Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn toán hiện nay là

tích cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dây và phát triển khả năng tự học,

nhằm hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người

giáo viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy

học phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc

phục cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và

từng bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu

bài dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy.

Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải biết phát huy tính tư duy, sáng tạo

của học sinh khá giỏi. Là người giáo viên nhiều năm công tác tôi luôn trăn trở

làm thế nào để kết hợp hài hoà giữa các học sinh giỏi, khá, trung bình ,yếu kém.

Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ

môn toán? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? có biện pháp

nào để tạo niềm say mê cho các em?.Với mong muốn hiện nay của tôi là tích

cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm

hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người giáo

viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học

phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc phục

cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và từng

bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu bài

dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy.

Với định hướng dạy toán một cách thật căn bản, xác định các vấn đề trọng

tâm cơ bản để truyền thụ cùng với các tác động dạy học tích cực, lấp dần các chỗ

trống kiến thức, từng bước rèn cho học sinh biết tự mình làm bài và chú ý rèn kỹ

năng tính toán, kỹ năng làm bài tập.

Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS

Nguyễn Trường Tộ, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức

cơ bản của môn Toán nói chung, phân môn Hình học nói riêng. Điều đó thể hiện

qua chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu2

còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân

môn Hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức nhiều muốn tìm ra phương pháp giả

tương đối khó đối với học sinh. Từ đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài:

“ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8”

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 1

Trang 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 2

Trang 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 3

Trang 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 4

Trang 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 5

Trang 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 6

Trang 6

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 7

Trang 7

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 8

Trang 8

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 9

Trang 9

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 16 trang minhkhanh 03/01/2022 8600
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8
1
I. PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài: 
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn toán hiện nay là 
tích cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dây và phát triển khả năng tự học, 
nhằm hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người 
giáo viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy 
học phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc 
phục cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và 
từng bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu 
bài dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy. 
Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải biết phát huy tính tư duy, sáng tạo 
của học sinh khá giỏi. Là người giáo viên nhiều năm công tác tôi luôn trăn trở 
làm thế nào để kết hợp hài hoà giữa các học sinh giỏi, khá, trung bình ,yếu kém. 
Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ 
môn toán? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? có biện pháp 
nào để tạo niềm say mê cho các em?.....Với mong muốn hiện nay của tôi là tích 
cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm 
hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người giáo 
viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học 
phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc phục 
cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và từng 
bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu bài 
dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy. 
Với định hướng dạy toán một cách thật căn bản, xác định các vấn đề trọng 
tâm cơ bản để truyền thụ cùng với các tác động dạy học tích cực, lấp dần các chỗ 
trống kiến thức, từng bước rèn cho học sinh biết tự mình làm bài và chú ý rèn kỹ 
năng tính toán, kỹ năng làm bài tập. 
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS 
Nguyễn Trường Tộ, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức 
cơ bản của môn Toán nói chung, phân môn Hình học nói riêng. Điều đó thể hiện 
qua chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu 
2
còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân 
môn Hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức nhiều muốn tìm ra phương pháp giả 
tương đối khó đối với học sinh. Từ đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài: 
“ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8”. 
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 
 Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, với đối tượng học sinh 
lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời 
khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác 
động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề 
đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích 
cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, 
khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào 
tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp 
các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Và khi ấy người giáo viên 
thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước 
đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề 
này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo 
hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất 
quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. 
Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm 
triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công 
tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS. 
3. Đối tượng nghiên cứu. 
 Học sinh khối 8. 
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. 
Trong sáng kiến này tôi chỉ nêu ra những hạn chế của học sinh khối 8 
trường THCS Nguyễn Trường Tộ trong việc học môn toán nói chung và môn 
hình học nói riêng. Những khó khăn học sinh mắc phải từ đó đưa ra các giải pháp 
tạo cho các em niềm say mê, hứng thú với bộ môn .Qua đó cải thiện và nâng cao 
chất lượng môn Toán trong nhà trường 
5. Phương pháp nghiên cứu. 
3
- Đọc tài liệu 
- Phương pháp nghiên cứu sư phạm (thông qua kết quả học sinh .) 
- Phương pháp quan sát (thông qua các tiết dự giờ thao giảng). 
- Thông qua các tiết dạy thực tế trên lớp. 
II. PHẦN NỘI DUNG 
1. Cơ sở lý luận 
Hoạt động sư phạm là một hoạt động đặc biệt vừa mang tính khoa học vừa 
mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viên một năng lực sư phạm vững 
vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ 
động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú học tập phân 
môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo viên. 
Muốn đạt điều đó, bên cạnh việc trau bồi kiến thức chuyên môn thông qua các 
hình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm 
riêng lại rất cần thiết. Điều đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một 
cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng. 
Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy 
học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi 
dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, 
độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ 
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say 
mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây thì việc tạo 
hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học 
tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó 
chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập ... ững kiến thức liên quan để giải quyết vấn 
đề. 
Giải pháp 3. Tạo hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu kiến thức mới. 
Làm thế nào để tạo hứng thú cho các em trong giờ học? Rõ ràng để làm 
được điều này giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi khi 
dạy giờ Hình học thường chọn cho mình phương pháp tạo tình huống từ những 
vấn đề thực tiễn như: đưa ra tình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện có 
liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó học sinh tham gia tiết học tích cực, hào 
hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản, đồng 
thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn. 
Giải pháp 4: Áp dụng liên hệ vào thực tiễn kiến thức bài học của học 
sinh tiếp thu được. 
 Môn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong quá 
trình dạy học giáo viên cần phải cho học sinh liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, 
sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc hàng ngày. Điều này làm cho 
học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lí thuyết và các em có thể nhớ kiến thức lâu 
hơn. 
 Ví dụ: Khi học chương tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để 
được chính xác các hình “ hình thang cân” thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy 
song song, rồi cắt hai cạnh bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ 
giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục đối xững và bốn 
cạnh bằng nhau. Học xong chương 2 “ Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một 
buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường 
sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường. 
Ví dụ : Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn đề làm thế 
nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm A, B ở hai bên bờ ao? 
7
Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được 
một hình chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật. 
Khi dạy bài diện tích đa giác, tôi cho học sinh cho đa giác trong thực tế, sau đó 
phân học sinh theo nhóm để thực hiện chia đa giác thành các hình có thể tính diện 
tích rồi tiến hành tính diện tích đa giác. 
Khi dạy bài “ Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng đẩy ra 
kéo vào được? 
 Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực 
quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ...là yếu tố không 
thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm những vật thật trong thực tế 
để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài Đường thẳng song song cách 
đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mè ở mái nhà. 
Bài “ Diện tích đa giác” tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích nhà mình mấy 
m2...... 
 Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài rất 
tích cực, đồng thời các em nhớ lâu và vận dụng làm bài tập nhanh hơn. 
Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá 
giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng, từ đó lôi 
cuốn tất cả các em cùng tham gia xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng 
 A B 
H 
8
cần phải gợi mở, dễ hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em. Làm như vậy 
trong mỗi tiết học huy động tất cả các đối tượng học sinh vào xây dựng bài học. 
Giải pháp 5. Xây dựng các bước giải bài toán hình theo sơ đồ ngược 
(phân tích đi lên). 
Bằng cách xây dựng các bước giải theo sơ đồ ngược giúp học sinh có 
hướng suy nghĩ dễ hiểu, có kỹ thuật giải toán hình hệ thống, luôn có tác dụng gợi 
mở, tác động mạnh đến tư duy của học sinh (bao gồm tư duy phân tích và tư duy 
tổng hợp), một cách chặt chẽ và hiệu quả nhất. Cùng học sinh tháo gỡ từng vướng 
mắc, giải các bài tập từ dễ đến khó thì tôi tin rằng sẽ làm cho các em hứng thú 
học, rèn luyện khả năng tự học, tự tìm tòi kiến thức với môn hình và kết quả sẽ 
cao hơn. 
 Ví dụ: Bài 49- sgk tập 1, trang 93 – Tiết 11. Hình bình hành 
 Bài toán :Cho hình bình hành ABCD. Gọi I và K theo thứ tự là trung điểm của 
CD và AB . Đường chéo BD cắt AI, CK lần lượt tại M và N. Chứng minh rằng 
a) AI// CK 
 b) DM= MN = NB 
Khi hướng dẫn cho học sinh giải 
bài tập tôi phân tích theo sơ đồ : 
*) Sơ đồ c/m AI // CK 
 AI//CK 
  
 AKCI là hình bình hành 
  
   
 IC // AK IC = AK 
   
 AB//DC AB=DC 
   
*) Sơ đồ c/m DM= MN= NB 
DM= MN= NB 
  
   
 DM=MN MN= NB 
   
     
MI//CN DI=IC AK= KB KN//AI 
     
 AKCI giả thiết AKCI giả thiết 
M
N
I
KA B
D C
9
  
 ABCD là hình bình hành 
là hbh là hbh 
 Giải pháp 6. Tạo hứng thú, sự hấp dẫn cho học sinh trong những tiết ôn 
tập. 
Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hóa kiến 
thức trọng tâm, tạo hứng thú cho học sinh bằng cách cho những trò chơi: hệ thống 
kiến thức bằng sơ đồ họăc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào những ô trống. 
Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các phần đã học. Từ đó 
các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu. 
 Chẳng hạn: chương “tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ 
giác trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay 
đổi theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất và dấu hiệu nhận biết. 
Tuy nhiên sự hứng thú cho phân môn Hình học không chỉ tạo ra trong tiết 
học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà. Chính vì vậy, 
10
đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với giáo viên trong cùng 
phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề tìm ra cách giải nhanh, ngắn 
gọn cho những bài toán hoặc sáng tạo ra những thiết bị, mô hình ứng dụng của 
hình học...Những tình huống phát huy được khả năng tư duy sáng tạo, giúp các 
em tin tưởng và yêu thích môn học. 
Giải pháp 7. Tạo hứng thú cho học sinh khi giải bài tập. 
Học kết hợp với hành là một phương pháp học tập quan trọng mà giáo viên 
nào cũng phải hình thành và rèn luyện cho học sinh. Song học sinh thường gặp rất 
nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chất chặt chẽ, lôgíc và 
trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích kỹ bài toán theo hướng đi lên 
hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán. 
Cần phát huy sức mạnh của tập thể trong học tập. Bởi vì khi giảng bài tập 
giáo viên cho học sinh hoạt dộng theo nhóm từ 4 đến 6 em, tùy theo yêu cầu của 
bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chỉ định , được giao cùng 
nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy 
cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên phải làm việc 
tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm 
khác. Nhóm cử ra một bạn đại diện trình bày trước lớp. 
 Ví dụ: Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, 
trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ khác nhau như 
yếu kém, trung bình, khá, giỏi. phân công nhiệm vụ cho từng nhóm: 
 + yếu kém làm câu a), 
 + trung bình làm câu b) 
 +khá làm câu c), 
 + giỏi làm câu d). 
 Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả. 
Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan 
trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra thành nhiều dạng: Bài tập cơ bản áp 
dụng ngay công thức, định nghĩa, định lí vừa học giúp học sinh có niềm tin và 
khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; 
11
dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú 
khám phá...nhằm củng cố lại kiến thức của phần hay chương đó. 
 Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tập 
về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm các bài tập tương tự thuận lợi hơn. 
Giải pháp 8. Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. 
Khả năng vẽ hình không phải học sinh nào cũng có, trong khi học phân 
môn Hình học một yếu tố quan trọng là phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? 
Yếu tố nào trước, yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Cần những dụng cụ 
nào?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn 
của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới. Khi vẽ cần xác định 
cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các 
ngôn ngữ sang kí hiệu hình học. 
Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn 
học sinh vẽ hình. Cụ thể: 
Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên hình vẽ các trường hợp: điểm, 
các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ 
sung các yếu tố phụ trên hình.... 
Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: 
 + Êke: vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song.... 
 + Compa: vẽ đường tròn, cung tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau.. 
 + Thước thẳng: vẽ đường thẳng... 
Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình đó là sử dụng phấn màu 
khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lí ở các điểm 
đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ vẽ hình. 
 Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước 
vẽ hình cho học sinh quan sát. 
 Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu 
nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng Compa để vẽ bốn 
cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn 
đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần 
dựng hình ở chế độ tự động ( Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 dối tượng. 
12
 - Lấy hai điểm A, C bất kì 
 - Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung 
tròn tâm C có cùng bán kính. 
 - Hai cung tròn trên cắt nhau tại điểm B và 
D. 
 - Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta 
được hình thoi ABCD. 
 Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước 
dựng hình thoi, từ đó có thế vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn. 
 Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc 
kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học 
sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân 
tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ 
hình đặc biệt, điểm đặc biệt. 
Chẳng hạn: 
Cho tam giác ABC thì không nên vẽ cân, vuông hay đều. 
Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB. 
Giải pháp 9. Hệ thống kiến thức đã học bằng sơ đồ tư duy. 
Củng cố kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy có thể giúp học sinh dễ nhớ, 
nhớ lâu, rút ngắn được thời gian học, dễ dàng hệ thống hóa lượng lớn kiến thức. 
Sau tiết học yêu cầu các em vẽ sơ đồ tư duy hệ thống lại kiến thức đã học theo 
cách hiểu của mình, giáo viên nhận xét chỉnh sửa và cho học sinh lưu lại. Nhờ đó, 
giúp các em lĩnh hội trọn vẹn kiến thức thật nhẹ nhàng, phát triển tính sáng tạo 
và khả năng tư duy logic, khắc sâu kiến thức bài học đồng thời có tài liệu tổng 
hợp kiến thức khi cần thiết. 
Ví dụ: Sơ đồ tư duy kiến thức bài Hình vuông 
13
4. Kết quả khảo nghiệm 
 Trong quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình 
để soạn giảng và vận dụng vào thực tế tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng mừng: 
 - Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ 
động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng 
ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách 
nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi 
bài. 
 - Phần lớn các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em vẽ hình đúng, xác định 
hướng đi bài toán, số học sinh chứng minh lôgíc và chặt chẽ được tăng lên. 
 - Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn các kiến thức 
như: đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể.... 
Cuối học kỳ I điều tra hứng thú học môn Hình học ủa lớp 8A1 cho kết quả là: 
Tổng số HS 
Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú 
SL % SL % 
31 20 64,5 11 35,5 
14
 So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú với phân môn Hình học tăng 
lên. 
 Kết quả khảo sát chất lượng học bài kiểm tra 15p môn Hình học tăng lên: 
TSHS 
Khá giỏi Trung bình Yếu kém 
SL % SL % SL % 
31 10 32,2 12 38,7 9 29,1 
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 
1. Kết luận 
Từ những việc làm trên mang lại kết quả rất khả quan, chất lượng bộ môn 
tăng lên một cách rõ rệt, có nhiều học sinh say mê, yêu thích bộ môn toán hơn và 
thấy được tầm quan trọng cuả môn học cũng như thấy được sự liên hệ cuả toán 
học với thực tế. Trong những tiết học có lồng ghép các phương pháp này không 
khí lớp học sôi nổi hơn, nhiều học sinh rất hào hứng tìm cách giải. Từ những kết 
quả trên tôi rút ra được một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như sau: 
+ Kiểm tra chặt chẽ cách làm bài, học bài ở nhà cũng như ở lớp của học 
sinh. 
+ Nhắc nhở đúng lúc, khen ngợi, động viên các em kịp thời 
+ Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp học và giải toán 
+ Tạo tâm lý thoả mái trong giờ học để học sinh có ý thức 
+ Dùng nhiều câu hỏi gợi mở, kích thích sự suy nghỉ, tìm tòi cuả học sinh 
từ đó phát hiện ra kiến thức mới là phương pháp giải 
+ Luôn tìm tòi những dạng toán hay và lạ có liên quan thực tế để tăng thêm 
hứng thú cho học sinh. 
2 Kiến nghị 
Cần cung cấp thêm tài liệu tham khảo ở thư viện để giáo viên, học sinh 
cùng tham khảo 
Phụ huynh học sinh kết hợp chặt chẽ với nhà trường hơn nữa để nâng cao chất 
lượng học sinh 
15
Trong quá trình thực hiện đề tài này không trách khỏi những hạn chế và thiếu sót. 
Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của ban giám hiêu nhà trường và các 
bạn đồng nghiệp. 
 Người viết 
 Hồ Viết Hiếu 
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Sách giáo khoa toán 8 - NXB Giáo dục tập 1,2. 
2. Sách giáo viên toán 8 - NXB Giáo dục tập 1,2. 
3. Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng - NXB Giáo dục tập. 
4. Sách thiết kế bài bài giảng toán 8 tập 1,2 - NXB Hà Nội tập 1,2. 
5. Tham khảo một số nội dung trên Internet. 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.pdf