Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm

Trong nghiên cứu này, tro trấu (sau khi hoạt hóa bằng axit HF), được phát hiện như một vật liệu composite tự nhiên (với thành phần hóa học cơ bản gồm cacbon và SiO2), đóng vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả hấp phụ hóa học asen của các hạt nano oxit sắt trên bề mặt của nó. Kết quả thực nghiệm cho thấy vật liệu FexOy/tro trấu có thời gian đạt cân bằng hấp phụ ngắn

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 1

Trang 1

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 2

Trang 2

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 3

Trang 3

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 4

Trang 4

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 5

Trang 5

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 6

Trang 6

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 7

Trang 7

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm trang 8

Trang 8

pdf 8 trang Danh Thịnh 09/01/2024 940
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm

Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 (49) - Thaùng 01/2017 
121 
Tổng hợp vật liệu FexOy/ tro trấu và vai trò 
của chất mang trong hấp phụ Asen từ nước ngầm 
Synthesis of FexOy/activated rice husk ash materials and functional support of 
activated rice husk ash toward Arsenic absorption from ground water 
TS. Nguyễn Trung Thành 
Trường Đại học An Giang 
ThS. Phan Phước Toàn 
Trường Đại học An Giang 
Nguyen Trung Thanh, Ph.D. 
The University of An Giang 
Phan Phuoc Toan, M.Sc. 
The University of An Giang 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, tro trấu (sau khi hoạt hóa bằng axit HF), được phát hiện như một vật liệu 
composite tự nhiên (với thành phần hóa học cơ bản gồm cacbon và SiO2), đóng vai trò quan trọng để 
nâng cao hiệu quả hấp phụ hóa học asen của các hạt nano oxit sắt trên bề mặt của nó. Kết quả thực 
nghiệm cho thấy vật liệu FexOy/tro trấu có thời gian đạt cân bằng hấp phụ ngắn (15 phút) và vật liệu 5 
KL.%(FeCl3)-FexOy/tro trấu cho hiệu quả hấp phụ asen cao gấp 1,2 và 6,3 lần tương ứng so với vật 
liệu 5 KL.%(FeCl3)-FexOy/AC (than hoạt tính) và 20 KL.% FexOy/bentonite (NC-F20) tính trên một đơn 
vị khối lượng sắt. Ngoài ra, vật liệu FexOy/tro trấu (có dung lượng hấp phụ ~14 mgAs/gFe) cũng thể 
hiện tính cạnh tranh cao về hiệu quả hấp phụ asen đối với vật liệu đã có mặt trên thị trường (NC-F20). 
Từ khóa: hấp phụ asen, nano oxit sắt, nước ngầm, tro trấu. 
Abstract 
In this study, rice husk ash (after activation by HF acid), is discovered as a natural composite material 
(including carbon and SiO2 etc.), plays an important role to enhance arsenic chemical absorption of iron 
oxide nanoparticles. The experimental results showed that short time of arsenic absorption equilibrum 
was observed for FexOy/RHA materials (15 minutes); 5 wt.% (FeCl3) loading of FexOy on RHA 
surface proposed very high arsenic adsorption capacity and respectively 1.2, 6.3 folds higher than 
those of 5 wt.% (FeCl3)-FexOy/activated carbon and 20 wt.% (FeCl3)-FexOy/bentonite (NC-F20) 
adsorbents, with calculations basically on the same amount of iron ions. In addition, FexOy/RHA 
material (arsenic adsorption capacity of ~14 mgAs/gFe) also showed highly competitive arsenic 
adsorption to NC-F20 - commercial adsorbent. 
Keywords: arsenic adsorption, iron oxide nanoparticles, groundwater, activated rice husk ash. 
1. Giới thiệu 
Ô nhiễm asen được xem là một vấn đề 
nóng bỏng không những ở các khu vực 
nông thôn mà còn ở các thành phố lớn của 
122 
Việt Nam như Thủ đô Hà Nội và Thành 
phố Hồ Chí Minh [1]. Các ảnh hưởng của 
asen đến sức khỏe con người đã từng được 
ghi nhận như sừng hóa da, ung thư da, tiểu 
đường, v.v... [1, 2]. Do đó, việc loại bỏ 
asen trong nước là rất cần thiết để bảo vệ 
sức khỏe cho người sử dụng. 
Để loại bỏ asen trong môi trường 
nước, các phương pháp xử lý hóa học, hóa 
lý và hóa sinh thường được áp dụng như: 
oxi hóa/kết tủa, đông tụ/kết tủa, điện phân, 
hấp phụ, trao đổi ion, v.v...[3-6]. Trong đó, 
phương pháp hấp phụ được đánh giá cao và 
sử dụng phổ biến để loại bỏ asen; bởi chi 
phí thấp, có khả năng loại bỏ asen ở nồng 
độ cao, chất hấp phụ có thể tái sử dụng 
nhiều lần và ít tạo ra chất độc hại sau quá 
trình xử lý [6, 7]. Tuy nhiên, thời gian cho 
quá trình hấp phụ hóa học asen đạt cân 
bằng được diễn ra rất chậm [5]. Những 
nghiên cứu gần đây cho thấy các vật liệu 
nano trên cơ bản là oxit sắt được gắn trên 
bề mặt chất mang cho hiệu quả hấp phụ 
asen rất tốt [3, 5, 7]. Điều này đòi hỏi chất 
mang phải có diện tích bề mặt lớn và tương 
tác mạnh với các hạt này. Do đó việc chế 
tạo vật liệu tiên tiến trong hấp phụ asen vẫn 
đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà 
khoa học. 
Ở Việt Nam cũng như một số nước có 
nền nông nghiệp phát triển, vỏ trấu thường 
dùng để cung cấp nhiệt lượng cho một số 
ngành công nghiệp khác như sản xuất điện, 
nung gạch, cô đặc đường, v.v... Chính vì 
vậy, một lượng tro trấu khổng lồ được tạo 
ra và việc ô nhiễm môi trường từ tro trấu là 
điều không tránh khỏi. Được biết tro trấu là 
một loại composite tự nhiên giữa cacbon 
và các oxit khác (trong đó SiO2 có tỷ lệ cao 
nhất). Gần đây, việc chế tạo vật liệu hấp 
phụ từ tro trấu bằng phương pháp ăn mòn 
hóa học với axit HF đã được nghiên cứu 
thành công và cho hiệu quả hấp phụ cao 
đối với metyl da cam ở điều kiện pH trung 
tính [8]. Nhận thấy rằng tro trấu sau khi 
hoạt hóa có thể thỏa mãn các yêu cầu cần 
thiết của chất mang như diện tích bề mặt 
riêng lớn (~ 410 m2/g) và có thể tạo ra lực 
liên kết mạnh với oxit sắt bởi oxit silic 
chứa trong tro trấu [9]. Do đó, trong nghiên 
cứu này, tro trấu sau hoạt hóa được thử 
nghiệm với vai trò là chất mang cho các 
hạt oxit sắt với hy vọng tìm ra vật liệu mới 
để loại bỏ asen từ nước ngầm. 
2. Vật liệu và phương pháp 
2.1. Hóa chất 
Axit clohydric xuất xứ Trung Quốc; 
axit flohydric, NaOH, FeCl3.6H2O được 
cung cấp bởi công ty Merck; nước khử ion 
(DI) được sử dụng trong quá trình tổng hợp 
chất hấp phụ. KBr, các dung dịch chuẩn 
asen và sắt (cung cấp bởi công ty Merck) 
được sử dụng trong các phân tích đặc trưng 
của vật liệu và đánh giá hàm lượng asen 
trong các thí nghiệm. Vật liệu NC-F20 (20 
KL.% oxit sắt/Bentonite) được mua từ 
Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Thiết 
bị Khoa học CNT (237/22/10, đường Phạm 
Văn Chiêu, phường 14, quận Gò Vấp, 
thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam). 
2.2. Mẫu nước ngầm 
Mẫu nước ngầm nhiễm asen được lấy 
từ giếng khoan có độ sâu ~ 20 m tại thị trấn 
Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. 
Trước khi phân tích chất lượng nước, các 
yêu cầu lưu trữ đối với mẫu nước ngầm 
được thực hiện theo hướng dẫn của TCVN 
6663-3:2008 (Chất lượng nước-Lấy mẫu-
Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu) và 
TCVN 6663-11:2011 (Chất lượng nước-
Lấy mẫu-Hướng dẫn lấy mẫu nước ngầm). 
Cụ thể là 3 mL dung dịch HNO3 63% cho 
vào các mẫu nước ngầm (1 lít) để đạt pH = 
3 và được bảo quản ở điều kiện 5oC. 
123 
2.3. Tổng hợp vật liệu F ... ền 
qua (TEM). Đặc trưng thành phần hóa học 
bề mặt của các mẫu được thực hiện bằng 
phương pháp quang phổ hồng ngoại 
(FTIR) trên máy Alpha –Bruker. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Các đặc trưng của vật liệu 
FexOy/RHA 
Trong nghiên cứu này, các hạt oxit sắt 
được gắn lên trên bề mặt của RHA bằng 
124 
phương pháp tẩm với các hàm lượng sắt 
tẩm khác nhau. Hình ảnh của các mẫu vật 
liệu được thể hiện trong Hình 1. 
Hình 1. Hình ảnh các mẫu vật liệu, gồm 
có: tro trấu tươi; RHA; 5 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA; 10 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA; 15 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA 
và 20 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA 
Đặc trưng hình học của các mẫu 
FexOy/RHA và FexOy/AC được quan sát 
bằng kính hiển vi điện truyền qua – TEM 
(Hình 2). Kết quả cho thấy các hạt oxit sắt 
đã được gắn lên trên bề mặt của RHA và 
than hoạt tính. Nhìn chung, các hạt oxit sắt 
phân tán đều trên bề mặt các chất mang và 
có kích thước 20÷50 nm; kích thước các 
hạt oxit sắt không có sự khác biệt lớn giữa 
các mẫu trên cả chất mang tro trấu và than 
hoạt tính (dựa vào phổ XRD). Các hạt oxit 
sắt phân tán tốt trên bề mặt RHA. 
Hình 2. Ảnh TEM của vật liệu 5 KL.% 
(FeCl3)-FexOy/RHA (hình A) và 5 KL.% 
(FeCl3)-FexOy/AC (hình B) 
Phổ FTIR của các vật liệu FexOy/RHA 
(Hình 3) cho thấy có sự thay đổi đáng kể 
của các peak ở các vị trí số sóng 630; 1000; 
1188; 1700 cm
-1. Đối với peak ở số sóng 
630 cm
-1
 tương ứng với dao động Fe-O-Fe 
[10] và các peak ở số sóng 1000 và 1188 
cm
-1
 tương ứng với dao động của SiO2 [10] 
được tìm thấy đối với mẫu có nồng độ tẩm 
sắt cao (15 và 20 KL.% (FeCl3)) nhưng 
không thấy đối với các mẫu có nồng độ 
tẩm sắt thấp (0; 5 và 10 KL.% (FeCl3)). 
Điều này cần nhiều kỹ thuật phân tích tiên 
tiến để giải thích vấn đề này. Đối với peak 
ở số sóng 1700 cm-1 tương ứng với dao 
động –OH [11], cường độ peak tăng dần 
tương ứng với hàm lượng sắt (FeCl3) được 
tẩm tăng từ 0  20 KL.% (FeCl3). Điều này 
có thể do quá trình hydroxit hóa của các 
oxit sắt. 
Phổ nhiễu xạ tia X của các vật liệu 
FexOy/RHA (Hình 4) cho thấy các oxit sắt 
trên chất mang RHA thu được là hỗn hợp 
của các oxit sắt (II) và oxit sắt (III). Đồng 
thời, kết quả cũng xác nhận sự tồn tại của 
hợp chất Fe2SiO4 ở vị trí 2θ-32
o 
[12]. Đây 
là một dạng spinel của hỗn hợp hai oxit sắt 
(II) và SiO2. Điều này có thể là các ion sắt 
(III) khuếch tán và thay thế các vị trí silic 
trong nút mạng phân tử (do các nguyên tử 
silic đã phản ứng với HF); và cuối cùng bị 
khử bởi sự đứt gãy liên kết Si-H ở nhiệt độ 
cao. Cường độ peak XRD của Fe2SiO4 (2θ-
32
o) giảm dần khi hàm lượng sắt được tẩm 
càng cao. Các hiện tượng này không được 
tìm thấy đối với mẫu FexOy/cacbon [13]. 
Hình 3. Phổ FTIR của các vật liệu 
FexOy/RHA 
125 
Hình 4. Phổ nhiễu xạ tia-X của RHA và 
FexOy/RHA. Trong đó, SiO2-JCPDS-
No.2:01-089-1668; Fe2O3-JCPDS-No.2:00-
043-1312 và FeO-JCPDS-No.2:01-
0862316 
3.2. Hoạt tính hấp phụ asen của vật liệu 
FexOy/RHA 
3.2.1. Ảnh hưởng của điều kiện pH 
Kết quả (Hình 5) cho thấy rằng vật 
liệu FexOy/RHA có khả năng hấp phụ cao 
đối với các ion asen trong nước ngầm; 
trong đó, khoảng pH cho hiệu quả hấp phụ 
asen cao nhất là 6  9. Điều này rất thuận 
lợi cho quá trình triển khai ứng dụng vật 
liệu FexOy/RHA vào thực tiễn trong quá 
trình xử lý nước nhiễm asen. 
Hình 5. Ảnh hưởng của giá trị pH ban đầu 
đến khả năng hấp phụ asen từ nước ngầm 
(điều kiện thí nghiệm: 50 mg mẫu 15 
KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA, 50 mL nước 
ngầm, thời gian tiếp xúc 30 phút) 
3.2.2. Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc 
Kết quả (Hình 6) cho thấy vật liệu 
FexOy/RHA đạt đến trạng thái cân bằng 
hấp phụ asen trong một khoảng thời gian 
rất ngắn, khoảng 15 phút. Sự tiến nhanh 
đến trạng thái cân bằng có thể là do diện 
tích tiếp xúc lớn giữa các cấu tử asen trong 
nước và tâm hấp phụ trên bề mặt vật liệu; 
điều này có thể đạt được do kích thước 
nano của các oxit sắt và diện tích bề mặt 
riêng lớn của chất mang tro trấu sau quá 
trình hoạt hóa bằng axit HF. Ngoài ra, sự 
tiến nhanh đến trạng thái cân bằng cũng có 
thể do tích điện tích dương trên bề mặt oxit 
sắt, được tạo ra từ tương tác mạnh giữa 
RHA và oxit sắt. 
Hình 6. Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc 
đến khả năng hấp phụ asen từ nước ngầm 
(điều kiện thí nghiệm: 50 mg mẫu 15 
KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA, 50 mL nước 
ngầm, pH  7) 
3.2.3. Ảnh hưởng của hàm lượng 
FeCl3 được tẩm 
Các kết quả (Hình 7) cho thấy khi tính 
trên một đơn vị vật liệu hấp phụ, hoạt tính 
hấp phụ asen tăng dần khi tăng hàm lượng 
FexOy trên bề mặt RHA (từ 0  10 KL.% 
(FeCl3)) nhưng sau đó lại giảm hiệu quả 
hấp phụ asen khi tiếp tục tăng hàm lượng 
FexOy trên bề mặt RHA (từ 15  20 KL.% 
(FeCl3)). Điều này có thể giải thích như 
126 
sau: đối với các mẫu có hàm lượng FexOy 
tẩm thấp thì việc tăng hàm lượng FexOy là 
tương đương với việc tăng số lượng tâm 
hấp phụ asen. Tuy nhiên, đối với các mẫu 
có hàm lượng FexOy tẩm cao thì việc tăng 
hàm lượng FexOy là tương đương với việc 
giảm diện tích tiếp xúc giữa vật liệu và các 
cấu tử asen trong nước ngầm; bởi vì diện 
tích bề mặt riêng của oxit sắt nhỏ hơn diện 
tích bề mặt riêng của chất mang (RHA). 
Do vậy, hoạt tính hấp phụ có thể sắp xếp 
theo thứ tự như sau: 10 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 15 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 20 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 5 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA 
> 0 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA. 
Hình 7. Ảnh hưởng của hàm lượng sắt 
được tẩm đến hoạt tính hấp phụ asen của 
vật liệu FexOy/RHA (điều kiện thí nghiệm: 
10 mg vật liệu, 50 mL nước ngầm, 
thời gian tiếp xúc 15 phút, pH  7) 
Tuy nhiên, khi tính dung lượng As bị 
hấp phụ trên cơ bản một đơn vị khối lượng 
ion sắt thì trật tự hoạt tính hấp phụ As của 
các vật liệu có sự thay đổi nhỏ: 5 KL.% 
(FeCl3)-FexOy/RHA > 10 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 15 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 20 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA. Lưu ý rằng, trong phần này 
vật liệu 0 KL.% (FeCl3)- FexOy/RHA 
không được xét trong dãy thứ tự hoạt tính 
hấp phụ này; bởi vì mẫu vật liệu này là tro 
trấu sau quá trình hoạt hóa (RHA, không 
có oxit sắt trên bề mặt chất mang) và cũng 
được xem là mẫu đối chứng. Sự thay đổi 
trật tự trên có thể là do sự giảm tương tác 
điện tử của chất mang và các hạt nano oxit 
sắt. Quá trình này được hình thành từ lực 
tương tác mạnh giữa oxit trong chất mang 
(SiO2 trong tro trấu) và oxit sắt [14]. Chính 
tương tác giữa SiO2 (chất mang) - FexOy đã 
tích điện dương trên bề mặt các oxit sắt 
(các electron dịch chuyển từ các hạt oxit 
sắt về SiO2 chất mang) như được minh họa 
trong Hình 8. Nhưng lực tương tác giữa 
chất mang oxit và oxit sắt sẽ giảm khi bề 
dầy của lớp oxit sắt (hàm lượng oxit sắt) 
trên bề mặt chất mang tăng. Ngoài ra, mẫu 
2 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA cũng được 
tổng hợp. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra hoạt 
tính hấp phụ asen của mẫu 2 KL.% 
(FeCl3)-FexOy/RHA (không đưa kết quả 
vào báo cáo) cho hiệu quả hấp phụ asen 
thấp hơn so với mẫu 5 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA. Điều này có thể là do số 
lượng tâm sắt hấp phụ asen của mẫu 2 
KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA thấp hơn mẫu 5 
KL.% (FeCl3)- FexOy/RHA. 
Hình 8. Mô tả tương tác mạnh giữa chất 
mang oxit và oxit sắt [15] 
127 
Để thấy được vai trò đặc biệt của chất 
mang RHA và chứng minh vật liệu 
FexOy/RHA có hiệu quả hấp phụ cao đối 
với asen, cạnh tranh đối với các vật liệu 
trên thị trường thì các thí nghiệm đối 
chứng là rất cần thiết. Ở đây, các vật liệu 
FexOy/AC (than hoạt tính) và NC-F20 (20 
KL.% FexOy/Bentonite-Việt Nam) được sử 
dụng vào mục đích này. Các kết quả (Hình 
9) cho thấy vật liệu 5 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ asen cao 
nhất. Điều này có thể giải thích như sau: 
Vật liệu 5 KL.% (FeCl3)-FexOy/AC cho 
hoạt tính thấp hấp phụ asen thấp hơn so với 
5 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA có thể là thiếu 
lực tương tác oxit sắt và chất mang (lực 
tương tác giữa cacbon và kim loại hoặc 
oxit kim loại là rất yếu). Kết quả là không 
làm thay đổi điện tích trên bề mặt oxit sắt. 
Vật liệu NC-F20 (20 KL.% (FeCl3)-
FexOy/Bentonite) cho hoạt tính hấp phụ 
asen thấp nhất, điều này có thể là chất 
mang bentonite thường có diện tích bề mặt 
riêng (< 200 m
2
/g) nhỏ hơn than hoạt tính 
và tro trấu sau hoạt hóa; đồng thời vật liệu 
bentonite được biết là một vật liệu 
alumosilicat được tạo thành bởi hỗn hợp 
oxit silic và oxit nhôm; và có cấu trúc lớp. 
Do đó sự có mặt của oxit nhôm có thể làm 
giảm cường độ rút electron từ oxit sắt về 
chất mang oxit (để giải thích điều này cần 
có những nghiên cứu sâu hơn). 
Ngoài ra, Zhong và cộng sự (2006) đã 
nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano oxit sắt 
và cho thấy vật liệu có khả năng hấp phụ 
7,6 mgAs/gFe [16]. Vì vậy, vật liệu 
FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ asen cao 
hơn so với nano oxit sắt (không có chất 
mang) có thể do hiệu ứng tương tác mạnh 
của chất mang và oxit sắt mang lại. 
Hình 9. So sánh hiệu quả hấp phụ asen của 
oxit sắt trên các chất mang khác nhau 
(điều kiện thí nghiệm: 10 mg vật liệu, 
50 mL nước ngầm, thời gian tiếp xúc 
15 phút, pH  7) 
4. Kết luận 
Chất mang RHA và các vật liệu 
FexOy/RHA đã được tổng hợp thành công 
và cũng được đặc trưng bằng các phân tích 
hiện đại như TEM, SEM, FTIR, XRD. Các 
vật liệu FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ 
cao đối với asen từ nước ngầm; trong đó 
mẫu 5 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA cho hiệu 
quả hấp phụ asen cao nhất khi tính trên cơ 
bản một đơn vị khối lượng ion sắt (~14 
mgAs/gFe). Ở đây, vai trò của RHA (tro 
trấu sau hoạt hóa) đã được thể hiện rõ trong 
việc nâng cao hiệu quả và giảm thời gian 
đạt cân bằng hấp phụ asen (~15 phút); như 
là cung cấp một bề mặt lớn giúp phân bố 
tốt các hạt nano oxit sắt; đóng vai trò một 
chất khử để khử một phần sắt (III) về sắt 
(II); tăng điện tích dương trên bề mặt các 
oxit sắt nhờ vào tương tác mạnh giữa oxit 
sắt và các oxit trong chất mang. Nhìn 
chung, vật liệu FexOy/RHA có thể được 
đánh giá là một dạng vật liệu mới có tính 
cạnh tranh cao đối với vật liệu NC-F20 
thương mại và là một vật liệu hấp phụ đầy 
triển vọng để triển khai áp dụng thực tế./. 
128 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dang Ngoc Chanh, Vu Trong Thien, Dang 
Minh Ngoc và Nguyen Qui Hoa, (2010). 
Investigating Arsenicosis Cases in An Giang 
Province. Journal of Medicine-Ho Chi Minh 
City, 14(2), p. 140-146. 
2. Trần Thị Thanh Hương và Lê Quốc Tuấn 
(2010), “Cơ chế gây độc Asen và khả năng 
giải độc asen của vi sinh vật”, Hội thảo Môi 
trường và Phát triển bền vững, ngày 18-20 
tháng 06 năm 2010, Vườn Quốc gia Côn 
Đảo, tr. 82-92. 
3. Gupta A., M. Yunus and N. 
Sankararamakrishnan, (2013). Chitosan-and 
Iron–Chitosan-Coated Sand Filters: A Cost-
Effective Approach for Enhanced Arsenic 
Removal. Industrial & Engineering 
Chemistry Research, 52(5), p. 2066-2072. 
4. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Chiếm, Huỳnh 
Long Toản và Phan Thanh Thuận (2013), 
“Xử lý nước dưới đất ô nhiễm arsenic qui 
mô hộ gia đình”, Tạp chí Khoa học Trường 
Đại học Cần Thơ, 25(A), tr. 36-43. 
5. Chang-Yan Cao, Jin Qu, Wen-Sheng Yan, 
Jun-Fa Zhu, Zi-Yu Wu, and Wei-Guo Song, 
(2012). Low-Cost Synthesis of Flowerlike 
α-Fe2O3 Nanostructures for Heavy Metal 
Ion Removal: Adsorption Property and 
Mechanism. Langmuir, 28(9), p. 4573-4579. 
6. Nguyễn Trung Thành, Vũ Thị Đan Thanh và 
Phan Phước Toàn (2014), “Giải pháp thích 
hợp để loại bỏ asen trong nước ngầm tại các 
vùng nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Khoa 
học Trường Đại học Cần Thơ, 33(A), 
tr. 101-108. 
7. Addo Ntim, S. and S. Mitra, (2011). 
Removal of Trace Arsenic to Meet Drinking 
Water Standards Using Iron Oxide Coated 
Multiwall Carbon Nanotubes. Journal of 
Chemical & Engineering Data, 56(5), 
p. 2077-2083. 
8. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thùy Trang, 
Lâm Thành Trí, Hồ Nguyễn Thy Thy và Lê 
Ngọc Hăng (2010), “Nghiên cứu ứng dụng 
tro trấu từ lò đốt gạch thủ công làm chất hấp 
phụ metyl da cam”, Hội thảo quốc tế Giáo 
dục và Môi trường. Đại học Hoa Sen và Đại 
học An Giang. 
9. Phan Phước Toàn, Nguyễn Trung Thành và 
Ngô Thụy Diễm Trang, (2016), “Đặc trưng 
và khả năng hấp phụ metyl da cam của tro 
trấu hoạt hóa”, Tạp chí Khoa học Trường 
Đại học Cần Thơ, 42(A), tr. 50-57. 
10. Shen M., Cai H., Wang X., Cao X., Li K., 
Wang S.H., Guo R., Zheng L., Zhang G., and 
Shi X., (2012). Facile One-Pot Preparation, 
Surface Functionalization, and Toxicity Assay 
of APTS-Coated Iron Oxide Nanoparticles. 
Nanotechnology, 23(10), p. 105601. 
11. Sharma G. and P. Jeevanandam, (2013). 
Synthesis of Self-Assembled Prismatic Iron 
Oxide Nanoparticles by a Novel Thermal 
Decomposition Route. RSC Advances (Royal 
Society of Chenmistry), 3(1), p. 189-200. 
12. Chanéac C., E. Tronc and J.P. Jolivet, 
(1995). Thermal Behavior of Spinel Iron 
Oxide-Silica Composites. Nanostructured 
Materials, 6(5–8), p. 715-718. 
13. Longlong Geng, Xiuyan Zhang, Wenxiang 
Zhang, Mingjun Jiaa and Gang Liu, (2014). 
Highly Dispersed Iron Oxides on Mesoporous 
Carbon for Selective Oxidation of Benzyl 
Alcohol with Molecular Oxygen. Chemical 
Communications, 50(22), p. 2965-2967. 
14. Carl R. F. Lund and J. A. Dumesic, (1981). 
Strong Oxide-Oxide Interactions in Silica-
Supported Magnetite Catalysts. 1. X-ray 
Diffraction and Miissbauer Spectroscopy 
Evidence for Interaction. The Journal of 
Physical Chemistty, 85(21), p. 3175-3180. 
15. Francesco Arena, Giorgio Gatti, Gianmario 
Martra, Salvatore Coluccia, Lorenzo 
Stievano, Lorenzo Spadaro, Pio Famulari, 
Adolfo Parmaliana, (2005). Structure and 
Reactivity in The Selective Oxidation of 
Methane to Formaldehyde of Low-Loaded 
FeOx/SiO2 Catalysts. Journal of Catalysis, 
231, p. 365-380. 
16. Zhong L.S., J.S. Hu, H.P. Liang, A.M. Cao, 
W.G. Song and L.J. Wan, (2006). Self-
Assembled 3D Flowerlike Iron Oxide 
Nanostructures and Their Application in 
Water Treatment. Advanced Materials, 
18(18), p. 2426-2431. 
Ngày nhận bài: 18/10/2016 Biên tập xong: 15/01/2017 Duyệt đăng: 20/01/2017 

File đính kèm:

  • pdftong_hop_vat_lieu_fexoy_tro_trau_va_vai_tro_cua_chat_mang_tr.pdf