Sáng kiến kinh nghiệm Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 7
Được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều
nhăm liền, tôi nhận thấy các em chỉ đạt được thành tích cao hơn so với lớp học. Các
em chưa thật sự nắm được vấn đề một cách vững chắc, thiếu sáng tạo, linh hoạt trong
một số tình huống nhất định, chỉ biết vận dụng theo lối mòn sẵn có, cho nên sẽ khó đạt
được thành tích tốt trong học tập.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi nghĩ rằng phải đầu tư nhiều hơn cho việc bồi
dưỡng cho các em về biện pháp học tập môn Toán, giúp các em có đủ khả năng hiểu
được vấn đề một cách chắc chắn, biết phân tích đề bài một cách rõ ràng chính xác,
giải quyết vấn đề hợp lí để đi đến việc giải bài toán đạt kết quả như mong muốn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 7
1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TOÁN 7 ” 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài : Được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều nhăm liền, tôi nhận thấy các em chỉ đạt được thành tích cao hơn so với lớp học. Các em chưa thật sự nắm được vấn đề một cách vững chắc, thiếu sáng tạo, linh hoạt trong một số tình huống nhất định, chỉ biết vận dụng theo lối mòn sẵn có, cho nên sẽ khó đạt được thành tích tốt trong học tập. Từ những vấn đề nêu trên, tôi nghĩ rằng phải đầu tư nhiều hơn cho việc bồi dưỡng cho các em về biện pháp học tập môn Toán, giúp các em có đủ khả năng hiểu được vấn đề một cách chắc chắn, biết phân tích đề bài một cách rõ ràng chính xác, giải quyết vấn đề hợp lí để đi đến việc giải bài toán đạt kết quả như mong muốn. Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tôi xin trình bày một số việc làm của mình trong công tác bồi dưỡng học giỏi môn Toán 7 như sau. 1.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Thời gian thực hiện đề tài: từ 8/2013 đến nay. Nghiên cứu và áp dụng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 7 nói riêng và toán THCS nói chung. 2. PHẦN NỘI DUNG: 2.1. Thực trạng của vấn đề cần nghiên cứu: Với câu hỏi: “Năng lực các em như thế nào?”, tôi muốn tìm hiểu học sinh mình có khả năng học tập cỡ nào, mức độ tiếp thu, tính sáng tạo, linh hoạt ra sao? để từ đó tôi mới tìm ra cách hướng dẫn phù hợp với khả năng các em. Việc tìm hiểu các em không chỉ về mặt kiến thức mà phải còn tìm hiểu thêm khả năng tiếp thu của các em ở mức độ nào? Các em có những thói quen tốt, thói quen chưa tốt nào? Kể cả cách trình bày bài làm ra sao? Bước đầu, tôi cho các em làm những bài tập đơn giản như các em đã được tiếp xúc trong năm học lớp 6 và đầu năm học lớp 7. Qua đó, có thể đánh giá được khả năng của các em. Biết được học sinh của mình, tuỳ theo từng em tôi có cách nhắc nhở riêng với những điểm yếu cần khắc phục. Từ những việc làm trên qua khảo sát chất lượng đầu năm kết quả như sau: TT lớp Môn SS Giỏi Khá TB Yếu Kém TB Trở lên SL % SL % SL % SL % SL % SL % 1 7A Toán 29 5 17.2 9 31 15 51.7 0 0 0 0 29 100 2 7B Toán 35 0 0 10 28.6 12 34.3 12 34.3 1 2.9 22 62.9 Tổng 64 5 7.8 19 29.7 27 42.2 12 18.8 1 1.6 51 79.7 2 Kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh giỏi còn thấp, trước thực trạng trên, để khơi dậy trong các em sự hứng thú học tập, yêu thích bộ môn, say mê khám phá, tìm tòi kiến thức, phát triển tư duy, tính sáng tạo cho học sinh, nhằm nâng cao chất lượng dạy học, và giúp học sinh học giỏi hơn môn Toán tôi đi vào nghiên cứu và áp dụng thực tiễn đề tài: “Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi toán 7” nhằm góp phần nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn toán ở trường THCS. 2.2. Biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài. 2.2.1 Xây dựng nề nếp học tập: Điều trước tiên tôi quan tâm đó là nề nếp học tập trên lớp. Không phải chỉ nghiêng về trật tự lớp học mà tôi còn chú ý ở các em cách dùng sách, vở, thước, bút, nói chung là dụng cụ học tập. Khi nào sử dụng tập để làm bài, khi nào dùng nháp và sử dụng vở nháp như thế nào ? Trình bày ở nháp có khoa học và cẩn thận không? Khi nào phải làm bài một cách độc lập, khi nào thì thảo luận nhóm. Điều này, trong khoảng 2 đến 3 tuần đầu các em sẽ quen và hiểu được ý tôi muốn các em lúc nào phải làm gì? Có như thế, các em sẽ biết tập trung nghe giảng lúc nào? Biết khi nào phải làm bài? Khi nào cần phải thảo luận và phát biểu ý kiến đóng góp cùng các bạn hay cùng với thầy để xây dựng bài mới. 2.2.2. Nghiên cứu chương trình môn TOÁN ở các khối lớp : Để hướng dẫn cho các em được tốt thì trước tiên, ta phải biết được các em đã học những gì và những gì chưa học. Trong quá trình bồi dưỡng mình mới hướng các em đến những kiến thức có liên quan đến những điều đã học. Tránh việc bắt các em phải làm những việc mà các em chưa biết, chưa học đến bao giờ. Cho nên việc nghiên cứu chương trình ở các cấp lớp, giúp giáo viên bồi dưỡng hiểu được các em đã học được những gì, và những gì chưa học. Từ đó nắm chắc được kiến thức một cách có hệ thống và có kế hoạch bồi dưỡng một cách hợp lý phù hợp đối với học sinh. 2.2.3. Nghiên cứu Sách Giáo Khoa và nhiều tài liệu khác để soạn riêng tài liệu bồi dưỡng thích hợp: Để soạn tài liệu bồi dưỡng cho các em, trước tiên tôi nghiên cứu ở Sách Giáo Khoa (lớp 6 - lớp 7) về các dạng bài tập và cũng tự suy nghĩ về yêu cầu hệ thống các mãng kiến thức trong từng chương, từng nhóm bài được trình bày qua các dạng bài luyện tập trong Sách Giáo Khoa. Ngoài ra, bản thân còn tham khảo thêm nhiều tài liệu khác, cũng như những bộ đề thi Học Sinh Giỏi của những năm trước đây. Với những tài liệu tham khảo này, tôi phải chọn lọc những bài tập thích hợp với các em. Không phải chọn những bài tập quá khó ngay từ đầu mà chọn những bài tập từ cơ bản dần dần đến nâng cao tạo cho các em có cách học thoải mái nhẹ nhàng và dần dần yêu thích môn học tạo cảm giác say mê ham học ham khám phá những bài toán khó. 3 Tôi soạn tài liệu để bồi dưỡng cho các em, theo phương châm: “Biết đến đâu học đến đấy. Học đến đâu hiểu đến đấy”, không thể bắt ép các em dồn vào đầu óc mình những điều mà mình không hiểu được gì cả. Thà rằng chậm, từng bước tạo cho các em có được những hành trang kiến thức thật sự của mình và biết được trong gói hành trang đó có được những gì, nắm được tác dụng của từng loại hành trang có được. Tôi nghĩ như thế những kiến thức các em có được sẽ luôn ở bên mình trong suốt cuộc hành trình vươn tới tương lai. 2.2.4. Xây dựng cho các em các bước để giải một bài toán: Trước khi đi vào giải bài tập toán, tôi tập cho các em có được thói quen thực hiện theo từng bước cụ thể để tìm hiểu đề bài thật chính xác rồi giải bài tập một cách có hiệu quả. Tôi yêu cầu các em phải thực hiện qua các bước như sau: B1: Đọc kĩ đề bài (2 – 3 lần) B2: Phân tích đề bài tìm cách giải. B3: Tóm tắt đề toán (nếu cần). B4: Giải bài toán (nháp). ... à phần bất thường một số thập phân như vậy gọi là số thập phân vô hạn tuần hoàn tạp. Dựa vào đây ta tìm cách giải tổng quát. 1 999 1000 1000 1000 0,001001 12 Giải 0,1(25) = 990 25 10 1 99 25 . 10 1 10 1 )25(,0. 10 1 10 1 )25(0,0 10 1 = 990 124 990 1125 990 251100 990 25)1100(1 990 2599.1 Vậy 0,1(25) = 990 124 . * Khai thác: Khi đổi số thập phân vôi hạn tuần hoàn tạp sang phân số, ta được một phân số là: + Tử là một số gồm phần bất thường kèm theo một chu kì ( ở vd trên là 125) trừ bớt đi phần bất thường ( 125 – 1). + Mẫu là một số gồm các chữ số 9 và chữ số 0. số chữ số 9 bằng số chữ số trong chu kì, còn số chữ số không bằng số chữ số trong phần bất thường. Bài toán 2.4: viết số sau dưới dạng phân số tối giản. 0,2(16); 0,63(84) Giải 0.2(16)= 495 107 990 214 990 2216 ; 0,63(84)= 3300 2107 9900 6321 9900 636384 Từ bài toá trên có thể đề xuất bài toán sau. Bài toán 2.5: Tìm x, biết. )2.(0. )6(1,1)3(,0 )3.(0)6(1,0 x Giải Ta có: 9 2 )2(,0; 6 7 90 105 90 11116 )6(1,1; 3 1 9 3 )3(,0; 6 1 90 15 90 116 )6(1,0 . Do đó: )2(,0. )6(1,1)3(,0 )3.(0)6(1,0 x 9 2 . 6 7 3 1 3 1 6 1 x => 9 2 . 6 9 6 3 x => 3 2 x Ví dụ 3: chúng ta bắt đầu từ bài toán sau: Bài toán 3: Cho a,b Z, b > 0. So sánh hai số hữu tỉ 2001 b 2001 a và b a (bài 9, trang 4 SGK tóan 7) Bài toán này chúng ta đã có lời giải sau Xét tích a( b + 2001) = ab + 2001a, b(a + 2001) = ab + 2001b Vì b>0 nên b + 2001 > 0 - Nếu a > b thì ab + 2001a > ab + 2001b a(b + 2001) > b>(a + 2001) => 2001 2001 b a b a 13 - Tương tự, nếu a< b thì 2001 2001 b a b a - Nếu a = b thì rõ ràng 2001 2001 b a b a Điều này cho ta bài toán tương tự bài toán trên Bài toán 3.1: Cho a,b Z, b > 0. So sánh hai số hữu tỉ 2009 b 2009 a và b a Đến đây chúng ta cũng lập bài toán tương tự. Bài toán 3.2: Cho a,b Z, b> 0, n N*. So sánh hai số hữu tỉ n b n a và b a Giải Xét tích a( b + n) = ab + an, b(a + n) = ab + bn Vì b > 0 và n N* nên b + n > 0 - Nếu a > b thì ab + an > ab + bn a(b + n) > b(a + n) => n b n a b a - Tương tự, nếu a n b n a b a - Nến a= b, thì rõ ràng n b n a b a Từ lời giải này chúng ta lại có bài toán mới Bài toán 3.3: Cho a,b Z, b > 0 và n N*. chứng minh rằng: a) Nếu nb na b a thì1 b a b) Nếu nb na b a thì1 b a Giải Ta có b a >1 a> b an > bn ( Vì n N*) ab + an > ab +bn n b n a b a b) chứng minh tương tự câu a). Áp dụng điều này cho ta đề xuất tiếp bài toá thực tế. Bài toán 3.4: So sánh hai phân số: a) 1999 2009 1973 1983 và b) 1009 1000 và 2009 2000 14 I CB A E D Giải a) Ta có: 1973 1983 >1 nên theo bài 3.3 a) suy ra 1973 1983 > 1999 2009 261973 261983 b) ta có 1009 1000 <1 nê theo bài 3.3 b) say ra 1009 1000 < 2009 2000 10001009 10001000 bài toán này vẩn cò có thể khái thác thành bài toán mới ví dụ: Bài toán 3.5: So sánh hai số hữu tỉ sau a) x = 11983 11983 2008 2009 và y = 11983 11983 2007 2008 b) a = 12008 12008 2009 2008 và b= 12008 12008 2008 2007 Ở hình học việc lập ra các bài toán mới có phần khó khăn hơn. Tuy nhiên giúp học sinh đưa ra các bài toán mới cũng rất cần thiết. Ta có ví dụ sau: Bài toán 4: cho tam giác ABC cân tại A. Lấy điểm D thuộc cạnh AC, Điểm E thuộc cạnh AB, Sao cho AD = AE. a) So sánh ECˆA vàDBˆA b) IBC là tam giác gì? Vì sao? GT ABC (AB= AC) D AC, E AB,AD = AE KL a) so sánh ECˆA vàDBˆA b) IBC là tam giác gì? * Phân tích: Ta thấy ECˆA vàDBˆA là các góc của tam hai tam giác ABD và tam giác ACE. Hai tam giác này có đủ các yếu tố để bằng nhau. Ta chứng minh cho ECˆA DBˆA * Chứng Minh a) Xét ABD và ACE có AB = AC ( GT) AD = AE (GT) Aˆ : góc chung => ABD = ACE ( C – G – C) => ECˆA DBˆA ( hai góc tương ứng) b) Ta có ECˆABCˆAECˆBD;BˆACBˆADBˆC mà a)Câu ( ECˆA DBˆA cân); giác đáy tam góc hai (ˆˆ BCACBA => cân giác tamlà IBC ECˆB DBˆC 15 I CB A E D * Khai thác: rõ ràng nếu AD + AE thì BE = CD . và IB = IC ( IBC là tam). Từ đó giúp đề xuất bài toán tương tự. Bài toán 4.1: Cho tam giác cân ABC có AB = AC. Trên cạnh AB lấy điểm E. Trên cạnh AC lấy điểm D. sao cho AD = AE. Chứng minh rằng: a) CBD BCE b) IB= IC, ID=IE GT ABC (AB= AC) D AC, E AB, AD = AE KL a) CBD BCE b) IB= IC, ID=IE * Phân tích: Tương tự bài trước chứng minh CBD BCE theo trường hợp Cạnh – Góc – Cạnh. Câu b) IBE và ICD đã có EB = DC và IDˆC IEˆB ( từ kết quả câu a) còn thiếu điều kiện DCˆI EBˆI . Vì vậy ta chứng minh cho DCˆI EBˆI . * Chứng minh a) Xét BCE và CBD có: BE = AB – AE; CD = AC – AD Mà AB = AC, AE = AD (GT) => BE = CD, BE cạnh chung BCˆD CBˆE ( Hai góc ở đáy tam giác cân) => CBD BCE ( C- G–C) b) Ta có: CBˆI-CBˆE IBˆE ; BCˆI - BCˆD ICˆD mà BCˆI CBˆI B;CˆD CBˆE (hai góc tương ứng) => ICˆD IBˆE Xét có: IBE và ICD BE = BD ( câu a) CDˆI BEˆI ( Câu a) ICˆD IBˆE ( chứng minh trên) => IBE = ICD (G – C – G) => IB = IC, ID = IE ( hai canh tương ứng) Khai thác: Bài toán 4.1 a) trường hợp CBD BCE theo trường hợp góc - cạnh – góc. Trong đó hai góc là do yếu tố tam giác cân. Và hai cạnh bằng nhau BC = CB. Dựa vào đó ta phát triễn bài toán mới như sau 16 Bài toán 4.2: Cho tam giác ABC cân tại A. Trên BC lấy hai điểm D và E sao cho BD = CE. Từ D kẽ DH AB (H AB). Từ E kẽ EK AC (K AC). Chứng minh rằng: a) DH = EK b) Gọi I là giao điểm của DH và EK . IDE là ta giác gì? Vì sao GT ABC (AB = AC) D,E BC, BD = CE DH AB. EK AC KL a) DH = EK b) IDE là ta giác gì? Vì sao? * Phân tích: a) ta thấy DH và CK là hai cạnh của hai tam giác BDH và tam giác CEK. chứng minh dựa vào trường hợp bằng nhau của tam giác vuông. b) từ câu a có thể suy ra hai góc IDE bằng góc IED. Dựa vào hai góc đối đỉnh. * Chứng minh a) Xét BDH và CEK có BD = CE ( GT); 090 Kˆ Hˆ ; Cˆ Bˆ (hai góc đáy tam giác cân) => BDH = CEK (G – C – G ) => DH = CK ( hai cạnh tương ứng) b) Từ câu a) suy ra => 11 EˆDˆ ( hai góc tương ứng) Mà 1212 Eˆ Eˆ ,Dˆ Dˆ ( Hai góc đối đỉnh) => 22 Eˆ Dˆ => IDE cân tại I. 17 D A B CM E O H K * Khai thác: theo tính chất của tam giác cân, và điều kiện BD = CE, ta vẽ thêm AD và AE để có thêm hai tam giác bàng nhau mới. Bài toán 4.3: Cho tam giác ABC cân tại A. Trên BC lấy hai điểm D và E sao cho BD = CE. Chứng minh rằng: a) AD = AE b) Từ D kẽ DH AB (H AB). Từ E kẽ EK AC (K AC).Gọi I là giao điểm của DH và EK . chứng minh ID = IE. * Phân tích: a) thực hiện chúng minh tam giác ABD bằng Tam giác ACE theo trường hợp (c – g – c). b) chứng minh giống như bài 4.2 => ID = IE hai cạnh bên. * Chứng minh a) Xét ABD và ACE có AB = AC ( GT) BD = CE (GT) ECˆA DBˆA ( Hai góc đáy tam giác cân) => ABD = ACE ( C – G – C) => AD = AE ( hai cạnh tương ứng) b) Chứng minh IDE cân tại I như bài 4.2 => ID = IE (hai cạnh bên) Khai thác: với việc tạo thêm hai cạnh bằng nhau ta cũng có bài toán tương tự. Bài toán 4.4: cho tam giác ABC. Từ A kẽ AM vuông góc BC (M BC). Trên tia đối của BM lấy điểm D, trên tia đối của CM lấy điểm E, sao cho BD = MC, CE = MB. Từ B kẽ BH AD(H AD), từ C kẽ CK AE ( K AE). a) chứng minh rằng: AD = AE b) Gọi O là giao điểm của BH và CK. Xác định dạng của tam giác OBC. GT ABC (AB = AC) D,E BC, BD = CE DH AB. EK AC KL a)AD = AE b) ID = IE GT ABC AM BC, BD = MC, CE = MB BH AD(H AD), CK AE ( K AE) KL a) AD = AE b) Xác định dạng của tam giác OBC 1 1 2 1 2 1 18 * Phân tích: a) để chứng minh cho AD = AE, Ta chứng minh cho AMD = AME hai tam giác này có đã có đủ những yếu tố để bằng nhau. b) tương tự bài 4.3 ta chứng minh cho gócOBC bằng gócOCB. * Chứng minh a) Xét AMD và AME có MD = MB+ BD; ME = MC + CE Mà MB = CE; MC = BD => MD = ME AM cạnh chung 090 EMˆA DMˆA => AMD = AME ( C – G – C) => AD = AE (hai cạnh tương ứng) b) từ AD = AE ( ở trên) => ADE cân tại A. => Eˆ Dˆ ( hai góc đáy tam giác cân) Mà 01 0 1 180 Eˆ Cˆ , 180 Dˆ Bˆ ( hai góc nhọn tam giác vuông) => 11 CˆBˆ => 22 CˆBˆ ( đối đỉnh với hai góc bằng nhau) => OBC là tam giác cân. 2.2.8. Động viên học sinh giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau: Các em giải được bài tập đó là một yêu cầu cần thiết. Nhưng để phát triển thêm tư duy cho các em, tôi còn động viên các em tìm ra nhiều cách giải khác (nếu có thể được). Khi các em biết giải thêm những cách khác trên cùng một bài tập, như thế các em sẽ nắm và hiểu được vấn đề một cách chắc chắn hơn và cũng để tạo cho các em có được tính linh hoạt, sáng tạo và biết chọn lọc được cái hay trong giải toán. Việc tìm ra nhiều cách giải cho bài toán là một cách rèn luyện tư duy hiệu quả. Từ một bài toán ban đầu ta có thể đặc biệt hóa nó để có được những bài toán mới rồi từ đó tìm ra nhiều lời giải cho bài toán này. Trong bài viết này, tôi xin giới thiệu với các bạn ví dụ như vậy VD: Cho a c b d chứng minh rằng a c a b c d . Đối với bài toán này ta có thể đặt a c k b d hoặc biến đổi tỉ lệ thức cho trước để chúng trở thành đẳng thức cần chứng minh. Giải: Cách 1: a c b d 1 1 b d b d a b c d a c a c a c a c a b c d (đpcm) 19 Cách 2: a c a b a b a c b d c d c d a b c d (đpcm) Cách 3: ( Cách này áp dụng được vào nhiều bài toán dạng này) Đặt a c k b d suy ra ;a bk c dk Ta có: ( 1) 1 a bk bk k a b bk b b k k (1) ( 1) 1 c dk dk k c d dk d d k k (2) Từ (1) và (2) suy ra a c a b c d Nhận xét. Như vậy, bằng cách biến đổi hoặc đặt, ta đã có 3 cách giải cho bài toán trên. 2.2.9. Rèn luyện kỹ năng giả toán thông qua việc giải toán qua mạng Intenet: Song song với quá trình bồi dưỡng theo chương trình kế hoạch mà giáo viên đề rà thì giáo viên kết hợp ôn luyện cho học sinh rèn luyện kỹ năng giải toán qua mạng theo trình tự các bước như sau: * Bước 1: Khám phá: Mỗi vòng thi bắt đầu, giáo viên yêu cầu học sinh lên mạng tự giải, ghi tất cả các bài toán cũng như đáp số lại. Sau đó phân dạng bài, nhóm bài. * Bước 2:Thảo luận nhóm : Các HS học nhóm trao đổi với nhau kết quả những bài giải được, chưa giải được, thảo luận tìm cách giải, sau đó sắp xếp các bài toán theo từng dạng cho dễ nhớ. Những bài nào không làm được giáo viên trợ giúp (Tổ chức HD cả lớp cùng giải để tất cả học sinh đều nắm được cách giải). Bước 3: Tăng tốc độ: Từng học sinh dưới sự giám sát của giáo viên giải độc lập từng bài. Qua mỗi bài giáo viên đều ghi lại thời gian để thấy được sự tiến bộ của các em. Giáo viên hướng dẫn các em thêm 1 số thao tác của máy tính, cách nhập số sao cho nhanh, cách lựa chọn bài nào làm trước, làm sau để đạt số điểm tối đa . Bước 4: Về đích và mở rộng : Học sinh thực hành giải trên máy theo diễn tiến của các vòng thi. Giáo viên kết hợp hướng dẫn thêm các bài toán khó để các em có thêm kiến thức. Sau mỗi vòng thi, giáo viên lại yêu cầu học sinh ôn lại bài đã làm để củng cố kiến thức. Giúp các em nắm chắc kiến thức đã học. * Kết quả đạt được: Được Ban Giám Hiệu trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 7 trong những năm qua, bản thân luôn cố gắng hết sức mình để nghiên cứu, tham khảo và học hỏi ở mọi nơi, mọi lúc. Kết quả đạt được: 20 **. Chất lượng bộ môn cuối năm 2013 – 2014: TT lớp Môn SS Giỏi Khá TB Yếu Kém TB Trở lên SL % SL % SL % SL % SL % SL % 1 7A Toán 29 12 41.4 15 51.7 2 6.9 0 0 0 0 29 100 2 7B Toán 35 2 5.7 13 37.1 15 42.9 5 14.3 0 0 30 85.7 Tổng 64 14 21.9 28 43.8 17 26.6 5 7.8 0 0 59 92.2 ***. Kết quả học sinh giỏi cấp Huyện: - Năm học 2011 - 2012: +Đồng đội: Xếp thứ 8 toàn huyện. + Dự thi 6 HS, có 3 em đạt giải, có 1 giải ba và 02 giải Khuyến khích. - Năm học 2012 - 2013: + Đồng đội: Đạt giải Nhì. + Dự thi 7 HS, có 7 em đạt giải, có 1 giải nhất, 02 giải nhì, 02 giải ba và 02 giải Khuyến khích. - Năm học 2013 - 2014: + Đồng đội: Đạt giải Khuyến khích. + Dự thi 5 HS, có 4 em đạt giải, có 1 giải ba và 03 giải Khuyến khích. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến Thực tế, bồi dưỡng học sinh giỏi, không thể có một khuôn phép nhất định nào được, vì học sinh mỗi năm mỗi khác, nhất là đối với môn Toán. Ngoài những kiến thức cơ bản có ở trong chương trình thì nó còn bao la như bể trời vô tận. Cho nên để bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán có chất lượng theo yêu cầu thì trước tiên người giáo viên phải biết được năng lực học sinh của mình như thế nào về kiến thức, về khả năng, mức độ tiếp thu của các em để có phương pháp phù hợp khi tiếp xúc, truyền thụ kiến thức mới cho các em. Biết được các em như thế nào? thì giáo viên mới biết mình phải chuẩn bị về tài liệu ra sao và nâng dần mức độ bài tập như thế nào cho đúng tầm của các em? Có như thế trong quá trình giảng dạy giữa thầy và trò có sự hoạt động nhịp nhàng, thầy tổ chức các hình thức hoạt động, trò thực hiện một cách tích cực có hứng thú học tập, nhớ bài nhanh hơn, chất lượng bài tập tốt, khả năng tư duy môn học cũng tăng lên, các em cảm thấy yêu môn học nhiều hơn. 3.2. Đề xuất, kiến nghị: Thư viện nhà trường cần bổ sung thêm các tài liệu tham khảo về bồ môn để cho giáo viên, học sinh có tài liệu học tập nghiên cứu. Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ tôi vừa rút ra từ công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, hi vọng phần nào sẽ góp phần nâng cao chất lượng sinh giỏi. Tuy đã rất cố gắng nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp đã quan tâm, góp ý, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_cong_tac_boi_duong_hoc_sinh_gioi_toan.pdf