Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp bảo vệ môi trường vào giảng dạy chương III gia công cơ khí của môn Công nghệ 8
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ, môn Công
nghệ lớp 8 trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về Vẽ kĩ thuật, Cơ khí,
Kĩ thuật điện. Trên tinh thần giáo dục tổng hợp và hướng nghiệp, với xu thế tiếp
cận và liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp gắn liền với
cuộc sống lao động sản xuất của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương cũng
như trên cả nước.
Trong đó, ngành cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, nhân loại được chứng kiến nhiều biến
đổi sâu rộng lớn của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mà đặc trưng là các ngành công nghệ
cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới -
công nghệ nano, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không và vũ trụ
đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị quốc
tế, làm thay đổi diện mạo thế giới đương đại. Trong sự phát triển vĩ đại đó,
ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đóng vai trò có tính nền tảng và có sự hiện
diện hầu như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế.
Chính vì vậy, xu hướng phát triển khoa học và công nghệ cơ khí chế tạo vẫn
được chú trọng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp bảo vệ môi trường vào giảng dạy chương III gia công cơ khí của môn Công nghệ 8
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÍCH HỢP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀO GIẢNG DẠY CHƯƠNG III GIA CÔNG CƠ KHÍ CỦA MÔN CÔNG NGHỆ 8 Lĩnh vực: Công nghệ Cấp học: Trung học cơ sở Năm học 2016-2017 MÃ SKKN PHỤ LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 3 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................... 3 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ........................................................................... 7 3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU............................................................................ 7 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ........................................... 7 5. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU ................................................... 7 5.1. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................. 7 5.2. Kế hoạch naghiên cứu: .............................................................................. 7 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ................................................................................. 8 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ .................................................................. 8 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ ...................................................................... 9 3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. .. 11 4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ......................................... 22 III. KẾT LUẬN ...24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 23 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ, môn Công nghệ lớp 8 trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về Vẽ kĩ thuật, Cơ khí, Kĩ thuật điện. Trên tinh thần giáo dục tổng hợp và hướng nghiệp, với xu thế tiếp cận và liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp gắn liền với cuộc sống lao động sản xuất của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương cũng như trên cả nước. Trong đó, ngành cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Những năm đầu của thế kỷ XXI, nhân loại được chứng kiến nhiều biến đổi sâu rộng lớn của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mà đặc trưng là các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới - công nghệ nano, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không và vũ trụ đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị quốc tế, làm thay đổi diện mạo thế giới đương đại. Trong sự phát triển vĩ đại đó, ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đóng vai trò có tính nền tảng và có sự hiện diện hầu như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế. Chính vì vậy, xu hướng phát triển khoa học và công nghệ cơ khí chế tạo vẫn được chú trọng . Cùng với sự gia tăng của công nghệ hiện đại, máy móc, thiết bị trong đời sống của mỗi gia đình cũng như trong từng doanh nghiệp sản xuất, vai trò của nhóm ngành cơ khí theo đó cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn Ngày 11 tháng 4 năm 2014, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự và chủ trì Hội nghị. Thực hiện Chiến lược này, trong hơn 10 năm qua, ngành Cơ khí Việt Nam đã có những thay đổi và phát triển, từng bước hội nhập với ngành Cơ khí thế giới. Các lĩnh vực như: Sản xuất, lắp ráp ô tô; sản xuất xe máy; chế tạo thiết bị cơ khí thủy công; chế tạo thiết bị cho các nhà máy nhiệt điện; công nghiệp hỗ trợ... đều có những bước phát triển và đạt kết quả tích cực. Năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành đạt 227.911 tỷ đồng (tăng 6 lần so với giá trị sản xuất công nghiệp ngành cơ khí đạt được năm 2000); năm 2013, ước đạt 251.185 tỷ đồng. Về xuất nhập khẩu, năm 2012, giá trị xuất khẩu cơ khí đạt 12,1 tỷ USD; năm 2013 đạt 13,18 tỷ USD. Đến nay, hệ thống chính sách để phát triển ngành Cơ khí đã được ban hành tương đối đầy đủ. Nhìn lại 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả trong phát triển ngành cơ khí. Giá trị của cơ khí chế tạo, xuất khẩu liên tục tăng; sức cạnh tranh của các sản phẩm cơ khí ở thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu không ngừng được nâng lên. Bộ giáo dục đã đưa phần Cơ khí vào giảng dạy trong môn Công nghệ ở trường Trung học cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục Trung học cơ sở về quy mô, chất lượng, hiệu quả phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có tiềm lực để không ngừng hoàn thiện trình độ đào tạo ban đầu, vươn lên đáp ứng những yêu cầu mới. Nhằm hình thành sớm ở học sinh những kĩ năng cơ bản của ngành cơ khí và giúp các em có thêm định hướng cho nghề nghiệp sau này. Thế nhưng nội dung phần cơ khí trong sách giáo khoa Công nghệ 8 còn khô khan và còn nặng về lí thuyết, thiếu thực hành và kiến thức học chưa mang lại niềm hứng thú cho học sinh. Bên cạnh đó trang thiết bị giảng dạy của nhiều trường còn lạc hậu, thiếu thốn, không có phòng thực hành riêng cho học sinh. Đặc biệt nội dung phần gia công cơ khí thì còn khô khan, nhàm chán và xa rời thực tế vì học sinh không được tiếp xúc cũng như thực hành. Mà đi song song với sự phát triển của ngành cơ khí thì vấn đề ô nhiễm môi trường cũng là vẫn đề nan giải và cần định hướng và giáo dục cho học sinh càng sớm càng tốt. Hiện nay kim loại ở dạng phế liệu, phế thải trong nước ta còn hàng chục vạn tấn nằm rải rác ở khắp các địa phương. Kim loại màu gồm các loại đồng, chì, nhôm... ở trong động cơ điện, biến thế điện, các chi tiết xe, máy, tàu thuyền nhẹ, bình ắc quy hỏng, vỏ đạn các loại, xác máy bay. Kim loại đen ở các loại máy, các loại pháo, xe tăng, tàu, thuyề ... ng ngừng để đưa những bài học về môi trường vào mỗi tiết học. Không phải bài học nào cũng tích hợp được giáo dục môi trường vào giảng dạy. Tích hợp vào bài nào, phần nào là cả nghệ thuật và sự khéo léo tinh tế của giáo viên. Có những bài chúng ta đưa hình ảnh, có bài đưa doạn video hay đơn giản chỉ là những câu chuyện nhỏ của giáo viên cũng mang đến hiệu quả rất lớn. Trường tôi có 5 lớp 8, mỗi lớp có đặc thù riêng và khả năng tiếp thu cũng khác nhau. Nên khi áp dụng vào từng bài tôi cũng phải chú ý đến từng lớp từng đối tượng cụ thể. Trong các lớp tôi dạy có 2 lớp là lớp 8A2 và 8A4 các em học sinh rất tích cực và nhanh nhẹn khi tham gia học tập. Mỗi khi tôi áp dụng biện pháp mới ở hai lớp này đều nhận được sự hợp tác và hứng thú của học sinh. Còn các lớp còn lại tôi cần phải dạy chậm lại và đưa biện pháp mới học sinh tiếp thu chậm hơn. Hiệu quả sau mỗi tiết dạy cũng ít hơn. Vì có khi các em nghe đó xây dựng bài đó nhưng hành động của các em thì vẫn chưa đúng. Tôi lại phải tìm những phương pháp và kiến thức bổ sung phù hợp cho từng lớp cụ thể để mỗi giờ lên lớp học sinh hứng thú học tập và ham muốn tìm tòi thêm kiến thức. Và những nội dung tích hợp giáo dục môi trường của tôi mang đến cho học sinh những bài học hay bổ ích, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mỗi học sinh. Các em sẽ mang kiến thức học được về tuyên truyền và nhắc nhở những người thân và bạn bè của mình. 3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. Chương III Gia công cơ khí gồm 6 bài học trong 4 tiết. Mỗi bài đưa đến cho học sinh nhưng nội dung khác nhau và phong phú. Theo “Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn công nghệ, cấp trung học cơ sở của Bộ giáo dục và đào tạo” Bài 19: Thực hành vật liệu cơ khí không dạy. Khi dạy bài, mục 1, 2 giáo viên lấy ví dụ các vật liệu kim loại, vật liệu phi kim loại minh họa. Bài 20: Dụng cụ cơ khí không dạy b)thước cặp Bài 21 + 22: Cưa và đục kim loại. Dũa và khoan kim loại không dạy phần II bài 21+22 ghép nội dung phần I bài 21+22 dạy trong một tiết Bài 23: Thực hành đo và vạch dấu không bắt buộc nhưng nhóm giáo viên giảng dạy môn công nghệ thấy sự cần thiết của bài học nên thống nhất vẫn đưa nội dung bài học vào giảng dạy và rèn kĩ năng cơ bản của gia công cơ khí cho học sinh. Áp dụng cụ thể vào một số bài Bài 18: Vật liệu cơ khí Bài với nội dung kiến thức nhiều một tiết học 45 phút đã khó khăn để học sinh tìm hiểu hết các nội dung. Tôi đã tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh ở phần 2) Vật liệu phi kim loại. Vì thời gian ngắn nên hình ảnh đưa ra cũng phải được chắt lọc kĩ càng để mang lại hiệu quả cao. Do đó tôi đã chọn hình ảnh sau: CHẤT DẺO VỚI MÔI TRƯỜNG Kèm theo câu hỏi: ? Em cho biết tác hại của phế thải chất dẻo đến môi trường. ? Em đề suất biện pháp gì để giảm ô nhiễm môi trường từ rác thải. Sau đó cho học sinh thỏa sức đưa ra các biện pháp khắc phục. Tôi nhấn mạnh đến một biện pháp mà ngày nay con người đang nỗ lực hướng tới đó là tận dụng tái chế phế thải của ngành cơ khí nói riêng và các ngành trong sản xuất nói chung và mong muốn học sinh tuyên truyền về gia đình và cộng đồng không vưt rác bừa bãi, phân loại rác thải và sử dụng các sản phẩm sinh học an toàn và dễ phân hủy. Khơi sự sáng tạo của học sinh biến những sản phẩm phế thải của sinh hoạt trở thành những tác phẩm nghệ thuật và những vật dụng có ích. Bài 20: Dụng cụ cơ khí Với tính chất bài học khô khan nội dung về các dụng cụ cơ khí đơn giản. Học sinh dễ nhàm chán, thời gian cho nội dung chính của bài không quá nhiều nên tôi sử dụng một số hình ảnh và thông tin để học sinh hiểu rõ về những việc làm mà con nguời tưởng chừng nó vô hại nhưng lại gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường. Trong những hình ảnh tôi đưa hầu hết liên qua đến gia công khí và những hoạt động thường nhật của con người. Những thông tin và con số của tôi đưa ra đáng để học sinh suy nghĩ và tìm hiểu thêm sau đó có biện pháp bảo vệ môi trường riêng đối với cương vị là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Đãi vàng là hiểm họa lớn nhất trong danh sách. Người dùng thủy ngân để đãi vàng không những gây hại cho chính bản thân và gia đình mà còn đầu độc những làng mạc gần đó khi chất độc này thoát ra môi trường. Khoảng 15 triệu người phải hứng chịu tác hại của thủy ngân được sử dụng để đãi vàng. Kim loại nặng và chất hữu cơ từ sản xuất công nghiệp thâm nhập vào người do dùng nước này để nấu ăn hay tưới cây trồng. Tất cả các giếng đào vào nước ngầm đều có thể bị nhiễm độc. Ngoài ra, nước ngầm nhiễm độc còn có thể chảy ra sông hay hồ. Đốt than, củi, mùn cưa để nấu ăn, sưởi, chiếu sáng là nguyên nhân chủ yếu tạo ra độc tố trong nhà. Do không thoáng khí, những gian phòng dùng than, củi hay phân để nấu ăn chứa nhiều khói độc, dẫn đến các bệnh ở đường hô hấp, ung thư phổi. Hơn một nửa dân số thế giới nấu ăn bằng than và củi, đặc biệt là ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước ở phía nam châu Phi. Theo báo cáo, than củi khiến 3 triệu người chết mỗi năm và gây nên 4% ca bệnh trên thế giới. Vấn đề lớn nhất của khai thác mỏ là phế liệu chứa chất độc gây tác hại đến nông nghiệp và nước trong vùng. Môi trường bị ô nhiễm nặng trong lúc nấu chảy kim loại: Khí SO2, NO, hơi độc và kim loại nặng bị thải ra môi trường xâm nhập vào trong cơ thể theo đường hô hấp. Phế liệu phóng xạ gây nhiều tác hại đối với sức khỏe con người, từ ung thư cho đến tử vong. Nước thải không qua xử lý gây ra những bệnh như dịch tả, thương hàn, lỵ, viêm gan. WHO dự tính hằng năm có khoảng 1,5 triệu người chết vì nước thải không xử lý. Ô nhiễm không khí gây ra nhiều bệnh đường hô hấp và tuần hoàn. WHO dự tính mỗi năm có khoảng 865.000 người chết do ô nhiễm không khí là nguyên nhân trực tiếp gây ra. Ắc quy thường được chuyên chở sang các nước nghèo. Ở đó chì được tái sinh bằng phương tiện thô sơ. Nó gây nhiều hậu quả đến sức khỏe như rối loạn tăng trưởng, hỏng gan, thiểu năng trí tuệ Hay tôi có thể lựa chọn những hình ảnh ô nhiễm môi trường quen thuộc để giáo dục môi trường cho học sinh . Khi đưa ra hình ảnh tôi muốn học sinh của mình tìm ra nhưng biện pháp để khắc phục. Hướng tới môi trường lớp học, trường học của chúng ta xanh, sạch, đẹp. Những con đường đẹp hơn khi không có rác ở khắp nơi. Một số hình ảnh hướng học sinh tới những hành động đúng. Và những việc làm biến những vật tưởng chừng vô chi thành những đồ dùng xinh xắn và hữu ích. Đối với một số bài tôi tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy bằng chính những hành động chưa đúng của học sinh ngay tại lớp, hay bằng những câu chuyện đời thường. Có khi tôi cho học sinh đóng kịch ngắn 3 đến 5 phút. Ví dụ1: Tình huống học sinh xả rác tại lớp tôi cho học sinh nhặt lên và để trên bàn giáo viên. ? Cả lớp cho biết vật cô thu được trong lớp ta hôm nay là gì. ? Nó có lợi hay có hại. Học sinh tha hồ phân tích và tôi hướng học sinh vào bài học vì hầu hết những sản phẩm chúng ta đang dùng đều la sản phẩm của nghành cơ khí. Tôi luôn hướng học sinh theo hai chiều hướng là: - Nếu không sử dụng được thì để gọn gàng theo đúng nơi quy định. - Có thể dùng nó thành một sản phẩm có ích, giúp giảm gánh nặng khi ngày càng nhiều chất thải của ngành cơ khí bị đẩy ra môi trường. Ví dụ 2: Tôi xây dựng một tình huống: “Hôm nay, trên đường đi làm cô gặp bạn nữ nhìn rất xinh, ăn mặc đẹp và đang uống cốc capuchino ngon lành. Nhưng khi uống hết bạn nữ đó ném ngay xuống lòng đường mà cô nhìn thấy thùng rác chỉ cách đó vài mét. ? Cả lớp mình cùng phân tích tình huống này và nếu các em gặp tình huống này sẽ xử lý như thế nào. Các em sẽ cùng nhau phân tích tình huống và tự rút ra bài học cho mình và quan trọng hơn các em còn học cách góp ý với người khác để cùng chung tay bảo vệ môi trường. Ví dụ 3: Tôi sẽ giao hiệm vụ cho một nhóm tự xây dựng và thực hiện một tiểu phẩm nhỏ từ 3 đến 5 phút về vấn đề ý thức bảo vệ môi trường ở nơi công cộng. Các em vừa được vui chơi rèn luyện năng khiếu mà còn mang đến những bài học quý giá. Tiết học sẽ nhẹ nhàng và thú vị hơn rất nhiều. Tôi cũng kể cho học sinh nghe về những câu chuyện lịch sử liên quan đến những vật liệu cơ khí hay các dụng cụ cơ khí. Mỗi câu chuyện sẽ làm các em tò mò hơn và sẽ tìm hiểu thêm về chúng. Sau mỗi câu chuyên tôi thường xen vào giáo dục sử dụng chúng hiệu quả và an toàn, thân thiện với môi trường. Ví dụ: Lịch sử phát triển của các sản phẩm làm từ nhựa, chất dẻo. Những ngày đầu của thế kỷ 20. 1970 Leo Hendrik Baekeland đã chế tạo ra một loại nhựa lỏng tổng hợp nhân tạo đầu tiên và đặt tên là Bakelite. Nó có thể được nung nóng và đúc ra nhiều hình dạng nhưng chỉ một lần duy nhất. Nó đã được sử dụng như một chất cách điện (dây điện trong nhà). Ni-lông được phát hiện vào năm 1930. Lúc đầu nó được gọi là “Polyamide 66” và được dùng để thay thế lông động vật trong bàn chải đánh răng và sau nữa là tơ. 1939 Ni-lông được tung ra thị trường và đưa vào sử dụng phổ biến trong quân đội như dù (để nhảy) và lều trong Chiến tranh Thế Giới Thứ Hai. Giữa thế kỷ 20 Trong suốt những năm 40 silicon nguồn gốc từ nhựa và axit boric được trộn lẫn vào nhau và hình thành nên một hợp chất khác thường. Nó có độ đàn hồi tốt hơn cao su 25%, có thể căng giãn nhiều lần tạo nhiều hình dạng khác nhau. Trong những năm 1950, Polyethylene trọng lượng cao (HDPE) được phát triển và ngày nay được dùng trong những chai sữa bằng nhựa. Polypropylene (PP) cũng được tìm thấy trong cùng thời gian này. Thế kỷ 21 và Tương lai Từ những năm 1960, Nhựa ngày càng trở nên phổ biến và được ứng dụng rộng rãi trong xã hội. Ngày nay, nhựa đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Từ truyền thông, giải trí, sức khỏe, đến bảo tồn năng lượng trong vận tải và sử dụng năng lượng mặt trời, nguồn nước và sức gió, nhựa đang đóng vai trò chính trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta và phúc lợi xã hội trong tương lai. Từ đó tôi đưa ra vấn nạn sử dụng túi nilong của người Việt Nam hiện nay và cho học sinh tự nêu những hậu quả của việc làm này và tìm cách khắc phục hậu quả đó. 4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tôi đã áp dụng nội dung tích hợp môi trường vào giảng dạy chương III Gia công cơ khí ở 5 lớp 8 trong trường THCS A. Mỗi lớp có trình độ học tập khác nhau nhưng tất cả 7 lớp tôi dạy đều nhận thấy sự tích cực hơn trong học tập so với cách học cũ. Tôi có thể tổng kết sự thay đổi tích cực của học sinh mỗi lớp khi tham gia học tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy môn Công nghệ 8 và cụ thể ở chương III Gia công cơ khí như sau: Lớp Áp dụng biện pháp cũ Áp dụn biện pháp mới Số lượng Phần trăm Số lượng Phần trăm 8A1 39/49 75,8% 47/49 93,9% 8A2 38/50 78,4% 47/50 94,6% 8A3 36/48 63,6% 44/48 87,8% 8A4 35/49 54,5% 43/49 80,6% 8A5 36/48 62,5% 43/48 84,3% Số lượng và % tôi thống kê được dựa vào kết quả học sinh chú ý và hăng hái xây dựng bài cho mỗi tiết học cụ thể. Kết quả sau mỗi tiết học của tôi chưa thực sự thu hút được 100% học sinh tập trung và tích cực trong học tập. Đó sẽ là động lực để tôi tiếp tục tìm tòi và sáng tạo cho mỗi bài học của mình. III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ - Tôi nhận thấy khi kết hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy bộ môn Công nghệ nói chung và phần Gia công cơ khí nói riêng đã mang đến cho học sinh những điều mới lạ và sự hứng thú tích cực hơn trong học tập. - Tích hợp giáo dục môi trường vào những nội dung bài học là cách đơn giản và hiệu quả nhất đối với học sinh. Mỗi tiết học Giáo viên không đưa quá nhiều kiến thức mà là cái gợi mở để học sinh tìm tòi thêm và thực hiện. Giáo viên có thể dựa vào những phần tích hợp đó để rèn luyện học sinh có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường ngay ở lớp học, trường học hay xung quanh nơi các em sinh sống. - Theo cá nhân tôi đã thực hiện và thấy được hiệu quả của việc tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy môn Công nghệ nói chung và phần Gia công cơ khí nói riêng là góp phần nâng cao chất lượng dạy và học nên được áp dụng phổ biến. Tùy theo từng bài học và đặc điểm của mỗi địa phương và điều kiện từng trường giáo viên đưa vào những nội dung tich hợp giáo dục môi trường cho phù hợp. - Tôi đã thực hiện tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy môn Công nghệ 8 trên một số bài trong đó có ở chương Gia công cơ khí có một số kinh nghệm được đúc kết và rút ra như sau: + Với những bài có nội dung khô khan học sinh ít được tiếp xúc thực tế thì giáo viên chọn nội dung giáo dục môi trường phù hợp vào sẽ rất hiệu quả. + Nhưng nội dung giáo viên đưa vào bài học gần gũi với học sinh liên quan đến những việc làm sinh hoạt hàng ngày sẽ kích thích học sinh tìm hiểu hơn. + Hình ảnh hay thông tin giáo viên đưa đến cho học sinh phải ngắn gọn, đơn giản tránh dài dòng gây nhàm chán. + Nội dung tích hợp giáo viên nên đưa vào sau khi học sinh hoạt động học tập tìm hiểu nội dung bài. Học sinh vừa thấy nhẹ nhàng mang tính chất xả stret thay đổi không khí học tập mà hiệu quả sẽ cao hơn. Ý kiến đề xuất với Lãnh đạo trường đề áp dụng sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả: Mong Lãnh đạo trường tạo điều kiện để các lớp học đều được trang bị máy chiếu vì thời gian chuyển tiết chỉ có 5 phút học sinh di chuyển đến lớp chức năng sẽ mất nhiều thời gian và còn phải ổn định lớp. Trên đây là những kinh nghiệm giảng dạy “Tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy chương III Gia công cơ khí của môn Công nghệ 8”. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo dục nhà trường. Trong quá trình viết có thể có những sai sót. Rất mong các đồng nghiệp đọc và đóng góp ý kiến để tôi ngày càng tiến bộ hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Công nghệ 8. 2. Sách giáo viên Công nghệ 8. 3. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Công nghệ. 4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III môn Công nghệ quyển 1 + quyển 2 5. Internet
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_bao_ve_moi_truong_vao_giang_d.pdf