Nghiên cứu xác định biến động đường bờ thượng lưu sông Sê San, tỉnh Kontum trên cơ sở phân tích dữ liệu viễn thám đa thời gian
Thượng lưu sông Sê San bao gồm chi lưu Pô Kô (phía hữu ngạn) và Đăk Bla (phía tả
ngạn) nằm hầu hết trên địa phận tỉnh Kon Tum. Quá trình suy giảm trầm tích sông đã hình thành
những biến động đường bờ tại khu vực này, trở thành động lực làm thay đổi hiện trạng phát triển
kinh tế xã hội cũng như tác động tới quy hoạch lãnh thổ trong tương lai. Nghiên cứu sử dụng ảnh
Landsat trong giai đoạn 1990-2013 để xác định những đường bờ cơ sở nhằm phân tích những thay
đổi theo không gian và thời gian; đồng thời, nghiên cứu những ảnh hưởng tới hoạt động sử dụng
đất. Kết quả đã chỉ ra rằng điểm sạt lở mạnh nhất nằm trên chi lưu Đăc Bla thuộc địa phận thị xã
Kon Tum với tốc độ trung bình 2,96 m/năm. Đối với chi lưu Pô Kô, tốc độ sạt lở trung bình là 1,31
m/năm và tốc độ bồi tụ trung bình là 1,17 m/năm. Đặt trong bối cảnh biến động sử dụng đất, cách
tiếp cận ước tính biến động này cho phép hỗ trợ đắc lực tới công tác quản lý lãnh thổ và làm sáng
tỏ sự tiến hóa lưu vực sông thông qua mối quan hệ giữa bồi tụ-xói lở.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xác định biến động đường bờ thượng lưu sông Sê San, tỉnh Kontum trên cơ sở phân tích dữ liệu viễn thám đa thời gian
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 102 Original Article Determination of Shoreline Changes along Upstream of Se San River, Kontum Province based Multi-temporal Remote Sensing Data Analysis Pham Thu Thuy1, , Pham Viet Hoa2, Vu Van Tich1, Pham Minh Tam3 1Science and Technology Department, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam 2Ho Chi Minh City Institute of Resources Geography, 01 Mac Dinh Chi, Ho Chi Minh city, Vietnam 3Faculty of Geography, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Ha Noi, Vietnam Received 01 September 2020 Revised 25 September 2020; Accepted 01 October 2020 Abstract: Se San river upstream includes Poko tributary (on the right bank) and Dak Bla tributary (on the left bank), mostly located in Kon Tum province. The process of river sediment decline has dramatic shoreline changes in this area, which becomes a driving-force to modify the current socio- economic development as well as the impact on territorial planning in the future. This study aims to analyze the shoreline changes by extracting multi-temporal satellite imagery of Landsat in the period of 1990-2013 and identify its change effects on land-use. The results show that the strongest erosion rate was -2.96 m/year in Dak Bla tributary (in Kon Tum town). And in the Poko tributary, the average value of erosion rate is -1.31 m/year and the average accretion rate is 1.17 m/year. In the context of dramatic land-use change, this approach allows to support for territorial management and illustrates the accretion-erosion relationship in river basin evolution. Keywords: Se San river basin, shoreline change, multi-temporal remote sensing data. ________ Corresponding author. E-mail address: phamthuthuy@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4673 P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 103 Nghiên cứu xác định biến động đường bờ thượng lưu sông Sê San, tỉnh Kontum trên cơ sở phân tích dữ liệu viễn thám đa thời gian Phạm Thu Thủy1, , Phạm Việt Hòa2, Vũ Văn Tích1, Phạm Minh Tâm3 1Ban Khoa học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam 2Viện Địa lý tài nguyên thành phố Hồ Chí Minh, 01 Mạc Đĩnh Chi, Hồ Chí Minh, Việt Nam 3Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 01 tháng 09 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 01 tháng 10 năm 2020 Tóm tắt: Thượng lưu sông Sê San bao gồm chi lưu Pô Kô (phía hữu ngạn) và Đăk Bla (phía tả ngạn) nằm hầu hết trên địa phận tỉnh Kon Tum. Quá trình suy giảm trầm tích sông đã hình thành những biến động đường bờ tại khu vực này, trở thành động lực làm thay đổi hiện trạng phát triển kinh tế xã hội cũng như tác động tới quy hoạch lãnh thổ trong tương lai. Nghiên cứu sử dụng ảnh Landsat trong giai đoạn 1990-2013 để xác định những đường bờ cơ sở nhằm phân tích những thay đổi theo không gian và thời gian; đồng thời, nghiên cứu những ảnh hưởng tới hoạt động sử dụng đất. Kết quả đã chỉ ra rằng điểm sạt lở mạnh nhất nằm trên chi lưu Đăc Bla thuộc địa phận thị xã Kon Tum với tốc độ trung bình 2,96 m/năm. Đối với chi lưu Pô Kô, tốc độ sạt lở trung bình là 1,31 m/năm và tốc độ bồi tụ trung bình là 1,17 m/năm. Đặt trong bối cảnh biến động sử dụng đất, cách tiếp cận ước tính biến động này cho phép hỗ trợ đắc lực tới công tác quản lý lãnh thổ và làm sáng tỏ sự tiến hóa lưu vực sông thông qua mối quan hệ giữa bồi tụ-xói lở. Từ khóa: lưu vực sông Sê San, biến động đường bờ, dữ liệu viễn thám đa thời gian 1. Mở đầu Đường bờ và quá trình biến động của nó là một đối tượng nghiên cứu của địa lý học, mô tả sự chuyển đổi qua lại của đất liền-dòng chảy thông qua nguyên nhân của sóng, gió, dòng chảy ven bờ và tác động nhân sinh [1]. Những thay đổi của đường bờ đã và đang tác động tới 45-60% cư dân toàn cầu, đặc biệt tại lưu vực các con sông lớn có mức độ tập trung dân cư với mật độ cao [2]. Điều này xuất phát từ đặc trưng biến đổi phức tạp của lòng sông, sự thiếu ổn định về cường độ, thay đổi liên tục cả trong ngắn hạn và dài hạn [3,4]. Những thay đổi về đường bờ đóng ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phamthuthuy@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4673 vai trò quan trọng trong “cấu trúc hóa” môi trường xung quanh cũng như gây ra tổn thất trên các khía cạnh kinh tế-xã hội và môi trường cho cộng đồng [5]. Nhu cầu phát hiện, quan trắc và phân tích những thay đổi của lòng sông là nhiệm vụ quan trọng trong giám sát môi trường, hỗ trợ công tác quản lý lãnh thổ và quy hoạch có liên quan tới lưu vực sông [6]. Đặc biệt, tại các dòng chảy sông suối, các nghiên cứu đường bờ ít được chú ý tới do ưu tiên về hệ sinh thái ven sông [7,8], khan hiếm thông tin dữ liệu bởi sự tốn kém chi phí hoặc sự cản trở của địa hình [9], hay những đòi hỏi tính chi tiết cao của từng đoạn đường bờ [10]. P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 104 Phần lớn các nghiên cứu về biến đổi đường bờ được thực hiện trên cơ sở dữ liệu bản đồ, lập hồ sơ thực địa, khảo sát bằng ảnh hàng không hay LIDAR [11]; tuy nhiên, những kỹ thuật này gặp khó khăn về phạm vi quan trắc [12], thời gian không đảm bảo cho các đánh giá xu hướng dài hạn hay những thay đổi theo mùa [13,14]. Đối với các dữ liệu vệ tinh quang học, sự kết hợp của đặc trưng độ phân giải không gian ở mức trung bình với phạm vi bao phủ không gian lớn, và thời gian quan trắc lặp đi lặp lại thường xuyên cho phép khai thác các thông tin tại các địa điểm khó khăn trong đo đạc [15,16]. Sự phát triển của hệ thống thông tin ảnh vệ tinh trong vài thập niên qua đã cải thiện các thông số của dữ liệu miễn phí, đặc biệt là ảnh Landsat [17]. Ngoài ra, với sự phát triển củ ... đồi núi trọc mở rộng, diện tích lòng sông cũng tăng khoảng 10% so với năm 1990. Từ năm 2009, thủy điện Pleikong đi vào vận hành chính thức, toàn bộ phần diện tích phía trên của vùng nghiên cứu biến thành lòng hồ. Điều này khiến phần lớn diện tích là mặt nước. Bảng 2. Ma trận thống kê biến đổi lớp phủ sử dụng đất trong diện tích lòng sông cực đại khu vực nghiên cứu giai đoạn 1990-2013 Ma trận Diện tích lớp phủ SDĐ năm 2002 (ha) Lòng sông Bãi bồi Đất NN Cây CN Rừng Đất trống D iệ n t íc h lớ p p h ủ S D Đ n ăm 1 9 9 0 ( h a) Lòng sông 708,84 139,5 33,84 0 0 0 Bãi bồi 72,81 4,95 90,54 0 0 64,98 Đất NN 64,98 0 413,91 0 0 43,02 Cây CN 0 0 0 465,48 7,92 40,23 Rừng 46,26 0 535,32 447,57 1.324,08 1.016,73 Đất trống 24,75 0 79,11 0 0 71,64 Ma trận Diện tích lớp phủ SDĐ năm 2013 (ha) Lòng sông Bãi bồi Đất NN Cây CN Rừng Đất trống D iệ n t íc h lớ p p h ủ S D Đ n ăm 2 0 0 2 (h a) Lòng sông 711,72 101,07 67,86 0 0 36,99 Bãi bồi 75,6 50,13 16,47 0 0 2,25 Đất NN 1.089,18 49,68 7,65 0 0 6,21 Cây CN 912,96 0 0 0 0 0,09 Rừng 1.327,95 1,17 0,27 0 0 2,61 Đất trống 1.153,26 0 16,38 0 0 66,96 Để kiểm chứng nguyên nhân của tình trạng biến đổi diện tích lớp phủ sử dụng đất trong mối quan hệ với tình trạng xói lở-bồi tụ ở khu vực, nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực địa vào tháng 4 năm 2013 tại 15 điểm trên đoạn sông Đăk Bla và 10 điểm khảo sát trên đoạn sông Pô Kô nhằm kiểm chứng tính tin cậy cậy của cách tiếp cận. Kết quả cho thấy: (i) trên đoạn sông Đăk Bla, nguyên nhân của xu hướng biến đổi đến từ tác động của các đợt mưa, lũ lớn xảy ra hàng năm trên địa bàn khu vực; cũng như tác động của quá trình quy hoạch và khai thác khoáng sản không đúng mức ở khu vực lòng sông. Qua khảo sát thực địa cũng cho thấy, tình trạng khai thác các khoáng sản (sa khoáng, cát, đá, vàng) trái phép trên sông Đăk Bla diễn ra trong nhiều năm qua khiến cho nhiều đoạn bờ sông bị sạt lở nghiệm trọng. Một số vị trí lòng sông đã bị khai thác vượt độ sâu cho phép, tạo thành những hố sâu vài chục mét, khi lũ kéo cát về lấp đầy hố làm dòng chảy bị thay đổi; (ii) trên đoạn sông Pô Kô, do tác động của quá trình xây dựng và vận hành thủy điện Yaly và thủy điện Pleikrong trên địa bàn của tỉnh Kon Tum. Mưa lớn, cộng với việc hồ thủy điện Pleikrong xả lũ không những làm ngập một diện tích lớn khu vực nghiên cứu đồng thời làm bờ sông liên tục bị sạt lở nghiêm trọng. Ngoài ra, quá trình xây dựng thủy điện còn dẫn tới xu thế chuyển đổi sử dụng đất (từ trồng cây lâu năm sang trồng cây nông nghiệp ngắn ngày hoặc chặt phá rừng lấy gỗ để lại đất trống và đồi núi trọc). Điều này không những làm mất P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 113 đi diện tích rừng đầu nguồn, mà còn khiến các dòng chảy nhanh chóng đổ vào sông khiến mực nước sông dâng cao và gia tăng áp lực lên hai bờ. Kết quả đánh giá hoàn toàn phù hợp với số liệu và hiện trạng biến đổi lớp phủ trên diện tích cực đại lòng sông tại khu vực nghiên cứu. Một số nguyên nhân điển hình được minh họa bằng các ảnh thực địa trong Hình 9. (i) Sạt lở bờ với mức độ mạnh và kéo dài trên sông Đăk Bla (nguồn: ảnh thực địa ngày 12/4/2013). (ii) Khai thác đá, sỏi trên lòng sông Đakbla chảy qua xã Đăk Rơ Wa (nguồn: ảnh thực địa ngày 10/4/2013). (iii) Khai thác cát trên sông Đăk Bla chảy qua xã Chư Reng (nguồn: ảnh thực địa ngày 10/4/2013). (iv) Sạt lở lớn trên đoạn sông Pô Kô khu vực chảy qua xã Krong (nguồn: ảnh thực địa 15/04/2013). Hình 9. Một số nguyên nhân điển hình của quá trình biến đổi đường bờ giai đoạn 1990-2013 được xác định thông qua quá trình khảo sát ngoài thực địa. 4. Kết luận Trên cơ sở tiếp cận định lượng của mô hình DSAS trong môi trường GIS, nghiên cứu đánh giá biến đổi đường bờ thông qua dữ liệu viễn thám đa thời gian trở thành một hướng tiếp cận hiệu quả phục vụ giảm thiểu rủi ro và tổ chức lãnh thổ một cách bền vững. Quá trình định lượng mức độ biến động đường bờ NSM và tốc độ biến đổi đường bờ ERP cung cấp cơ sở khoa học cho những đánh giá biến động đối tượng lớp phủ sử dụng đất trên lòng sông cực đại. Kết quả thống kê dữ liệu đối với lưu vực sông Sê San (trên hai chi lưu Đăk Bla và Pô Kô) đã khẳng định ưu thế về tính chính xác, hiệu quả kinh tế và giảm thiểu những khó khăn trong hoạt động quan trắc biến động ngoài thực địa. Kết quả nghiên cứu biến đổi lòng sông lưu vực thượng lưu sông Sê San cho thấy xu thế tác động ngày càng mạnh lên diện tích sử dụng đất ven bờ giai đoạn 1990-2013 bắt nguồn từ cả nguyên nhân tự nhiên và ảnh hưởng của hoạt động phát triển kinh tế-xã hội tại khu vực. Điều này đã và đang thúc đẩy các tác động tiêu cực tại lãnh thổ ven bờ diễn ra ngày càng mạnh về P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 114 cường độ cũng như tần suất. Và cách tiếp cận này còn mở ra những ứng dụng khác nhau nhằm kế thừa kết quả định lượng không gian của nghiên cứu như dự báo nguy cơ trong tương lai, lượng giá giá trị kinh tế ảnh hưởng bởi quá trình biến đổi đường bờ, phân tích xu thế tiến hóa của cảnh quan, phân tích rủi ro sinh thái,... Do phần diện tích sông cực đại nằm chủ yếu ở khu vực các xã miền núi, với mật độ công trình dân cư thưa thớt, vật liệu xây dựng nhà cửa đa số là thô sơ, đồng thời độ phân giải không gian của dữ liệu ảnh vệ tinh Landsat sử dụng nghiên cứu ở mức trung bình, tính chính xác của nghiên cứu có thể được nâng cao hơn nếu sử dụng ảnh viễn thám đa thời gian có độ phân giải cao hơn. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi đề tài TN3/T16 và TN3/T20 thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Tài liệu tham khảo [1] G. García-Rubio, D. Huntley, P. Russell, Evaluating shoreline identification using optical satellite images, Marine Geology 359 (2015) 96- 106. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2014.11.002. [2] C.B. Boye, K. Appeaning Addo, G. Wiafe, K. Dzigbodi-Adjimah, Spatiotemporal analyses of shoreline change in the Western Region of Ghana, J. Coast. Conserv. Volume 22 Issues 4, 2018, pp. 769–776. [3] S.P. Leatherman, B.C. Douglas, J.L. LaBrecque, Sea level and coastal erosion require large-scale monitoring, EOS Trans. Volume 84 Issues 2, (2003) 13–20. https://doi.org/10.1029/2003EO020001. [4] G. Eman, M. Jehan, G. Douglass, M. Joanne, A. Mostafa, Nile Delta exhibited a spatial reversal in the rates of shoreline retreat on the Rosetta Promontory comparing pre-and post-beach protection, Geomorphology 228 (2015) 1–14. [5] M.R. Muskananfola, Supriharyono, S. Febrianto, Spatio-temporal analysis of shoreline change along the coast of Sayung Demak, Indonesia using Digital Shoreline Analysis System, Regional Studies in Marine Science 34 (2020) 1-9. https://doi.org/10.1016/j.rsma.2020.101060. [6] G. Anfuso, D. Bowman, C. Danese, E. Pranzini, Transect based analysis versus area based analysis to quantify shoreline displacement: spatial resolution issues, Environmental Monitoring and Assessment 188 (2016) 568. https://doi.org/10.1007/s10661-016-5571-1. [7] D.L. Strayer, S.E.G. Findlay, D. Miller, H.M. Malcom, D.T. Fischer, T. Coote, Biodiversity in Hudson River shore zones: influence of shoreline type and physical structure, Aquatic Sciences 74 (2012) 597–610. https://doi.org/10.1007/s00027- 012-0252-9. [8] M. Brabender, M. Weitere, C. Anlanger, M. Brauns, Secondary production and richness of native and non-native macroinvertebrates are driven by human-altered shoreline morphology in a large river, Hydrobiologia 776 (2016) 51-65. https://doi.org/10.1007/s10750-016-2734-6. [9] Md.S. Newaz, R.W. Mackereth, A.U. Mallik, D. McCormick, How much boreal lake shoreline is burned by wildfire? Implications for emulating natural disturbance in riparian forest management, Forest Ecology and Management 473 (2020) 118-283. https://doi.org/10.1016/j.foreco.2020.118283. [10] X. Zhang, Z. Yang, Y. Zhang, Y. Ji, H. Wang, K. Lv, Z. Lu, Spatial and temporal shoreline changes of the southern Yellow River (Huanghe) Delta in 1976–2016, Marine Geology 395 (2018) 188-197. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2017.10.006. [11] B. Yang, C. Hwang, H.K. Cordell, Use of LiDAR shoreline extraction for analyzing revetment rock beach protection: A case study of Jekyll Island State Park, USA, Ocean & Coastal Management 69 (2012) 1-15. https://doi.org/10.1016/j.ocecoaman.2012.06.007. [12] J.B. Campbell, R.H. Wynne, Introduction to Remote Sensing, Fifth edition, Guildford Press, 2011, 607 pages. [13] H. Burningham, J. French, Understanding coastal change using shoreline trend analysis supported by cluster-based segmentation, Geomorphology 282 (2017) 131-149. https://doi.org/10.1016/j.geomorph.2016.12.029. [14] D.E. Reeve, J. Horrillo-Caraballo, H. Karunarathna, S. Pan, A new perspective on meso-scale shoreline dynamics through data-driven analysis, Geomorphology 341 (2019) 169-191. https://doi.org/10.1016/j.geomorph.2019.04.033. [15] J. Almonacid-Caballer, E. Sánchez-García, J.E. Pardo-Pascual, A.A. Balaguer-Beser, J. Palomar- Vázqueza, Evaluation of annual mean shoreline P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 102-115 115 position deduced from Landsat imagery as a mid- term coastal evolution indicator, Marine Geology 372 (2016) 79-88. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2015.12.015. [16] E. Sánchez-Garcíaa, J.M. Palomar-Vázquez, J.E. Pardo-Pascual, J. Almonacid-Caballer, C. Cabezas-Rabadán, L. Gómez-Pujol, An efficient protocol for accurate and massive shoreline definition from mid-resolution satellite imagery, Coastal Engineering 160 (2020) 103732. https://doi.org/10.1016/j.coastaleng.2020.103732. [17] J.E. Pardo-Pascual, J. Almonacid-Caballer, L.A. Ruiz, J. Palomar-Vázquez, Automatic extraction of shorelines from Landsat TM and ETM+ multi- temporal images with subpixel precision Remote Sensing of Environment 123 (2012) 1-11. https://doi.org/10.1016/j.rse.2012.02.024. [18] R. Aedla, G.S. Dwarakish, D.V. Reddy, Automatic Shoreline Detection and Change Detection Analysis of Netravati- GurpurRivermouth Using Histogram Equalization and Adaptive Thresholding Techniques, Aquatic Procedia 4 (2015) 563-570. https://doi.org/10.1016/j.aqpro.2015.02.073. [19] Md.A. Kabir, Md. Salauddin, K.T. Hossain, I.A. Tanim, Md.M.H. Saddam, A.U. Ahmad, Assessing the shoreline dynamics of Hatiya Island of Meghna estuary in Bangladesh using multiband satellite imageries and hydro-meteorological data. Regional Studies in Marine Science 35 (2020) 101167. https://doi.org/10.1016/j.rsma.2020.101167. [20] J. Moussaid, A.A. Fora, B. Zourarah, M. Maanan, M. Maanan, Using automatic computation to analyze the rate of shoreline change on the Kenitra coast, Morocco, Ocean Engineering 102 (2015) pp. 71-77. https://doi.org/10.1016/j.oceaneng.2015.04.044. [21] E.H. Boak, I.L. Turner, Shoreline Definition and Detection: A Review, Journal of Coastal Research 214 (2005) 688-703. https://doi.org/10.2112/03-0071.1. [22] N.Q. Tuan, H.C. Tin, L.Q. Doc, T.A. Tuan, Historical Monitoring of Shoreline Changes in the Cua Dai Estuary, Central Vietnam Using Multi- Temporal Remote Sensing Data, Geosciences 7 (3) (2017) 72. https://doi.org/10.3390/geoscien ces7030072. [23] T.H. Phuong, H.P. Phung, N.T. Hung, H.C. Tri, Assessing the shoreline changes in Tra Vinh province using multi-temporal remote sensing data, Vietnam Journal of Science and Technology 56 (5) (2018) 612-624. https://doi.org/10.15625/2525-2518/56/5/10944. [24] N. Raj, B. Gurugnanam, V. Sudhakar, P.G. Francis, Estuarine shoreline change analysis along The Ennore river mouth, south east coast of India, using digital shoreline analysis system, Geodesy and Geodynamics 10, Issue 3 (2019) 205-212. https://doi.org/10.1016/j.geog.2019.04. 002. [25] J.T. Kelly, S. McSweeney, J. Shulmeister, A.M. Gontz, Bimodal climate control of shoreline change influenced by Interdecadal Pacific Oscillation variability along the Cooloola Sand Mass, Queensland, Australia, Marine Geology 415 (2019) 105971. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2019.105971. [26] R.R. Goforth, S.M. Carman, Multiscale Relationships between Great Lakes Nearshore Fish Communities and Anthropogenic Shoreline Factors, Journal of Great Lakes Research 35 (2) (2009) 215-223. https://doi.org/10.1016/j.jglr.2009.02.001. [27] S. Buckman, M.A. de Alarcon, J. Maigret, Tracing shoreline flooding: Using visualization approaches to inform resilience planning for small Great Lakes communities, Applied Geography 113 (2019) 102097. https://doi.org/10.1016/j.apgeog.2019.102097. [28] W.G. Rees, Physical Principles of Remote Sensing, Third edition, Cambridge University Press, 2013, 492 pages. [29] G. Winasor, S. Budhiman, The Potential Application of Remote Sensing Data for Coastal Study, Proc. 22nd Asian Conference on Remote Sensing, Singapore, 2001. Winar.pdf. [30] J. B. MacQueen, Some Methods for classification and Analysis of Multivariate Observations, Proceedings of 5th Berkeley Symposium on Mathematical Statistics and Probability, Berkeley, University of California Press, 1967, pp. 281-297. https://projecteuclid.org/download/pdf_1/euclid. bsmsp/1200512992. [31] E.R. Thieler, E.A. Himmelstoss, J.L. Zichichi, A. Ergul, The Digital Shoreline Analysis System (DSAS) Version 4.0-an ArcGIS Extension for Calculating Shoreline Change, US Geological Survey Open-File Report, 2009. https://cmgds.marine.usgs.gov/publications/DSA S/of2008-1278.
File đính kèm:
- nghien_cuu_xac_dinh_bien_dong_duong_bo_thuong_luu_song_se_sa.pdf