Năng lực sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh năm 2020
Mục tiêu: Xác định điểm số năng lực sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung
thứ vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020.
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành phỏng vấn trực tiếp trên 213 bệnh
nhân đang điều trị ung thư vú nguyên phát tại khoa Nội IV, Xạ IV, Ngoại IV tại bệnh viện Ung Bướu Thành
phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú
là 109,9 ± 14,0 điểm. Trình độ học vấn và nghề nghiệp liên quan có ý nghĩa thống kê với năng lực nhận
thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú (với giá trị p lần lượt là p = 0,019 và p = 0,036). Cụ thể, những bệnh
nhân có học vấn từ cấp III trở lên có điểm năng lực nhận thức SKTT cao hơn những bệnh nhân có trình
độ từ cấp I trở xuống 6,75 điểm. Với nghề nghiệp, bệnh nhân làm công việc tự do (nông dân, buôn
bán, ) có điểm số năng lực nhận thức SKTT thấp hơn 4,39 điểm so với những bệnh nhân làm nội trợ,
nghỉ hưu hoặc thất nghiệp. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của đối tượng nghiên cứu là
32,1 ± 6,1.
Kết luận: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú là
109,9 ±14,0 điểm. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp sức khỏe tâm thần của đối tượng nghiên
cứu là 32,1 ± 6,1.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng lực sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh năm 2020
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 494 NĂNG LỰC SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2020 ĐỖ THỊ HÀ1, PHẠM NHẬT TUẤN2, KIM XUÂN LOAN2 Địa chỉ liên hệ: Đỗ Thị Hà Email: hadothi1998@gmail.com Ngày nhận bài: 07/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 CN. Y tế công cộng, Khoa Y tế Công cộng - Đại học Y Dược TP. HCM 2 ThS. Giảng viên Đại học Y Dược TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, ung thư vú là dạng ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ tại nhiều quốc gia trên thế giới[20]. Theo thống kê của Globocan, trong năm 2018 thế giới có hơn 2 triệu người mắc, chiếm 11,6% tổng số ca mắc ung thư nói chung và hơn 600000 ca tử vong[8]. So sánh giữa các khu vực, Châu Á là nơi có số mắc và tử vong do ung thư vú cao nhất thế giới với tổng cộng 911 014 ca mắc và 310 577 ca tử vong[8]. Tại Việt Nam, số ca mắc ung thư vú chiếm 9,2% tổng số các loại ung thư và là dạng ung thư phổ biến nhất ở nữ giới[4,8]. Mỗi năm, cả nước ta ghi nhận hơn 15 000 ca ung thư vú mới và ước tính có khoảng 45.000 phụ nữ Việt đang sống chung với căn bệnh này với hơn 6000 ca tử vong[3,4]. Trong quá trình điều trị ung thư vú, nhiều người bệnh gặp phải những vấn đề tâm lý như trầm cảm, rối loạn lo âu[11]. Theo một số nghiên cứu thực hiện tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú mắc trầm cảm dao động từ 16 - 20%[4,5]. Những vấn đề tâm lý này không chỉ làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, mà còn gây suy giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân[21,22]. Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn chưa được quan tâm đúng mực bởi nhiều lí do[16]. Việc trì hoãn điều trị sẽ càng khiến cho những rối loạn tâm lý trở nên trầm trọng hơn. Để tìm được những hỗ trợ tâm lý thích hợp, bệnh nhân cần phải biết và hiểu để nhận diện và tìm đến giúp đỡ nếu bản thân gặp phải những vấn đề về sức khỏe tâm thần[84]. Thuật ngữ Năng lực sức khỏe tâm thần (NLSKTT) từ đó được đề ra và định nghĩa TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định điểm số năng lực sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thứ vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành phỏng vấn trực tiếp trên 213 bệnh nhân đang điều trị ung thư vú nguyên phát tại khoa Nội IV, Xạ IV, Ngoại IV tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ± 14,0 điểm. Trình độ học vấn và nghề nghiệp liên quan có ý nghĩa thống kê với năng lực nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú (với giá trị p lần lượt là p = 0,019 và p = 0,036). Cụ thể, những bệnh nhân có học vấn từ cấp III trở lên có điểm năng lực nhận thức SKTT cao hơn những bệnh nhân có trình độ từ cấp I trở xuống 6,75 điểm. Với nghề nghiệp, bệnh nhân làm công việc tự do (nông dân, buôn bán,) có điểm số năng lực nhận thức SKTT thấp hơn 4,39 điểm so với những bệnh nhân làm nội trợ, nghỉ hưu hoặc thất nghiệp. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của đối tượng nghiên cứu là 32,1 ± 6,1. Kết luận: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ±14,0 điểm. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp sức khỏe tâm thần của đối tượng nghiên cứu là 32,1 ± 6,1. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 495 là “kiến thức và niềm tin về các rối loạn tâm thần giúp một người nhận ra, quản lý và phòng ngừa chúng”[10]. Việc có kiến thức về vấn đề sức khỏe tâm thần không chỉ giúp bệnh nhân tìm được hỗ trợ thích hợp cho việc điều trị tâm lý từ đó cải thiện hiệu quả điều trị ung thư, nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp đỡ những người xung quanh từ đó góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng[6,7]. Tại Việt Nam, NLSKTT vẫn là một chủ đề mới mẻ và chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá, đặc biệt là trên bệnh nhân ung thư vú - những người cần được quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe tinh thần bên cạnh việc điều trị bệnh để phục hồi về thể chất. Do đó, thông qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu và đánh giá năng lực nhận thức cũng như năng lực tìm kiếm trợ giúp về sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định điểm số trung bình NLSKTT (bao gồm điểm trung bình của năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần và năng lực tìm kiếm trợ giúp sức khỏe tâm thần) và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Cỡ mẫu của nghiên cứu là 213 bệnh nhân. Những bệnh nhân nữ đủ 18 tuổi trở lên đang điều trị ung thư vú nội trú và ngoại trú tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM và đồng ý tham gia nghiên cứu được chọn vào nghiên cứu. Đối với những bệnh nhân mắc các khuyết tật gây khó khăn trong giao tiếp và đang trong tình trạng sức khỏe yếu không thể trả lời bộ câu hỏi sẽ không tham gia khảo sát. Phương pháp thu thập số liệu Nghiên cứu viên sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt dựa trên bộ câu hỏi cấu trúc soạn sẵn. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi bao gồm 4 phần: A - Đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội bao gồm tuổi, nơi ở hiện tại, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hiện tại, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, người đang sống chung và tình trạng kinh tế; B - Đặc điểm tình trạng bệnh: Khoa điều trị, hình thức điều trị, giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, tiền sử bản thân mắc được chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần, tiền sử thành viên gia đình được chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần; C - Năng lực nhận thức SKTT (thang đo Mental Health Literacy Scale); D - Năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT (thang đo General Help-Seeking Questionaire). Phương pháp quản lý số liệu Ngh ... p đỡ từ bất kì ai 3,3 2,2 10 Tìm giúp đỡ từ nguồn khác 1,0 ± 0,3 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 497 Khi được hỏi nếu bản thân gặp phải những vấn đề về cảm xúc hoặc tâm lý, đa số bệnh nhân trả lời sẽ chia sẻ với bạn bè (61,1%), người thân trong gia đình như con cái, anh chị em, (59,1%), chồng (55,9%). Có 36,2% sẽ tìm đến lãnh đạo tôn giáo; 10,8% sẽ gọi đường dây nóng hỗ trợ; 31,5% sẽ không tìm kiếm bất kì nguồn hỗ trợ nào. Điểm số năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu dao động từ 16 - 51 điểm. Điểm trung bình của thang đo là 32,1 ± 6,1 điểm. Bảng 3. Mối liên quan giữa năng lực nhận thức SKTT với các yếu tố (n = 213) Đặc tính Hệ số Giá trị p KTC 95% Nhóm tuổi 18 - 39 tuổi 1 40 - 49 tuổi 4,67 0,132 (- 1,42) - 10,77 50 - 59 tuổi - 1,57 0,617 (- 7,75) - 4,61 60 tuổi 0,96 0,792 (- 6,23) - 8,16 Trình độ học vấn ≤ Cấp I 1 Cấp II 4,32 0,057 (- 0,14) - 8,77 Cấp III 6,75 0,019 1,12 - 12,38 Nghề nghiệp Tại nhà 1 Tự do - 4,39 0,036 (- 8,49) - (- 0,29) Cơ quan 1,68 0,575 (- 4,21) - 7,56 Tình trạng kinh tế Đủ sống 1 Không đủ sống - 1,52 0,465 (- 5,61) - 2,57 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trình độ học vấn và nghề nghiệp với năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần. Cụ thể, những bệnh nhân học từ cấp III trở lên có điểm năng lực nhận thức SKTT cao hơn những bệnh nhân có học vấn từ cấp I trở xuống 6,75 điểm với p = 0,019 (KTC 95%: 1,14 - 12,42). Bệnh nhân làm nghề tự do (nông dân, buôn bán, làm thuê,) có điểm năng lực SKTT thấp hơn những bệnh nhân làm việc tại nhà (nội trợ, nghỉ hưu, thất nghiệp) 4,39 điểm với p = 0,036 (KTC 95%: (- 8,51) - (- 0,29)). BÀN LUẬN Phần lớn bệnh nhân nhận diện được rối loạn lo âu (81,2%), trầm cảm (58,2%) và trầm cảm mãn tính (55,8%); hơn 50% không nhận diện được ám sợ xã hội, rối loạn nhân cách, ám sợ nơi đông người và rối loạn lưỡng cực. Trong nghiên cứu của Cheung (2015), chỉ có 35,2% bệnh nhân nhận biết được dấu hiệu của rối loạn lo âu và 48,1% nhận diện được trầm cảm[921]. Trong nghiên cứu cắt ngang của Okuyama, chỉ có 11% bệnh nhân nhận biết được triệu chứng của trầm cảm[14]. Nhìn chung, khả năng nhận diện các rối loạn tâm lý của đối tượng nghiên cứu chỉ ở mức trung bình. Các vấn đề như rối loạn lo lâu, trầm cảm có thể được nghe nói đến nhiều từ các phương tiện truyền thông nên bệnh nhân tương đối có nhận thức về chủ đề này, nhưng với những vấn đề sức khỏe tâm thần khác như rối loạn lưỡng cực, rối loạn nhân cách, đều là các dạng rối loạn ít được biết hơn. Hơn 60% bệnh nhân chắc chắn “phụ nữ có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần cao hơn nam giới”. Dựa vào kết quả từ các nghiên cứu trên thế giới cho thấy phụ nữ thường dễ mắc rối loạn lo âu lan tỏa[1,12], trầm cảm[2,17] và nhiều dạng rối loạn tinh thần khác[15] hơn nam giới. Khả năng nhận biết các nguy cơ và nguyên nhân gây ra rối loạn tâm lý của bệnh nhân tham gia nghiên cứu ở mức cao. Hầu hết bệnh nhân chắc chắn rằng liệu pháp nhận thức hành vi mang lại hiệu quả trong trị liệu SKTT. Có thể thấy, mặc dù “liệu pháp nhận thức hành vi” là khái niệm mới và ít phổ biến nhưng tỷ lệ bệnh nhân đồng ý rằng đây là phương pháp hiệu quả vẫn rất cao do đây là phương pháp được Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 498 chuyên gia - những người có chuyên môn và uy tín chỉ định. Đa số bệnh nhân đều đồng ý cải thiện chất lượng giấc ngủ sẽ có lợi cho người gặp khó khăn trong kiểm soát cảm xúc. Giấc ngủ có vai trò quan trọng lên sức khỏe, cảm xúc có thể là điều mà hầu hết bệnh nhân nhận thấy. Tuy nhiên với điểm trung bình là 5,3 ± 0,7, kiến thức về tự điều trị của đối tượng nghiên cứu nằm ở mức thấp. Hơn một nửa số bệnh nhân được hỏi không biết các nguồn thông tin về bệnh tâm thần; hơn 60% không thể sử dụng điện thoại thông minh, máy tính hoặc đến gặp chuyên gia tâm lý để tìm kiếm thông tin. Bệnh nhân đa số đều lớn tuổi và trình độ học vấn không cao nên có thể hạn chế khả năng sử dụng điện thoại, máy tính để tìm thông tin. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một điểm đáng lưu ý là bệnh nhân cho rằng việc tìm gặp chuyên gia tâm lý để tìm hiểu thông tin cũng có thể được xem là không cần thiết. Điều này có thể do hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam chưa được phát triển hoặc vai trò hỗ trợ của chuyên gia tâm lý chưa được biết đến nhiều bởi bệnh nhân. Hơn 90% đồng tình về việc bệnh tâm thần do chuyên gia SKTT điều trị có mang lại hiệu quả. Nhưng chỉ 41,3% người cho rằng sẽ tìm đến chuyên gia nếu gặp vấn đề SKTT. Phần lớn bệnh nhân sẽ sẵn sàng kết bạn, làm việc hoặc sống chung với người có vấn đề về SKTT. Điểm trung bình thái độ trong hành vi tìm kiếm trợ giúp ở mức cao. Với điểm trung bình là 109,9 ± 14,0, năng lực nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú tham gia nghiên cứu ở mức trung bình. Kết quả này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Cheung đánh giá NLSKTT trên 54 bệnh nhân ung thư vú[21]. Bên cạnh đó, hai nghiên cứu khác khảo sát trên bệnh nhân mắc các loại ung thư khác cũng tại Singapore và Nhật Bản đều có chung kết luận là NLSKTT của bệnh nhân ung thư còn thấp[14,15]. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả không sử dụng cùng thang đo đánh giá NLSKTT với tác giả Cheung, còn hai nghiên cứu tai Nhật và Singapore lại không đánh giá trên cùng đối tượng là bệnh nhân ung thư vú nên việc so sánh kết quả giữa các nghiên cứu còn khá nhiều hạn chế. Về năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT, 61,1% bệnh nhân cho rằng sẽ tìm đến bạn bè, 59,1% tìm đến người thân trong gia đình hoặc chồng (55,9%) để được giúp đỡ nếu gặp vấn đề về tâm lý. Cũng có đến 54,5% người cho rằng tìm đến bác sĩ đang điều trị ung thư cho mình để được hỗ trợ. Điều này tương đồng với nghiên cứu của tác giả Cheung khi kết quả cho thấy bệnh nhân nghĩ rằng gia đình là nguồn trợ giúp tốt nhất nếu bản thân có vấn đề về SKTT, tiếp đến là bác sĩ điều trị ung thư và bạn bè[21]. Trong nghiên cứu của tác giả Okuyama, tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Cụ thể, lần lượt có 84% và 86% đối tượng đánh giá gia đình và bác sĩ điều trị ung thư là nguồn trợ giúp có ích, 56% đối tượng sẽ tìm đến bạn bè để giải quyết vấn đề SKTT[14]. Bạn bè thường là những người đang cùng điều trị ung thư tại bệnh viện, do đó bệnh nhân đồng cảm và chia sẻ với nhau nhiều hơn so với những nguồn trợ giúp khác. Ngoài ra, trong một số nghiên cứu, bệnh nhân cho rằng các phương pháp điều trị tâm lý của chuyên gia tâm lý sẽ không mang lại hiệu quả như hỗ trợ từ người thân, bạn bè[14,21]. Ngoài ra, những định kiến xã hội về bệnh tâm thần cũng như về việc một người phải cần đến sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý đã khiến cho bệnh nhân không muốn sự giúp đỡ từ nguồn này[16]. Nhìn chung, với điểm trung bình là 32,1 ± 6,1, năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu ở mức thấp. Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa trình độ học vấn và năng lực nhận thức SKTT có ý nghĩa thống kê với p = 0,019. Những bệnh nhân học cấp I và cấp II có điểm NLSKTT thấp hơn bệnh nhân học cấp III và đại học. Điều này tương đồng với nghiên cứu tại Singapore năm 2019 và Nhật Bản năm 2007 với giá trị p lần lượt là p = 0,001 và p < 0,001[14,15]. Đây cũng là yếu tố có tác động mạnh mẽ được nhiều nghiên cứu khác nhau khác nhau công nhận[13,18]. Người có học vấn càng cao thì có nhiều kiến thức và hiểu biết về SKTT hơn cũng như có kiến thức tìm kiếm trợ giúp tốt hơn so với bệnh nhân có học vấn thấp[15]. Những bệnh nhân làm công việc tự do như nông dân, buôn bán, làm thuê, có điểm trung bình nhận thức SKTT thấp hơn 4,39 điểm so với bệnh nhân làm việc tại nhà (nội trợ, nghỉ hưu,) (p = 0,036). Nghiên cứu của Poon cũng thể hiện mối liên quan giữa nghề nghiệp với năng lực nhận thức SKTT (p = 0,004)[15]. Trong nghiên cứu này, những bệnh nhân làm công việc tại nhà có trình độ học vấn cao hơn bệnh nhân làm công việc tự do, mà trình độ học vấn có tác động đến khả năng nhận biết SKTT do đó có thể chính yếu tố này đã dẫn đến sự khác biệt giữa hai nhóm nghề nghiệp trên. KẾT LUẬN Điểm trung bình năng lực nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ± 14,0 điểm (mức trung bình). Trình độ học vấn và nghề nghiệp liên quan có ý nghĩa thống kê với năng lực nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú. Điểm trung bình Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 499 năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của đối tượng nghiên cứu là 32,1 ± 6,1 (mức thấp). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Asher, M., Aderka, I. M, (2018): Gender differences in social anxiety disorder, Journal of Clinical Psychology, 74(10): 1730 - 1741; 2. Bandelow B, Schüller K. (2019): Age and gender distribution of patients with major mental disorders participating in clinical trials, Eur Arch Psychiatry Clin Neurosci; 3. Bệnh viện K (2018), Giám đốc bệnh viện K khuyến cáo chị em phụ nữ nên tầm soát ung thư vú ở tuổi 40, benh-vien-k-khuyen-cao-chi-em-phu-nu-nen- tam-soat-ung-thu-vu-o-tuoi-40-nd36099.html; 4. Bộ Y tế (2018), Điểm tin Y tế, https://www.moh.gov.vn/diem-tin-y-te/- /asset_publisher/sqTagDPp4aRX/content/-iem- tin-y-te-ngay-24-9-2018; 5. Đặng Thị Thu Trang (2014): Tương quan giữa nhận thức về sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ thông, Luận văn thạc sỹ tâm lí học, Đại học Giáo Dục, Đại Học Quốc Gia Hà Nội; 6. Farrer L, Leach L, Griffiths KM, Christensen H, Jorm AF (2008): Age differences in mental health literacy, BMC Public Health, 20(8): 125; 7. Ferlay J, Steliarova-Foucher E, Lortet-Tieulent J, et al (2013): Cancer incidence andmortality patterns in Europe: estimates for 40 countries in 2012, Europe Journal of Cancer, 49: 1374 - 403; 8. Globocan (2018), Breast: Fact sheet, 0-Breast-fact-sheet.pdf; 9. Globocan (2018), Viet Nam – Fact sheet, https://gco.iarc.fr/today/data/factsheets/populatio ns/704-viet-nam-fact-sheets.pdf; 10. Jorm, A. F. (2012): Mental health literacy: Empowering the community to take action for better mental health, American Psychologist, 67(3): 231 - 243; 11. Maass, S. W. M. C., Roorda, C.(2015): The prevalence of long-term symptoms of depression and anxiety after breast cancer treatment: A systematic review, Maturitas, 82 (1):100–108; 12. MacKenzie, M. B., & Fowler, K. F.(2013): Social anxiety disorder in the Canadian population: Exploring gender differences in sociodemographic profile, Journal of Anxiety Disorders, 27(4): 427 - 434; 13. Niemeyer H, Bieda A, Michalak J, Schneider S, Margraf J (2019): Education and mental health: Do psychosocial resources matter?, SSM Population Health, 8:7; 14. Okuyama, T., Nakane, Y., Endo, C., Seto, T.(2007): Mental health literacy in Japanese cancer patients: ability to recognize depression and preferences of treatments - comparison with Japanese lay public, Psycho-Oncology, 16(9): 834 - 842; 15. Poon SH, Wang FQ, Goh J, Chan YH, Lim L (2019): Mental Health Literacy in Cancer Outpatients in Singapore”, East Asian Arch Psychiatry, 29(3): 91 - 94; 16. Reavley NJ, Jorm AF (2011): Stigmatizing attitudes towards people with mental disorders: findings from an Australian national survey of mental health literacy and stigma, Aust N Z J Psychiatr, 45:1086 - 1093; 17. Serpytis P, Navickas P, Lukaviciute L, et al. (2011): Gender-Based Differences in Anxiety and Depression Following Acute Myocardial Infarction”, Arq Bras Cardiol., 111(5): 676 - 683; 18. Tsaras K, Papathanasiou, Mitsi D, Veneti A, et al (2018): Assessment of Depression and Anxiety in Breast Cancer Patients: Prevalence and Associated Factors”, Asian Pacific Journal of Cancer Prevention, 19(6): 1661 - 1669; 19. Waldmann, T., Staiger, T.(2019): Mental health literacy and help-seeking among unemployed people with mental health problems, Journal of Mental Health, 9: 1 - 7; 20. WHO (2019), Cancer, https://www.who.int/health- topics/cancer#tab=tab_1; 21. Yin Ting Cheung, Ying Ying Ong, et al (2015): Assessment of mental health literacy in patients with breast cancer, J Oncol Pharm Practice, 0(0):1 - 11 22. Zhuang, X. Y., Wong, D. F. K., Cheng, C.-W., & Pan, S.-M. (2017): Mental health literacy, stigma and perception of causation of mental illness among Chinese people in Taiwan, International Journal of Social Psychiatry, 63(6):498 - 507 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 500 ABSTRACT Objectives: To assess the mean score of cancer patients' mental health literacy in Ho Chi Minh Oncology Hospital in 2020 and its associations. Method: This cross-sectional study was designed to interview at least 213 cancer patients undergoing treatment in the Internal Medicine Department IV, Department of Radiology IV, and Surgical Department IV in Ho Chi Minh Oncology Hospital. Result: Mean score of mental health literacy of cancer patients in the Oncology hospital was 109,9 ± 14,0. The education level and occupation of patients had significant statistical relationships with mental health literacy (p = 0,019 and p = 0,036, respectively). Patients whose educational level was high school had 6,75 points more than ones with elementary school level and lower. Patients working as farmers, selling,... had 4,39 points more than others that were housewives, retired, and unemployed. Mean score of mental health help- seeking of cancer patients was 32,1 ± 6,1. Conclusion: Mean score of mental health literacy of cancer patients in the Oncology hospital was 109,9 ± 14,0. The mean score of mental health help-seeking of cancer patients was 32,1 ± 6,1.
File đính kèm:
- nang_luc_suc_khoe_tam_than_cua_benh_nhan_ung_thu_vu_tai_benh.pdf