Nghiên cứu một số đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư tại bệnh viện quân y 103
Mục tiêu: Xác định tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư đang được điềutrị tại
Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm: Tuổi, cân nặng, nồng độ cholesterol,
albumin huyết tương, thời gian mắc ung thư và loại ung thư nguyên phát.
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng có xu hướng cao hơn ở nhóm ngườitrên 50 tuổi nhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,08). Tỷ lệ bệnh nhân suy dinhdưỡng năng lượng không khác
biệt theo sự biến đổi nồng độ cholesterol nhưng có sự khác biệt theo nồng độ albumin và sụt cân, tỷ lệ lần
lượt là 79,49% và 28,18%. Không thấy sự khác biệt thống kê về tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng và thời
gian mắc bệnh (p >0,05). Tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo loại ung thư, hay gặp ở
ung thư thực quản, dạ dày, sau đó là phổi (tỷ lệ lần lượt là 28,57; 25,00; 21,63%).
Kết luận: Tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng có liên quan với nồng độ albumin huyết tương và
khác biệt theo loại ung thư.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu một số đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư tại bệnh viện quân y 103
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 402 NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SUY DINH DƯỠNG NĂNG LƯỢNG Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 TÔ QUANG DUY1, PHẠM NGỌC ĐIỆP2, NGUYỄN NGỌC SÁNG2, VŨ THỊ TRANG2, NGHIÊM THỊ MINH CHÂU3, ĐOÀN THỊ KHUYÊN4 Địa chỉ liên hệ: Tô Quang Duy Email: toquangduyhvqy@gmail.com Ngày nhận bài : 01/10/2020 Ngày phản biện : 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng : 05/11/2020 1 BSNT Ung thư - Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 2 ThS.BS. - Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 3 PGS.TS. Trưởng Bộ môn Ung thư - Trưởng khoa Hóa trị - Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 4 ThS.BS. Binh chủng Hóa học ĐẶT VẤN ĐỀ Suy dinh dưỡng là tình trạng thiếu hụt, dư thừa hay mất cân bằng năng lượng, protein và các chất dinh dưỡng khác gây ra mất hình dạng, làm giảm hoặc mất các chức năng của các mô, đặc biệt cơ[1]. Suy dinh dưỡng năng lượng là sự thiếu hụt năng lượng so với yêu cầu duy trì của cơ thể. Bản thân suy dinh dưỡng năng lượng có thể là bệnh đi kèm, biến chứng thứ phát gây ra nhiều hệ lụy trong điều trị. Các nghiên cứu đã chỉ ra: Suy dinh dưỡng năng lượng có thể gây ra nhiễm trùng thứ phát, giảm tác dụng của thuốc, giảm sức đề kháng của cơ thể, tăng nguy cơ bị nhiễm độc thuốc và chậm hồi phục[1]. Ung thư là bệnh mãn tính gây sự suy yếu nghiêm trọng về sức khỏe của bệnh nhân. Về sinh học, ung thư là sự chiếm đoạt sự sống của khối u. Nhưng về mặt dinh dưỡng, ung thư là bệnh có đặc tính chiếm đoạt chất dinh dưỡng của cơ thể, làm cơ thể bị suy kiệt gầy mòn. Xét về góc độ này, bệnh ung thư có thể là nguyên nhân gây ra sự suy dinh dưỡng năng lượng hoặc sự gầy mòn của cơ thể - Hội chứng tiêu protein. Điều này làm tăng thêm gánh nặng trong điều trị. Sự kết hợp giữa ung thư và suy dinh dưỡng năng lượng làm khó khăn trong tiến trình điều trị của bác sỹ và có thể bệnh nhân phải ngừng điều trị giữa quãng[3].Thống kê cho thấy, nếu bệnh nhân suy dinh dưỡng năng lượng càng nặng thì khả năng thất bại trong điều trị bệnh ung thư càng cao. Bệnh nhân hoặc không đủ điều kiện sức khỏe để tiếp nhận điều trị hoặc nhiễm độc. Có một lượng lớn bệnh nhân ung thư phải ngừng điều trị vì suy dinh dưỡng năng lượng. Trong thực tế lâm sàng, đôi khi các bác sĩ bỏ qua nguy cơ suy dinh TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư đang được điềutrị tại Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm: Tuổi, cân nặng, nồng độ cholesterol, albumin huyết tương, thời gian mắc ung thư và loại ung thư nguyên phát. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng có xu hướng cao hơn ở nhóm ngườitrên 50 tuổi nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,08). Tỷ lệ bệnh nhân suy dinhdưỡng năng lượng không khác biệt theo sự biến đổi nồng độ cholesterol nhưng có sự khác biệt theo nồng độ albumin và sụt cân, tỷ lệ lần lượt là 79,49% và 28,18%. Không thấy sự khác biệt thống kê về tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng và thời gian mắc bệnh (p >0,05). Tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo loại ung thư, hay gặp ở ung thư thực quản, dạ dày, sau đó là phổi (tỷ lệ lần lượt là 28,57; 25,00; 21,63%). Kết luận: Tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng có liên quan với nồng độ albumin huyết tương và khác biệt theo loại ung thư. T khóa: Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 403 dưỡng ở bệnh nhân ung thư[1]. Ngay cả khi nguy cơ suy dinh dưỡng được xác nhận, suy dinh dưỡng nặng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Ngay tại châu Âu một số nghiên cứu cho thấy chỉ có 1 trong 3 bệnh nhân ung thư có suy dinh dưỡng được hỗ trợ dinh dưỡng một cách thích đáng[9], chưa có con số chính thức tại Việt Nam. Xuất phát từ thực tế đó, nhằm xây dựngchế độ dinh dưỡng trước và trong quá trình điều trị cho bệnh nhân ung thư, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư đang đượcđiều trị tại Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu Gồm 157 bệnh nhân ung thư đã được chẩn đoán xác định điều trị tại Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng10/2018 đến tháng 5/2019. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu hoặc đã được chẩn đoán và điều trị ung thư của một số cơ quan: phổi, thực quản, dạ dày, đại tràng, trực tràng Tuổi của bệnh nhân >18, không phân biệt giới tính, thời gian bị bệnh, giai đoạn bệnh. Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân bị ung thư không phải các cơ quan nói trên. Bệnh nhân mới điều trị phẫu thuật < 1 tháng. Đã điều trị máu, huyết tương trong vòng 1 tháng. Mắc các bệnh cấp tính, sốt, nhiễm trùng, đột quỵ não, suy tim cấp tính, xơ gan và các bệnh nội tiết khác đi kèm như basedow, cushing Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu. Các chỉ tiêu nghiên cứu Tuổi, cân nặng, chỉ số sinh hóa: Albumin (g/l) và cholesterol (mmol/lit), thời gian mắc bệnh. Các tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu Bệnh nhân được chẩn đoán suy dinh dưỡng năng lượng khi có từ 3 trong 4 tiêu chuẩn dưới đây[6]. Mỗi nhóm tiêu chuẩn phải có ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn cần thiết của nhóm đó. Tiêu chuẩn sinh hóa Albumin huyết thanh < 38g/l; cholesterol toàn phần < 100mg/dl. Tiêu chuẩn khối cơ thể Chỉ số BMI <23kg/m2 (với người trên 65 tuổi) và 5% trong 3 tháng hoặc >10% trong 6 tháng; tỷ lệ mỡ cơ thể < 10% Tiêu chuẩn khối cơ Giảm khối lượng cơ >5% trong 3 tháng hoặc >10% trong 6 tháng; giảm chu vi vòng đô cánh tay (giảm 10% so với con số lý thuyết trong cộng đồng) tăng creatinin. Tiêu chuẩn dinh dưỡng Lượng proteincung cấp < 0,6g/kg/ngày trong vòng ít nhất 2 tháng gần đây; năng lượng cung cấp < 25kcal/kg/ngày trong vòng ít nhất 2 tháng gần đây. Thực tế trong đề tài hiện khảo sát được một số chỉ tiêu Albumin < 38g/l. Cholesterol toàn phần < 3,9mmol/l. BMI < 22kg/m2 (< 65 tuổi) hoặc < 23kg/m2 (≥65 tuổi). Giảm trọng lượng có thể >5%/ 3 tháng hoặc >10%/ 6 tháng. Chẩn đoán suy dinh dưỡng năng lượng khi có 3 trong 4 tiêu chuẩn nêu trên. KẾTQUẢ VÀ BÀN LUẬN Bảng 1. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và tuổi của bệnh nhân nghiên cứu Nhóm tuổi Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) < 30 0 0 0 31 - 40 3 (75,00) 1 (25,00) 4 (100) 41 - 50 13 (61,90) 8 (38,06) 21 (100) 51 - 60 34 (79,06) 9 (20,93) 43 (100) > 60 72 (80,89) 17 (19,11) 89 (100) p > 0,05 Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng không khác biệt theo tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng gặp nhiều nhất ở nhóm 41 - 50 tuổi (38,06%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Thông thường, tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng có tỷ lệ cao ở người cao tuổi bởi đây là những đối tượng có hiện tượng tăng quá trình dị hóa, có nhiều bệnh lý mạn tính kèm theo, suy giảm chức năng tiêu hóa. Kết quả nghiên cứu của Evans (2005) cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở các bệnh nhân lão khoa nằm viện nói chung là 12 - 50%[4]. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự như kết quả này, tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng ở nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi là 19,14%. Như vậy, tỷ lệ suy Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 404 dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư không có sự khác biệt theo tuổi của bệnh nhân. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do vẫn đề tuổi tác tác động vào tình trạng dinh dưỡng nhiều hơn là vấn đề bệnh lý. Bảng 2. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và nồng độ cholesterol Nồng độ Cholesterol Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) Bình thường 126 (80,77) 30 (19,23) 156 (100) Giảm 0 1 (100) 1 (100) P > 0,05 Định lượng nồng độ cholesterol ở bệnh nhân nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng không khác biệt theo sự biến đổi nồng độ cholesterol (bảng 2). Một trong yếu tố có liên quan mật thiết đến tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng đó là chế độ dinh dưỡng nghèo nàn và các chỉ số dinh dưỡng trong máu giảm thấp. Do đó, tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng có liên quan rõ rệt với nồng độ cholesterol huyết tương. Nồng độ cholesterol càng giảm thấp thì tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng càng cao. Kết quả nghiên cứu này trái ngược với luận điểm mà Zarny (1995), Zhang (2017) chỉ ra: nồng độ cholesterol là một chỉ số hữu ích rất giá trị đánh giá suy dinh dưỡng[10]. Nguyên nhân có thể là do cỡ mẫu còn nhỏ (chỉ có 1 bệnh nhân bị suy giảm nồng độ cholesterol) nên không đủ để thể hiện rõ sự khác biệt. Bảng 3. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và nồng độ albumin Nồng độ Albumin Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) Bình thường 118 (100) 0 118 (100) Giảm 8 (20,51) 31 (79,49) 39 (100) P < 0,01 Bảng 3 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo sự biến đổi nồng độ albumin. Albumin là thành phần quan trọng của protein huyết tương, nó có liên quan mật thiết tới tình trạng dinh dưỡng và cơ bắp của cơ thể. Tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng nói chung có tương quan tỷ lệ nghịch với nồng độ albumin huyết tương, theo đó, nếu nồng độ albumin huyết tương càng thấp thì tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng càng cao và mức độ suy dinh dưỡng năng lượng càng nặng[5]. Điều này càng thể hiện rõ hơn ở bệnh nhân ung thư khi tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng ở bệnh nhân ung thư có giảm albumin huyết tương lên đến 79,49%. Mối liên quan giữa suy dinh dưỡng năng lượng với nồng độ albumin ở bệnh nhân ung thư không chỉ là mối quan hệ nhân - quả đơn thuần theo chiều thuận mà có các mối liên quan theo chiều ngược lại, mang tính đa chiều, phức tạp hơn nữa. Kết quả này có sự phù hợp với luận điểm và kết quả của Forse (1980), Marcason (2017)[5],[7]. Điều này có rất có giá trị tiên lượng trong điều trị. Người ta thấy những bệnh nhân ung thư có chỉ số albumin thấp thì khả năng đáp ứng với điều trị sẽ kém và tỷ lệ tử vong cao hơn[8]. Do đó, tất cả các bệnh nhân có dấu hiệu của suy dinh dưỡng năng lượng, nhất là có nồng độ albumin ở mức thấp, cần được điều trị dinh dưỡng trước tối thiểu 1 tuần hoặc bắt buộc điều trị song hành, để có đáp ứng với các biện pháp điều trị ung thư tốt hơn. Bảng 4. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và cân nặng của bệnh nhân Cân nặng Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) Bình thường 47 (100) 0 47 (100) Giảm 79 (71,82) 31 (28,18) 110 (100) P < 0,01 Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo sự biến đổi cân nặng ở bệnh nhân ung thư (bảng 4): Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng gặp nhiều ở các bệnh nhân ung thư có cân nặng giảm (28,18%). Điều đó có nghĩa là: triệu chứng giảm cân của bệnh nhân ung thư có thể là một dấu hiệu để tiên lượng khả năng suy dinh dưỡng năng lượng của bệnh nhân. Nó có giá trị là một căn cứ giúp đánh giá và tiên lượng hiệu quả điều trị ung thư. Bảng 5. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và thời gian mắc bệnh ung thư Thời gian mắc bệnh Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) < 1 71 (81,60) 16 (18,40) 87 (100) 1- 2 22 (70,96) 9 (29,04) 31 (100) 2 - 3 16 (88,88) 2 (11,12) 18 (100) 3 - 4 7 (70,00) 3 (30,00) 10 (100) 4 - 5 4 (100) 0 4 (100) > 5 5 (71,42) 2 (28,57) 7 (100) P > 0,0,5 Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng không khác biệt theo thời gian mắc bệnh (bảng 5). Về mặt lý thuyết, nếu thời gian mắc bệnh ung thư càng dài thì càng gia tăng nguy cơ bị mất năng lượng, biến chứng ở nhiều Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 405 cơ quan, thể chất tinh thần giảm. Tức là tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng sẽ cao. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại chưa thấy rõ sự khác biệt. Nguyên nhân có thể là do số lượng đối tượng còn hạn chế (chỉ có 4 bệnh nhân ở giai đoạn mắc bệnh 4 - 5 năm) nên chưa làm rõ được sự khác biệt. Bảng 6. Đặc điểm suy dinh dưỡng năng lượng và loại ung thư Loại ung thư Không (n, %) Có (n, %) Tổng (n, %) Phổi 58 (78.37) 16 (21.63) 74 (100) Thực quản 15 (71.43) 6 (28.57) 21 (100) Dạ dày 15 (75,00) 5 (25,00) 20 (100) Đại tràng 22 (88,00) 3 (12,00) 25 (100) Trực tràng 16 (94,11) 1 (5,89) 17 (100) P < 0,05 Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo loại bệnh ung thư, trong đó hay gặp ở ung thư thực quản, dạ dày, sau đó là phổi (tỷ lệ lần lượt là 28,57; 25,00; 21,63%), tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng ít gặp hơn ở ung thư đại tràng, trực tràng (tỷ lệ lần lượt là 12,00; 5,89%) (bảng 6). Kết quả của chúng tôi có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Trang (2014), nhóm đối tượng ung thư đường tiêu hóa có tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng cao nhất ở trên tất cả các chỉ tiêu nghiên cứu[3]. Nguyên nhân có thể là do ung thư thực quản, dạ dày ảnh hưởng đến việc thèm ăn, khả năng nuốt và tiêu hóa của bệnh nhân, phản xạ nôn dễ bị kích thích ở các bệnh nhân này. Do đó, tình trạng suy dinh dưỡng năng lượng điển hình hơn. KẾT LUẬN Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng có xu hướng cao hơn ở nhóm người trên 50. Tuổi nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân suy dinh dưỡng năng lượng không khác biệt theo sự biến đổi nồng độ cholesterol nhưng có sự khác biệt theo nồng độ albumin và cân nặng bệnh nhân. Theo đó tỷ lệ sinh dinh dưỡng năng lượng cao ở bệnh nhân bị giảm nồng độ albumin (79,49%) và sụt cân (28,18%). Chưa thấy sự khác biệt thống kê về tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng và thời gian mắc bệnh (p > 0,05). Tỷ lệ suy dinh dưỡng năng lượng khác biệt theo loại ung thư, hay gặp ở ung thư thực quản, dạ dày, sau đó là phổi (tỷ lệ lần lượt là 28,57; 25,00; 21,63%). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đồng Khắc Hưng (2010), Ung thư học đại cương, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tr. 30 - 55. 2. Nguyễn Minh Thủy (2005), Giáotrình dinh dưỡng người, Mã số: CB320. NXB Đại học Cần Thơ, CầnThơ, tr. 30 - 50. 3. Vũ Thị Trang (2014). Đánh giá tìnhtrạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư tại trung tâm ung bướu và yhọc hạt nhân bệnh viện quân y 103.Báo cáo khoa học Bệnh viện Quân y103, tháng 12/2015. 4. Evans C (20085), Malnutrition in theElderly: A Multfactorial Failure toThrive. Perm J.; 9(3): 38 - 41. 5. Forse RA, Shizgal HM (1980), Serum albumin and nutritionalstatus JPEN J Parenter EnteralNutr.;4(5): 450 - 4. 6. Manuel V (2013), Causes of protein-energy wasting In chronic kidneydisease, Nutritional management ofrenal disease, 3rd edition, Elsevier,pP. 159 - 167 7. Marcason W (2017), ShouldAlbumin and Prealbumin Be Usedas Indicators for Malnutrition? JAcad Nutr Diet.; 117(7): 1144. 8. Moujaess E, Fakhoury M, Assi Tef al (2017), The Therapeutic use ofhuman albumin in cancer - patients'management Crt Rev OncolHematol.; 120: 203 - 209. 9. Planas M, Alvarez-Hernandez J, Leon-Sanz M, (2016), PREDyCES®researchers Prevalence of hospitalmalnutriion ¡in cancer patients: asub- analysis of the PREDyCES®study. SupportL Care Cancer.2016; 24: 429 - 435. 10. Zarny LA, Bernstein LH (19985), Serum Cholesterol: An Indicator ofMalnutrition Jj Ame Die Ass.; 95(9):A25, Supp.Zhang Z, Pereira SL, Luo M(2017), Evaluaton of BloodBiomarkers Associated with Risk ofMalnutrition ¡in Older Adults: ASystematc Review and Meta-Analysis. Nutrients.; 9(8): 829. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 406 SUMMARY Objective: Describing the protein-energy malnutrition status of cancer patientswho aretreated in Military Hospital 103. Methods: Cross - sectional descriptive study. The researchindexes: Age, weight, plasma cholesterol, albumin concentration, cancer period, type of cancer. Results: The rate of protein-energy malnutrition tends to higher in patients with age of over 50but no significance (p > 0.05). The rate of protein - energy malnutrition did not relate to plasmacholesterol concentration but related to plasma albumin concentration and weight loss, with therate of 79,49% và 28,18%, alternatively. We could find out the relation between the rate of protein - energy malnutrition and cancer period (p > 0.05). The rate of protein - energy malnutritionchanged to the type of cancer which the high rate is in esophagus, stomach cancer, is followedby lung cancer (ther rate was 28.57; 25.00; 21.63% alternatively). Conclusion: The status ofprotein - energy malnutrition is relation with plasma albumin concentration and changes to thetype of cancer. Keywords: Protein - energy malnutrition, cancer.
File đính kèm:
- nghien_cuu_mot_so_dac_diem_suy_dinh_duong_nang_luong_o_benh.pdf