Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội

Bài viết phân tích các kết quả nghiên cứu trên ba trường tiểu học hòa nhập tại Hà

Nội để khái quát những nhu cầu cần hỗ trợ cơ bản của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ

và gia đình như: Mong muốn có chính sách cụ thể về hòa nhập đối với trẻ khuyết tật; Được

hỗ trợ về tài chính và chính sách xã hội; Được sự đồng cảm và chia sẻ của các thầy cô giáo

và phụ huynh trong trường; Được tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục

trẻ.Trong đó nhu cầu có đội ngũ nhân viên công tác xã hội làm việc tại trường học là hết

sức cần thiết để trợ giúp giải quyết những khó khăn, rào cản cũng như là cầu nối nguồn lực

giữa gia đình, nhà trường và các lực lượng xã hội để đảm bảo quyền bình đẳng trong giáo

dục cho nhóm trẻ khuyết tật.

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 1

Trang 1

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 2

Trang 2

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 3

Trang 3

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 4

Trang 4

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 5

Trang 5

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 6

Trang 6

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 7

Trang 7

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 8

Trang 8

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 6400
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội

Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ và gia đình trong các Trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội
105 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0082 
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 7, pp. 105-113 
This paper is available online at  
NHU CẦU CẦN HỖ TRỢ CỦA TRẺ MẮC HỘI CHỨNG 
RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỈ VÀ GIA ĐÌNH 
TRONG CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC HÒA NHẬP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 
Vũ Thị Thanh Nga 
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt. Bài viết phân tích các kết quả nghiên cứu trên ba trường tiểu học hòa nhập tại Hà 
Nội để khái quát những nhu cầu cần hỗ trợ cơ bản của trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ 
và gia đình như: Mong muốn có chính sách cụ thể về hòa nhập đối với trẻ khuyết tật; Được 
hỗ trợ về tài chính và chính sách xã hội; Được sự đồng cảm và chia sẻ của các thầy cô giáo 
và phụ huynh trong trường; Được tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục 
trẻ...Trong đó nhu cầu có đội ngũ nhân viên công tác xã hội làm việc tại trường học là hết 
sức cần thiết để trợ giúp giải quyết những khó khăn, rào cản cũng như là cầu nối nguồn lực 
giữa gia đình, nhà trường và các lực lượng xã hội để đảm bảo quyền bình đẳng trong giáo 
dục cho nhóm trẻ khuyết tật. 
Từ khóa: Trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỉ, giáo dục hòa nhập, công tác xã hội, công 
tác xã hội học đường. 
1. Mở đầu 
Ngày nay, Hội chứng rối loạn phổ tự kỉ (HC RLTK) đang là một vấn đề nóng bỏng trong 
xã hội và được xem là một trong các dạng rối loạn tâm thần ở trẻ em kể từ khi được mô tả và 
nghiên cứu lần đầu tiên vào năm 1943 bới Leo Kanner. Hội chứng này làm cho trẻ không có khả 
năng hoà nhập cộng đồng, ảnh hưởng cả về mặt thể chất và tinh thần tới sự phát triển của trẻ [1]. 
Ở Việt Nam, số trẻ mắc HC RLPTK ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt là ở những đô 
thị lớn như Hà Nội. Theo thống kê của ngành giáo dục thành phố Hà Nội thì khuyết tật tự kỉ 
chiếm 30%- tỉ lệ cao nhất trong các dạng khuyết tật khác trong trường học [2]. Lĩnh vực giáo 
dục trẻ em mắc HC RLTK đang được quan tâm bởi không chỉ các bậc cha mẹ, các giáo viên mà 
cả các nhà nghiên cứu, các nhà xã hội học, tâm lí học và công tác xã hội (CTXH) nhằm xây 
dựng những giải pháp hỗ trợ trẻ trong học tập và hòa nhập xã hội một cách hiệu quả. 
RL PTK là dạng khuyết tật chưa có nhiều người biết đến nên chưa được quan tâm đúng 
mức. Những học sinh này chưa có sự đãi ngộ nào về chính sách giáo dục vì chúng được xem 
như những đứa trẻ bình thường. Các em chưa được hưởng một phương pháp giáo dục phù hợp 
do các giáo viên chưa thực sự nắm rõ về đặc điểm của trẻ và thiếu các kiến thức về dạy học hòa 
nhập. Bên cạnh đó, những học sinh mắc HC RLPTK này còn gặp rất nhiều khó khăn do HC 
RLPTK mang lại, đó là các vấn đề khó khăn trong giao tiếp, học hỏi kỹ năng sống, sự kì thị của 
thầy cô bạn bè, chưa có chương trình học dành riêng cho trẻ mắc chứng tự kỉ... 
Trước thực trạng về hòa nhập xã hội của trẻ mắc HC RLPTK, bài viết này hướng đến phân 
tích, làm rõ những rào cản khó khăn khăn khi trẻ tự kỉ tham gia vào quá trình giáo dục hòa nhập 
Ngày nhận bài: 11/4/2020. Ngày sửa bài: 27/5/2020. Ngày nhận đăng: 10/6/2020. 
Tác giả liên hệ: Vũ Thị Thanh Nga. Địa chỉ e-mail: vttnga@daihocthudo.edu.vn 
Vũ Thị Thanh Nga 
106 
(GDHN). Với cách tiếp cận từ góc độ ngành CTXH, bài viết đưa ra một số định hướng nhằm 
phát huy hơn nữa vai trò của nhân viên CTXH trường học trong nỗ lực hướng đễn một nền giáo 
dục hòa nhập bình đẳng, có chất lượng cho trẻ tự kỉ nói riêng và trẻ khuyết tật nói chung. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
Bài viết trình bày các phân tích số liệu từ kết quả điều tra của đề tài “CTXH với trẻ mắc hội 
chứng tự kỉ trên địa bàn Hà Nội”. Đây là một đề tài nghiên cứu đánh giá thực trạng trẻ em mắc 
HC RLTK đang theo học hòa nhập bậc tiểu học tại một số trường trên địa bàn thành phố Hà 
Nội. Trong đó, ba trường tiểu học Mai Dịch, tiểu học Dịch Vọng B, tiểu học Bạch Mai là địa 
bàn khảo sát chủ yếu. 
Để có được một nghiên cứu với thông tin đa chiều, khách quan và toàn diện, tác giả đã áp 
dụng đồng thời phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Số liệu điều tra được thu thập 
bằng phương pháp điều tra khảo sát xã hội học. Bảng hỏi được xây dựng trên cơ sở lí luận của 
vấn đề nghiên cứu. Đối tượng được hỏi bao gồm ba nhóm với ba bảng hỏi được thiết kế riêng 
biệt: (1) 75 phụ huynh có con mắc HC RLTK tại 3 trường tiểu học; (2) 15 giáo viên dạy lớp có 
trẻ mắc HC RLPTK theo học; (3) 05 nhà quản lí giáo dục. Những kỹ thuật thu thập thông tin 
ngoài bảng hỏi điều tra, bao gồm: (i) Nghiên cứu các nguồn tài liệu có sẵn liên quan tới vấn đề 
nghiên cứu; (ii) Phương pháp quan sát trực tiếp và quan sát tham dự tại các gia đình, trường 
học, cộng đồng; (iii) Phương pháp phỏng vấn sâu được áp dụng để thu thập thông tin chi tiết 
mang tính trường hợp của 10 gia đình có con mắc HCTK đang theo học hòa nhập và 05 giáo 
viên đứng lớp hòa nhập; (iv) Phương pháp thảo luận nhóm với phụ huynh có con mắc HCTK 
trong các diễn đàn onlline (forum), quan điểm và những phương pháp mà họ đã thực hiện nhằm 
giúp con cái họ hòa nhập với cộng đồng dễ dàng, hiệu quả nhất. [3] 
2.2. Khái niệm trẻ mắc Hội chứng tự kỉ và giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỉ 
* Khái niệm trẻ mắc HCTK: 
Quan niệm hiện đại về HC RLPTK coi “HC RLPTK cổ điển” của Kanner là tự kỉ (Autism), 
rối loạn tự kỉ (Autistic disorder-AD) và xếp hội chứng này vào phạm trù rộng hơn gọi là các rối 
loạn thuộc phổ tự kỉ (Autistic Spectrum Disorder- ASD) [1]. 
Rối loạn phổ tự kỉ bao gồm: HCTK, hội chứng Asperger, rối loạn bất hòa nhập tuổi ấu thơ, 
hội chứng Rett. Tất cả các rối loạn thuộc phổ tự kỉ đều có thiếu hụt trong chức năng giao tiếp và 
xã hội nhưng chúng có khác nhau về phạm vi, mức độ nặng, khởi phát và tiến triển của triệu 
chứng theo thời gian [1], [4]. Những biểu hiện của HC RLPTK rất đa dạng, phức tạp và thường 
chỉ bộc lộ khi đứa trẻ được hai đến ba tuổi. Vẻ bề ngoài rất bình thường làm cho nhiều bậc phụ 
huynh cho rằng con mình chỉ chậm nói. Một số trẻ ngay từ nhỏ đã biểu hiện  ... 5 86,7 
2 Giáo viên dạy hòa nhập được tập huấn về chuyên môn dạy trẻ TK 69 92 
3 Lớp học được trang bị thêm một số cơ sở vật chất phục vụ GDHN 51 68 
4 Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của 58 77,3 
Tỷ lệ %, Giảm tiền học phí , 83.1
Tỷ lệ %, Trợ cấp xã hội , 41.5
Tỷ lệ %, Hỗ trợ khác, 13.7
Giảm tiền học phí 
Trợ cấp xã hội 
Hỗ trợ khác
Vũ Thị Thanh Nga 
110 
trẻ 
5 Trong lớp hòa nhập có giáo viên chuyên biệt 44 58,7 
6 Hỗ trợ khác 0 0 
Những nhà quản lí giáo dục ở cả hai trường đều không được đào tạo chuyên môn về quản lí 
GDHN nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí học sinh mắc HC RLPTK học hòa nhập, chủ 
yếu là làm theo kinh nghiệm và được sự giúp đỡ từ trung tâm chuyên biệt có liên kết. Còn theo 
những giáo viên đứng lớp hòa nhập thì bản thân họ cũng không mặn mà với việc có học sinh 
mắc HC RLPTK theo học lớp của mình, lí do nhận các em vào lớp chủ yếu là do sự phân công 
từ nhà trường. Bởi lẽ áp lực công việc trên lớp đã rất lớn thì việc có thêm học sinh mắc HC 
RLPTK vào học họ lại thêm nhiều côn việc hơn, phải nghiên cứu bài giảng, thiết kế hoạt động, 
bài tập để phù hợp với trình độ của trẻ. Bản thân giao viên lại không có nhiều hiểu hiết về mức 
độ khuyết tật của trẻ. Thông tin thu thập được từ giáo viên rất chung chung . Khi được hỏi sâu 
hơn về khó khăn hay tiến bộ của trẻ thì giáo viên đứng lớp đều gọi cô giáo dạy kèm của trẻ để 
trả lời các câu hỏi của người người phỏng vấn. 
Tỉ lệ phụ huynh mong muốn có một chương trình chuẩn cho trẻ khuyết tật của Bộ Giáo dục 
& Đào tạo ban hành cũng rất cao (86,7%). Chương trình chuẩn này sẽ giúp cả giáo viên và phụ 
huynh dễ dàng xây dựng được chương trình học phù hợp với khả năng của trẻ hơn. Đồng thời 
dựa trên chương trình chuẩn sẽ có thang đo đánh giá trình độ nhận thức và khả năng hòa nhập 
của trẻ phù hợp hơn, không gây sức ép nặng nề như hiện nay. 
Để trẻ có thể theo học hòa nhập được thì mong muốn của các phụ huynh là được giáo viên 
chủ nhiệm thường xuyên trao đổi tình hình học tập của trẻ (77,3%). Việc trao đổi giữa phụ 
huynh và giáo viên giúp cha mẹ nắm được tình hình học tập của trẻ và giáo viên giúp cha mẹ 
nắm được tình hình học tập của trẻ trên lớp, đồng thời qua trao đổi giáo viên cũng hiểu hơn về 
những khó khăn của trẻ, điểm mạnh, điểm yếu để trợ giúp trẻ tốt hơn. 
2.3.4. Nhu cầu cần có nhân viên công tác xã hội học đường hỗ trợ trẻ mắc hội chứng rối 
loạn phổ tự kỉ theo học tại trường tiểu học hòa nhập 
Các dịch vụ CTXH sẽ là một trong những dịch vụ có tác động đáng kể vào quá trình nâng 
cao chất lượng đào tạo. Trong nhà trường ngoài lực lượng chủ chốt là đội ngũ giáo viên chuyên 
trách về quá trình giáo dục tri thức, đạo đức cho học sinh thì còn cần đến một đội ngũ những 
nhà tư vấn tâm lí, nhân viên CTXH. Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu được hỗ trợ 
về tâm lí của học sinh nên một số trường trên địa bàn Hà Nội đã xây dựng phòng tham vấn học 
đường. Hoạt động của phòng tham vấn học đường đã đem lại những hiệu quả tích cực song nhu 
cầu của học sinh trong trường học không chỉ cần trợ giúp về mặt tâm lí mà còn cần tới các dịch 
vụ trợ giúp về giáo dục, chính sách, hướng nghiệp... Chính vì vậy việc cần có đội ngũ 
NVCTXH tại trường học là cần thiết trong việc cung ứng các dịch vụ tổng quát đáp ứng các nhu 
cầu của học sinh và giáo viên trong nhà trường. 
Tuy chưa có hiểu biết nhất định về công việc của nhân viên CTXH trường học nhưng 
100% các giáo viên và phụ huynh được hỏi “Có cần thiết đưa NVCTXH vào trường học để trợ 
giúp quá trình học hòa nhập của học sinh mắc HC RLPTK không?” đều trả lời “Có”. Lí do mà 
các phụ huynh đưa ra là vì trẻ mắc HCRLPTK khi học hòa nhập gặp rất nhiều khó khăn, nếu như có 
đội ngũ NVCTXH hỗ trợ phần nào thì đó là điều cần thiết. Thực tế này phản ánh các phụ huynh có 
con theo học hòa nhập cần rất nhiều sự hỗ trợ từ các ban ngành, lực lượng xã hội khác nhau. 
Khi được hỏi “NVCTXH trường học sẽ trợ giúp những gì cho trẻ mắc HC RLPTK đi học 
hòa nhập?”, qua thu thập và xử lí thông tin chúng tôi thu được bảng kết quả như sau: 
Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng tự kỉ trong các trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội 
111 
Bảng 3. Nhu cầu cần có NV CTXH hỗ trợ trẻ mắc HC RLPTK học hòa nhập 
Stt 
Công việc của NV CTXH trường học 
Số lượng 
(người) 
Tỉ lệ 
(%) 
1 Tư vấn, hỗ trợ về tâm lí cho phụ huynh có con mắc HCTK 62 82.7 
2 Tổ chức các buổi sinh hoạt, chia sẻ khó khăn, kinh nghiệm dạy 
trẻ mắc HC RLPTK cho giáo viên và phụ huynh 
62 82,7 
3 Tổ chức tập huấn về chuyên môn GDHN cho giáo viên 39 52 
4 Vận động, tuyên truyền thay đổi nhận thức, thái độ của giáo viên, 
phụ huynh, học sinh về HC RLPTK 
70 93,3 
5 Cầu nối thông tin giữa giáo viên, nhà trường và phụ huynh trong 
quá trình học hòa nhập 
41 54,7 
6 Cung cấp thông tin về trường học hòa nhập, chính sách hỗ trợ , 
phương pháp giáo dục trẻ mắc HC RLPTK 
70 93,3 
7 Ý kiến khác 10 14,3 
Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy tỉ lệ rất cao (chiếm 93,3%) phụ huynh cho rằng 
NVCTXH tại trường học sẽ thực hiện công việc “Vận động, tuyên truyền thay đổi nhận thức, 
thái độ của giáo viên, phụ huynh, học sinh về HCTK” và “Cung cấp thông tin về trường học hòa 
nhập, chính sách hỗ trợ trẻ mắc HC RLPTK, phương pháp giáo dục trẻ”. Có thể thấy đây là 
những công việc mà phụ huynh có con mắc chứng TK học hòa nhập mong muốn NVCTXH 
thực hiện để giải quyết những khó khăn khi trẻ học tại trường. Đó là những rào cản đối với quá 
trình học tập, vui chơi và hòa nhập xã hội của trẻ. 
Công việc nữa của NVCTXH trường học mà phụ huynh cho là cần thiết tiếp theo là thực 
hiện “tư vấn, hỗ trợ về tâm lí cho phụ huynh có con mắc HC RLPTK” (chiếm 82,7% xếp thứ 
bậc 2). Bởi lẽ rào cản tâm lí cũng là khó khăn rất lớn mà phụ huynh cần phải đối mặt để trở 
thành chỗ dựa cho con mình. Nhiều phụ huynh do mặc cảm với đồng nghiệp, bạn bè, các phụ 
huynh khác trong trường nên còn dấu diếm tình trạng của con mình. Nhiều trường hợp do phụ 
huynh không nói thật với giáo viên và Ban Giám hiệu nhà trường nên dẫn tới tình trạng học sinh 
mắc HC RLPTK “ngồi nhầm lớp”, không theo kịp các bạn khác khiến trẻ phải chịu áp lực nặn 
nề về học tập, dẫn tới việc phải buộc thôi học. Phụ huynh cần được trợ giúp tâm lí để “chấp 
nhận” tình trạng của con mình,vượt qua sự mặc cảm, tự ti để phối hợp với giáo viên, nhà trường 
và các chuyên gia để cùng xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao nhất. 
NVCTXH cũng cần là cầu nối mật thiết giữa giáo viên và phụ huynh trong những lớp có 
học sinh mắc HC RLPTK theo học hòa nhập (chiếm 54,7%) trong quá trình trao đổi thông tin 
hằng ngày về tình hình học của trẻ trên lớp. Điều này sẽ trợ giúp rất nhiều để giảm tải công việc 
của giáo viên chủ nhiệm trên lớp. Với sĩ số hơn 60 học sinh để liên lạc hằng ngày với các bậc 
phụ huynh là một áp lực rất lớn đối với giáo viên. Hơn nữa, trẻ mắc HC RLPTK có nhiều hành 
vi bất thường trong ngày khi gặp phải những tác động tiêu cực nên cha mẹ cần nắm bắt kịp thời 
để có biện pháp ngăn chặn và giáo dục trẻ. Do vậy NVCTXH đóng một vai trò quan trọng trong 
việc hỗ trợ giáo viên sát sao tình hình của trẻ tại lớp hàng ngày (đặc biệt đối với những lớp 
không có giáo viên chuyên biệt đi kèm). 
Một công việc khác của NVCTXH trường học mà nhiều phụ huynh cũng cho là cần thiết 
dù chiếm tỉ lệ không cao (52%) là “tổ chức tập huấn về chuyên môn GDHN cho giáo viên”. Bởi 
trên thực tế đa số giáo viên đứng lớp hòa nhập đều rất thiếu kiến thức về đặc điểm của khuyết 
tật cũng như phương pháp, kỹ năng GDHN. NVCTXH là người kết nối với các tổ chức về giáo 
dục đặc biệt trong và ngoài nước, các chuyên gia để tập huấn cho giáo viên, cán bộ quản lí về 
Vũ Thị Thanh Nga 
112 
GDHN. Việc tập huấn này cần diễn ra thường xuyên theo kì học, năm học và chia thành những 
chuyên đề cụ thể, thiết thực với công tác GDHN tại nhà trường. 
Như vậy qua phân tích trên có thể nhận thấy cả phụ huynh và giáo viên đều có nhu cầu về 
NVCTXH trong trường học để thực hiện những công việc cụ thể góp phần giải quyết những khó 
khăn mà trẻ mắc chứng RLPTK gặp phải trong quá trình đi học hòa nhập hiện nay. Họ cho rằng 
điều này là cần thiết và các nhà trường cần tuyển dụng những NVCTXH làm việc tại phòng 
tham vấn của nhà trường. Vì thực tế khảo sát ở cả hai trường tiểu học hòa nhập đều chưa có 
phòng tham vấn học đường để hỗ trợ phụ huynh, học sinh trong quá trình học tập. Tuy nhiên họ 
cũng cho rằng cần phải vận động hành lang pháp lí cho các chính sách hỗ trợ học đường trong thời 
gian tới, có chế độ cụ thể cho những NVCTXH khi tuyển dụng và cần phổ biến về vai trò cũng 
như công việc cụ thể của đội ngũ này trong trường học để giáo viên và phụ huynh được biết. 
3. Kết luận 
GDHN cho trẻ khuyết tật ở nước ta là một vấn đề phức tạp cần được sự quan tâm cấp bách 
của các cơ quan ban ngành, giáo viên, phụ huynh và toàn xã hội. Tác giả cũng thu thập được rất 
nhiều những ý kiến về nhu cầu của trẻ mắc HC RLPTK và gia đình các em trong trường hòa 
nhập như: Mong muốn các trường tiểu học tiếp nhận và có chính sách hòa nhập đối với trẻ 
khuyết tật, được hỗ trợ về tài chính và chính sách xã hội, được sự đồng cảm và chia sẻ của các 
thầy cô giáo và phụ huynh trong trường, được tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giáo 
dục trẻ...Xuất phát từ thực tế GDHN tại một số trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội, 
nhu cầu có đội ngũ NVCTXH làm việc tại trường học là hết sức cần thiết để trợ giúp giải quyết 
những khó khăn, rào cản của trẻ mắc HC RLPTK tại cũng như là cầu nối nguồn lực giữa gia 
đình, nhà trường và các lực lượng xã hội để đảm bảo quyền bình đẳng trong giáo dục cho nhóm 
trẻ khuyết tật. 
Nhân viên CTXH là một thành viên trong nhóm hỗ trợ phát triển giáo dục, làm việc tại 
phòng tham vấn học đường. Vai trò của NVCTXH là rất quan trọng trong việc thúc đẩy quá 
trình giáo dục và đào tạo, nhất là trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Họ không chỉ hỗ trợ cá 
nhân học sinh khuyết tật vượt qua những cản trở về tâm lí xã hội, khiếm khuyết của bản thân, 
khám phá những tiềm năng của các em mà còn là người bắc cầu giữa gia đình, nhà trường và 
cộng đồng tạo ra những điều kiện học tập tốt nhất. Vì vậy, trong công cuộc cải cách và nâng cao 
chất lượng giáo dục hiện nay, bên cạnh những thành tố trực tiếp như giáo viên, nội dung chương 
trình đào tạo, sách giáo khoa và tài liệu học tập, rất cần phải quan tâm đến những thành tố hỗ trợ 
để quá trình đào tạo diễn ra hiệu quả và chất lượng hơn, đó là dịch vụ CTXH. Vì vậy, phát triển 
CTXH trong trường học là việc làm cần thiết để góp phần vào sự nghiệp đổi mới chất lượng 
giáo dục ở nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ giáo dục và đào tạo, 2013. Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập 
cho trẻ tự kỉ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011 – 2020. Kỉ hội thảo khoa học đề 
tài độc lập cấp Nhà nước tr.159 – 183, 210 -216. 
[2] Học viện chính trị khu vực 1, 2015. Nghiên cứu tác động của hội chứng tự kỉ ở trẻ em trên 
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển cộng nghệ 
cấp thành phố. Mã số 01C-08/13-2014-2. 
[3] Vũ Thị Thanh Nga, 2014. Công tác xã hội với vấn đề hòa nhập của trẻ mắc hội chứng tự 
kỉ tại các trường tiểu học trên địa bàn Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội 
& Nhân văn, Hà Nội. 
Nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ mắc hội chứng tự kỉ trong các trường tiểu học hòa nhập trên địa bàn Hà Nội 
113 
[4] Trần Thị Thiệp, Bùi Thị Lâm, Hoàng Thị Nho, Trần Thị Minh Thành, 2006. Giáo trình 
can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật. Nxb Giáo dục, tr.203 – 225. 
[5] Đỗ Thị Thảo, 2016. “Hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong can thiệp sớm giáo dục 
trẻ rối loạn phổ tự kỉ”. Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol.61, số 
01, tr. 155-165. 
[6] Trần Thị Minh Huế, 2017. “Thực trạng và biện pháp giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỉ 
lứa tuổi mầm non tại khu vực miền núi phía Bắc”. Tạp chí Thiết bị giáo dục, số 152 kì 
1, tr. 64-67. 
[7] Nguyễn Xuân Hải, 2015. “Đảm bảo chất lượng giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật 
trong các nhà trường phổ thông”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 
60, (8/2015), số 6BC, ISSN 0868-3719, tr.45-54. 
[8] Nguyễn Xuân Hải, 10/2015. “Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam. Tạp chí Khoa 
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol 60, số 8C, 2015, ISSN 2354-1075, tr3-10. 
[9] Bùi Thị Lâm, 2015. “Thực trạng điều chỉnh môi trường học tập cho trẻ khuyết tật ở trường 
mầm non hòa nhập”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 60(6), tr.151- 158. 
[10] Đỗ Thị Thanh Thủy, 2015. “Kì thị đối với người khuyết tật – rào cản trong thực hiện 
giáo dục hòa nhập”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ISSN 0868-
3719, tr. 97-101. 
[11] Cao Thị Xuân Mỹ, Nguyễn Thị Cẩm Hường, 2016. “Nhu cầu về nhân lực cho giáo dục hòa 
nhập ở trường tiểu học”. Tạp chí Giáo dục (Bộ GD&ĐT), 6(2), tr.19-21. 
ABSTRACT 
Need of supporting children with autism and parents in primary schools in Hanoi 
Vu Thi Thanh Nga 
Faculty of Social Sciences and Humanities, Hanoi Metropolitan University 
The paper analyzes the research results on three inclusive primary schools in Hanoi to 
summarize the basic needs of children with autism and their families such as: desiring to have 
specific policies for children with disabilities; receiving financial and social policy support; 
having empathy and sharing of teachers and parents at school; participating in training courses 
on methods of educating children... In which, the need to have a social worker team working in 
schools is extremely necessary to support solving the difficulties and barriers of children with 
disabilities at school. Enhancing their study as well as the link between families, schools and 
social forces helps to ensure equal rights in education for children with disabilities. 
Keywords: Children with autism, inclusive education, social work, social work in at school. 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_can_ho_tro_cua_tre_mac_hoi_chung_roi_loan_pho_tu_ki.pdf