 
đa biến 
Biến số Giá trị p OR KTC 95% 
Phân bố địa chính 0,025 2,9 1,15 – 7,35 
Khoa phòng công tác < 0,001 2,97 1,69 – 5,21 
Số giờ làm việc trung bình 
trong tuần 
< 0,001 1,07 1,03 – 1,11 
Khối lượng công việc < 0,001 3,15 1,78 – 5,58 
Môi trường làm việc 0,013 2,39 1,2 – 4,73 
Quan hệ với bệnh nhân - 
thân nhân 
< 0,001 6,26 3,58 – 10,94 
Theo bảng trên, 5 yếu tố liên quan đến tăng 
stress là thường trú tại TP.HCM, làm việc tại 
khối hồi sức cấp cứu, khối lượng công việc 
nhiều, môi trường làm việc không thuận lợi, mối 
quan hệ không tốt với bệnh nhân và thân nhân. 
Tuy có ý nghĩa thống kê nhưng số giờ làm việc 
trung bình trong tuần không có tương quan 
mạnh với tỷ lệ stress. 
Bảng 6: Các yếu tố liên quan đến trầm cảm – phân 
tích đa biến 
Biến số Giá trị p OR KTC 95% 
Phân bố địa chính 0,043 3,12 1,04 – 9,38 
Số giờ làm việc trung bình 
trong tuần 
< 0,001 1,09 1,04 – 1,14 
Khối lượng công việc 0,003 2,64 1,4 – 5 
Quan hệ với lãnh đạo 0,01 2,38 1,24 – 4,6 
Quan hệ với bệnh nhân và 
thân nhân 
< 0,001 8,31 4,06 – 17,01 
Theo bảng trên, 4 yếu tố liên quan đến tăng 
trầm cảm là thường trú ở TP.HCM, khối lượng 
công việc nhiều, mối quan hệ không tốt với lãnh 
đạo, mối quan hệ không tốt với bệnh nhân và 
thân nhân. Tuy có khác biệt thống kê, nhưng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 227
thời gian làm việc trung bình trong tuần không 
có mối tương quan mạnh với tỷ lệ trầm cảm. 
Bảng 7: Các yếu tố liên quan đến lo âu – phân tích đa 
biến 
Biến số Giá trị p OR KTC 95% 
Khoa phòng công tác < 0,001 3,46 2,1 – 5,72 
Số giờ làm việc trung bình 
trong tuần 
0,029 1,04 1,01 – 1,08 
Khối lượng công việc 0,034 1,66 1,04 – 2,66 
Quan hệ với bệnh nhân và 
thân nhân 
< 0,001 6,06 3,73 – 9,83 
Theo bảng trên, 3 yếu tố liên quan đến tăng 
lo âu là làm việc trong khối hồi sức cấp cứu, khối 
lượng công việc nhiều, mối quan hệ không tốt 
với bệnh nhân - thân nhân. Tuy có ý nghĩa thống 
kê nhưng thời gian làm việc trung bình trong 
tuần không có tương quan mạnh với tỷ lệ lo âu. 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ và mức độ rối loạn 
Hầu hết các nghiên cứu dùng thang điểm 
DASS để khảo sát tình trạng stress, trầm cảm, 
lo âu ở ĐD, chúng tôi không ghi nhận cụ thể 
số điểm stress, trầm cảm, lo âu nên khó so 
sánh đối chiếu. 
Bảng 8: Tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD giữa 
các nghiên cứu sử dụng thang điểm DASS 
Tác giả n 
Tỷ lệ % 
Stress Trầm cảm Lo âu 
El-aal Nevine 2014
(3)
 126 41,6 41,8 69 
Nur Azma BA 2014
(1) 
453 4,1 3,1 31,1 
Ngô Thị Kiều My 2014
(7) 
208 18,1 
Chúng tôi 441 35,83 25,85 47,8 
Với các nghiên cứu cùng sử dụng thang 
DASS 21 như nghiên cứu của El-aal Nevine(3), tỷ 
lệ stress, trầm cảm, lo âu của nghiên cứu chúng 
tôi thấp hơn. Sự chênh lệch là do tác giả tiến 
hành trên ĐD làm việc trong khối hồi sức cấp 
cứu vốn được xem là yếu tố nguy cơ RLTT. 
Ngược lại, kết quả nghiên cứu chúng tôi cao 
hơn nghiên cứu của Nur Azma BA(1), do tác giả 
tiến hành trên toàn bộ ĐD gồm cả các khoa, 
phòng chức năng ít chịu áp lực công việc. Hơn 
nữa, nghiên cứu được tiến hành trên 7 BV ở các 
tuyến khác nhau, các tuyến dưới thường có áp 
lực công việc thấp hơn tuyến trên. 
Ngô Thị Kiều My(7) khảo sát tại BV Phụ sản 
Nhi Đà Nẵng trên 208 ĐD và 162 nữ hộ sinh có 
tỷ lệ stress 18,1%, thấp hơn nghiên cứu chúng 
tôi, do khác biệt đối tượng nghiên cứu (ĐD khoa 
Nhi và nữ hộ sinh so với ĐD khối nội) và nơi 
nghiên cứu (Đà Nẵng so với TP.HCM). 
Ở Việt Nam, hiện nay rất ít nghiên cứu dùng 
thang điểm DASS để đánh giá trầm cảm và lo âu 
trên đối tượng ĐD. Do đó, chúng tôi chỉ có thể so 
sánh ở mức tương đối. Nghiên cứu của Trần Thị 
Thúy(9) thực hiện tại BV Ung bướu Hà Nội ghi 
nhận tỷ lệ NVYT bị trầm cảm là 23,2%, lo âu là 
40,5%, thấp hơn so với nghiên cứu chúng tôi, có 
thể do khác nhau về đặc điểm của đối tượng 
nghiên cứu. Nghiên cứu của Trần Thị Thúy(9) 
đánh giá trên toàn bộ NVYT có thể bao gồm cá 
thể ít chịu áp lực công việc hơn. 
Các nghiên cứu trên đều cho thấy tỷ lệ stress, 
trầm cảm, lo âu ở mức độ nhẹ - vừa chiếm đa số. 
Nghiên cứu chúng tôi cho kết quả tương tự. 
Các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, 
lo âu ở điều dưỡng 
Tổng quan y văn cho thấy các yếu tố như 
tuổi, giới nữ, hôn nhân không hạnh phúc, 
trình độ học vấn là yếu tố nguy cơ của stress, 
trầm cảm, lo âu. Trong nghiên cứu chúng tôi 
không ghi nhận sự liên quan, điều này tương 
đồng với nhiều nghiên cứu khác(3,5,6,7,8,10,11). 
Với thu nhập cá nhân, trong nghiên cứu 
chúng tôi, điểm và tỷ lệ stress tăng lên ở nhóm 
đối tượng thu nhập > 10 triệu/tháng (p = 0,031). 
Tuy nhiên, khi tiến hành khử nhiễu bằng hồi 
quy logistic, lại không có sự khác biệt về tỷ lệ 
stress giữa các nhóm đối tượng, tương đồng với 
nghiên cứu của Schmidt Denise RC(8) không có 
mối liên quan giữa thu nhập cá nhân với tỷ lệ 
trầm cảm. Ngược lại, nghiên cứu của Vũ Ngọc 
Trinh(11) cho thấy sự liên quan giữa tỷ lệ stress 
với thu nhập cá nhân (OR 1,64, KTC 95% 1,14 – 
2,35). Điều này có thể xuất phát từ thu nhập cá 
nhân trong nghiên cứu chúng tôi thấp hơn và tỷ 
lệ ĐD thu nhập < 5 triệu đồng/tháng cao hơn 
nhiều so với nghiên cứu Vũ Ngọc Trinh. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 228
Bảng 9: Các yếu tố liên quan stress, trầm, cảm, lo âu ở các nghiên cứu trong và ngoài nước 
Tác giả Các yếu tố ảnh hưởng 
Schmidt Denise 2011
(8)
 Trầm cảm – lo âu: làm thêm giờ, BV công tác. 
Letvak Susan 2012
(6)
 Trầm cảm: Chỉ số khối cơ thể, sự hài lòng công việc, số lượng bệnh mắc kèm theo, tinh thần thoải 
mái, ảnh hưởng sức khoẻ đến năng suất làm việc. 
Gong Yanhong 2014
(3)
 Trầm cảm: Bạo lực nơi làm việc, thời gian làm việc trung bình một tuần quá dài (> 45 giờ), thường 
xuyên trực đêm (≥ 2 đêm/ tuần). 
Lê Thành Tài 2008
(5)
 Stress: Thâm niên công tác, làm việc quá nhiều giờ (> 8giờ/ngày), công việc nhiều, áp lực, không 
hứng thú, làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị, đông người, ồn ào, tiếp xúc 
nhiều mầm bệnh, dễ bị thương tích, thường gặp phản ứng của bệnh nhân và thân nhân, mâu thuẫn 
với đồng nghiệp - cấp trên; thu nhập chưa thỏa đáng và công việc ít cơ hội thăng tiến. 
Trương Đình Chính 
2010
(10)
Trầm cảm – lo âu: Tình trạng hôn nhân, khoa phòng công tác, công việc quá nặng nhọc, chịu sức 
ép nặng nề trong công việc. 
Vũ Ngọc Trinh 2013
(11)
 Stress: Thu nhập cá nhân, trình độ học vấn, khoa phòng công tác, thâm niên công tác. 
Ngô Thị Kiều My 2014
(7)
 Stress: Mức ổn định công việc, diện tích nơi làm việc, quan hệ với cấp trên. 
Chúng tôi ghi nhận điểm trung vị stress, 
trầm cảm, lo âu của ĐD khối hồi sức cấp cứu cao 
hơn so với các khoa nội khác có ý nghĩa thống 
kê. Mặt khác, tỷ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo 
âu của ĐD khối hồi sức cấp cứu cũng cao hơn. 
Tuy nhiên chỉ có stress, lo âu thì sự khác biệt mới 
có ý nghĩa thống kê. Hầu hết các nghiên cứu 
không so sánh sự liên quan giữa tỷ lệ stress, trầm 
cảm, lo âu giữa 2 khối này, vì thế chúng tôi 
không có dữ liệu đối chiếu. Tuy nhiên, nghiên 
cứu El-aal Nevine và đồng sự(3) trên đối tượng 
ĐD làm việc tại khối hồi sức cấp cứu ghi nhận tỷ 
lệ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD cao hơn so với các 
đối tượng khác của các nghiên cứu khác. 
Tổng quan về mối liên quan giữa số giờ làm 
việc và tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu có mâu thuẫn 
nhau. Hoặc cho rằng không có sự liên quan giữa 
tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu với số giờ làm việc: 
nghiên cứu của Schmidt Denise RC(8) (trầm cảm 
và lo âu), Letvak Susan(6) (trầm cảm), Ngô Thị 
Kiều My(7) (stress). Hoặc ghi nhận có liên quan: 
Gong Yanhong(3) (trầm cảm, p < 0,01), Lê Thành 
Tài(5) (stress, p < 0,001). Chúng tôi nhận thấy có 
liên quan không mạnh giữa tỷ lệ stress, trầm 
cảm, lo âu với số giờ làm việc trung bình trong 
tuần (> 48 giờ), (stress: KCT 95% OR 1,03 – 1,11, 
trầm cảm: KTC 95% OR 1,04 – 1,14, lo âu: KTC 
95% OR 1,01 – 1,08). 
Chúng tôi ghi nhận có liên quan giữa khối 
lượng công việc nhiều với tỷ lệ stress, trầm cảm, 
lo âu ở ĐD, tương đồng với nhiều nghiên cứu 
khác: Lê Thành Tài(5) xác định sự liên quan giữa 
stress với áp lực công việc (p < 0,001), Trương 
Đình Chính(10) kết luận RLTT có liên quan với 
yếu tố công việc nặng nhọc (p = 0,04), chịu sức ép 
nặng nề trong công việc (p < 0,001). 
Môi trường làm việc ồn ào, quá nóng, thiếu 
ánh sáng, bụi làm ảnh hưởng đến tâm lý của 
đối tượng. Chúng tôi chỉ nhận thấy vai trò của 
môi trường làm việc ảnh hưởng đến stress (OR = 
2,39, p = 0,013). Tác giả Lê Thành Tài(5), Ngô Thị 
Kiều My(7) cho kết quả tương tự. 
Mối quan hệ giữa bản thân với cấp trên, 
đồng nghiệp và bệnh nhân – thân nhân sẽ ảnh 
hưởng đến tâm lý của đối tượng. Qua phân 
tích đa biến, chúng tôi nhận thấy vai trò của 
mối quan hệ với bệnh nhân - thân nhân có ảnh 
hưởng lớn đến tình trạng stress, trầm cảm, lo 
âu của đối tượng nghiên cứu. Nhóm ĐD cảm 
thấy có mối quan hệ không tốt có khả năng bị 
stress, trầm cảm, lo âu cao gấp 6,06 - 8,31 lần 
so với nhóm đối tượng còn lại. Nghiên cứu 
chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của 
Nakakis Konstantinos(4) (liên quan giữa tỷ lệ 
stress với những phản ứng tiêu cực và bạo lực 
của bệnh nhân), nghiên cứu của Lê Thành 
Tài(5) (liên quan giữa tỷ lệ stress với phản ứng 
của bệnh nhân và thân nhân: chửi mắng, đe 
doạ, hành hung) (p < 0,001). 
Khảo sát của chúng tôi cho thấy mối quan hệ 
với lãnh đạo chỉ ảnh hưởng đến trầm cảm. 
Nhóm ĐD cho rằng mối quan hệ không tốt với 
lãnh đạo có khả năng bị trầm cảm cao gấp 2,38 
lần so với nhóm còn lại (p = 0,01), trái ngược với 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 229
một số tác giả như Lê Thành Tài(5) (p = 0,01), Ngô 
Thị Kiều My(7) (p = 0,003) khi đề cập mối liên 
quan giữa tỷ lệ stress với mối quan hệ không tốt 
với lãnh đạo – cấp trên. Trong khi đó, tác giả 
Trương Đình Chính(10) lại không ghi nhận mối 
liên quan giữa tỷ lệ RLTT với mâu thuẫn cấp 
trên (p = 0,08). Mặt khác, chúng tôi cũng không 
ghi nhận ảnh hưởng của mối quan hệ với đồng 
nghiệp lên stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD, khác với 
nghiên cứu của Lê Thành Tài(5) (p = 0,001) khi đề 
cập mối liên quan giữa tỷ lệ stress với quan hệ 
không tốt với đồng nghiệp. 
KẾT LUẬN 
So với các ngành nghề khác, ĐD có tỉ lệ 
stress, trầm cảm, lo âu cao hơn. Điều này đòi 
hỏi cần có những biện pháp tích cực từ các cấp 
lãnh đạo của BV, xã hội, gia đình và tự thân 
ĐD để giảm thiểu tình trạng này. Các nghiên 
cứu trong nước còn khá ít về vấn đề này, còn 
nghiên cứu của chúng tôi chỉ là bước đầu ghi 
nhận, cần được khảo sát sâu và rộng hơn tại 
các BV trên toàn quốc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Amin Nur Azma, Nordin Rusli et al (2014),”Psychometric 
properties of the Malay version of the Depression Anxiety 
Stress Scale-21 (M-DASS21) among nurses in public hospitals 
in the Klang Valley", International Journal of Collaborative 
Research on Internal Medicine & Public Health [E], 6 (5), pp.109-
120. 
2. El-Aal Nevine H Abd,Ibrahim Hassan N (2014),”Relationship 
between staff nurses’ satisfaction with quality of work and 
their levels of depression, anxiety and stress in critical care 
units", Journal of American Science, 10(1S): pp.91- 101. 
3. Gong Y, Han T, et al (2014),”Prevalence of depressive 
symptoms and work-related risk factors among nurses in 
public hospitals in southern China: A cross-sectional study", 
Scientific reports 4: 7109 doi:10.1038/srep07109. 
4. Konstantinos N,Christina O (2008),”Factors influencing stress 
and job satisfaction of nurses working in psychiatric units: a 
research review", Health Sci J, 2 (4), pp.183-195. 
5. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân et al (2008),”Tình hình stress 
nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng", Tạp chí Y học Thành 
phố Hồ Chí Minh, 12 (4), tr. 216 -220. 
6. Letvak S, Ruhm Christopher J, et al (2012),”Depression in 
hospital-employed nurses", Clinical Nurse Specialist, 26 (3), 
pp.177-182. 
7. Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh et al (2014),”Trình trạng 
stress của điều dưỡng và hộ sinh bệnh viện Phụ sản Nhi Đà 
Nẵng năm 2014", Tạp chí Y tế Công cộng, 34 tr. 57-62. 
8. Schmidt DR, Dantas RA, et al (2011),”Anxiety and depression 
among nursing professionals who work in surgical units", 
Revista da Escola de Enfermagem da USP, 45 (2), pp.487-493. 
9. Trần Thị Thúy (2011), Đánh giá trạng thái stress của cán bộ y 
tế khối lâm sàng bệnh viện Ung bướu Hà Nội năm 2011, Luận 
văn Thạc sỹ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng. 
10. Trương Đình Chính (2010), Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng 
và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009, Luận văn 
chuyên khoa 2 Quản lý bệnh viện, Đại học Y dược Tp.HCM. 
11. Vũ Ngọc Trinh (2013),Tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan của 
điều dưỡng tại bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Tp.HCM 
năm 2013, Luận án Thạc sĩ, Đại học Y dược Tp.HCM. 
12. Wall TD, Bolden RI et al (1997),”Minor psychiatric disorder in 
NHS trust staff: occupational and gender differences", The 
British Journal of Psychiatry, 171 (6), pp.519-523. 
Ngày nhận bài báo: 01/12/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017 

File đính kèm:

  • pdfstress_tram_cam_lo_au_o_dieu_duong.pdf