Nghiên cứu chế tạo Carbon Aerogel từ giấy phế thải ứng dụng hấp phụ một số kim loại nặng
Bài báo này nghiên cứu khả năng xử lý ion As(V), Pb(II), Mn(II) ô nhiễm trong môi trường nước bằng vật liệu mới, sản xuất từ giấy phế thải. Carbon aerogel được tổng hợp trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp sấy thăng hoa và xử lý nhiệt trong môi trường khí trơ với sự kết hợp của các tác nhân NaOH và ure
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu chế tạo Carbon Aerogel từ giấy phế thải ứng dụng hấp phụ một số kim loại nặng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu chế tạo Carbon Aerogel từ giấy phế thải ứng dụng hấp phụ một số kim loại nặng
Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 229 NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO CARBON AEROGEL TỪ GIẤY PHẾ THẢI ỨNG DỤNG HẤP PHỤ MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG Nguyễn Thị Trang1, Nguyễn Mạnh Tường2, Nguyễn Trần Hùng2 Tóm tắt: Bài báo này nghiên cứu khả năng xử lý ion As(V), Pb(II), Mn(II) ô nhiễm trong môi trường nước bằng vật liệu mới, sản xuất từ giấy phế thải. Carbon aerogel được tổng hợp trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp sấy thăng hoavà xử lý nhiệt trong môi trường khí trơ với sự kết hợp của các tác nhân NaOH và ure, lần lượt chiếm 1.5% (KL) và 14.0% (KL) trong hỗn hợp phản ứng. Carbon aerogel hình thành có cấu trúc xốp và tỉ trọng nhỏ. Cấu trúc của vật liệu được xác định bằng các phương pháp hóa lý hiện đại như: SEM, EDX, IR. Khả năng hấp phụ asen, chì, mangan của vật liệu đã được xác định. Carbon aerogel có dung lượng hấp phụ cực đại tính theo phương trình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir đối với As(V) là 22,2 mg/g, Mn(II) là 28,9 mg/g và Pb(II) là 55,5 mg/g. Từ khóa: Cellulose aergeol, Carbon aerogel, Hấp phụ, Chì, Asen, Mangan. 1. MỞ ĐẦU Vật liệu cellulose aerogel đã được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm và bắt đầu nghiên cứu từ những năm đầu của thế kỉ 21.Các nghiên cứu đầu tiên về vật liệu cellulose aerogel được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Josel Innerlohinger [1] và được công bố vào năm 2006. Năm 2011, Nichlas Tchang Cervin và các cộng sự của mình đã tổng hợp thành công vật liệu hấp phụ dầu từ cellulose aerogel kết hợp với octyltriclorosilane, vật liệu tạo ra có khả năng hấp phụ dầu khá tốt [2]. Gần đây, vào tháng 6 năm 2016 nhóm nghiên cứu của Yue Jiao đã tạo ra vật liệu cellulose aerogel với góc tiếp xúc cao từ 151-155oC có hiệu quả hấp phụ tốt (53-93)g/g cho các dung môi hữu cơ khác nhau và dầu thải. Cellulose aerogel là vật liệu có cấu trúc xốp, bề mặt tiếp xúc rộng [4]. Do đó, sử dụng cellulose aerogel nhằm mục đích hấp phụ ô nhiễm kim loại nặng trong môi trường nước là một hướng nghiên cứu mới và đầy tiềm năng. Mặt khác, aerogel cũng thể hiện khả năng tái hấp phụ tuyệt vời, có thể duy trì hơn 80% hiệu quả hấp phụ ban đầu sau 5 chu kì. Theo các số liệu thống kê, quá trình tiêu thụ giấy đã tạo ra một lượng lớn giấy phế thải, việc này cũng đồng nghĩa với lượng giấy phế thải chiếm 25-40% chất thải rắn đô thị toàn cầu.Tái chế giấy phế thải đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo tồn rừng và giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường.Do đó, tận dụng nguồn giấy phế thải loại, đưa nguồn phế phẩm dân dụng thành sản phẩm có giá trị cao hết sức có ý nghĩa. 2. THỰC NGHIỆM 2.1. Nguyên liệu, thiết bị 2.1.1. Nguyên liệu - Giấy phế thải A4 màu trắng; - Ure, NaOH, ethanol, nước cất. Các hóa chất đều là hóa chất tinh khiết phân tích. 2.1.2. Thiết bị - Thiết bị sấy thăng hoa Freeze Dryer (Scientz 18-N, China); Hóa học & Kỹ thuật môi trường N. T. Trang, N. M. Tường, N. Tr. Hùng, “Nghiên cứu chế tạo một số kim loại nặng.” 230 - Thiết bị siêu âm; - Kính hiển vi điện tử quét (SEM/EDX) JeoJMS 6490; - Thiết bị phân tích XRD: D8 – Advance 5005; - Thiết bị phân tích phổ hồng ngoại FTIR: U-4100 Spectrophotometer; - Cân phân tích độ chính xác 0.001g, các bình nón, pipet, cốc các loại. 2.2 Tổng hợp vật liệu 2.2.1. Chế tạo cellulose aerogel Quy trình tổng hợp cellulose aerogelđược thực hiện như sau: Cân 2g giấy phế thải đã xé nhỏ ngâm vào 80 mlnước cất trong 1h cho mềm. Dùng máy xay, xay nhỏ hỗn hợp đến khi thu được hỗn hợp phân tánđồng nhất. Bổ sung lượng NaOH và ure thích hợp vào cốc chứa giấy đã nghiền trên. Siêu âm hỗn hợp trong 15 phút. Dung dịch được đổ ra khuôn hình trụ dung tích khoảng 50ml và đặt ở nhiệt độ - 180C trong 24h để tạo gel. Gel ướt được lấy ra bỏ vào hộp nhựa, trao đổi dung môi với ethanol. Tiến hành trao đổi dung môi trong 2 ngày, mỗi ngày cần thay dung môi mới 3 lần (8h/lần). Sau đó, các mẫu này lại tiếp tục được ngâm trong nước 2 ngày, mỗi ngày thay nước cất 3 lần. Kiểm tra pH của nước cho tới khi đạt trung tính. Các mẫu gel này được làm lạnh ở nhiệt độ -50oC trong 8h, sấy thăng hoa trong 48h thu được celluloseaerogel. 2.2.2. Chế tạo carbon aerogel Quá trình nhiệt phân cellulose aerogel được tiến hành trong lò ống, tốc độ thổi khí trơ (Ar) 5 lít/phút, trong thời gian 90 phút tại nhiệt độ 800oC vơi tốc độ tăng nhiệt độ là 10oC/phút. Mẫu carbon aerogel được đánh giá hiệu suất thu hồi sản phẩm, cấu trúc vật liệu và hiệu quả xử lý Pb2+ của than sinh học. 2.3. Khảo sát khả năng hấp phụkim loại nặng trong môi trường nước của aerogel cellulose Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ asen, chì, mangan của vật liệu được tiến hành theo phương pháp tĩnh, nồng độ ban đầu của các ion thay đổi, nhiệt độ khảo sát ở 25oC. Nồng độ asen, chì, mangan được xác định bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS). Chúng tôi sử dụng phương trình đẳng nhiệt Langmuir để nghiên cứu quá trình hấp phụ của vật liệu. Phương trình đẳng nhiệt Langmuir có dạng: Trong đó: Q, Qmax: Dung lượng hấp phụ và dung lượng hấp phụ cực đại (mg/g); Ct: Nồng độ dung dịch tại thời điểm cân bằng (mg/l); b: Hệ số của phương trình Langmuir (được xác định từ thực nghiệm). Để xác định các hằng số trong phương trình Langmuir, ta có thể viết phương trình này ở dạng: Từ đường biểu diễn Ct/Q phụ thuộc vào C, ta tính được Qmax = 1/tg . Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 231 3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN 3.1. Khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng ure Hàm lượng ure trong các mẫu thay đổi từ 10-20% (KL). Ở đây, thành phần của NaOH được cố định ở mức 1.5% (KL). Ảnh hưởng của hàm lượng ure tới quá trình chế tạo carbonaerogel được đánh giá thông qua khả năng hấp phụ asen và tỷ trọng của vật liệu.Kết quả được thể hiện ở bảng 1. Bảng 1. Ảnh hưởng của hàm lượng ure tới quá trình chế tạo carbon aerogel. STT Tên mẫu Lượng ure (% KL) Tỷ trọng Dung lượng hấp phụ As(V) mg/g 1 G1-10 1
File đính kèm:
- nghien_cuu_che_tao_carbon_aerogel_tu_giay_phe_thai_ung_dung.pdf