Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh qua việc sử dụng truyền thông và công nghệ thông tin trong thời đại công nghiệp 4.0
Trong quá trình học tiếng Anh, vì sinh viên chưa khai thác triệt để các phương
tiện, thiết bị truyền thông và công nghệ thông tin để tự học, nên gặp nhiều khó khăn trước
yêu cầu thực tiễn ở nhiều phương diện. Do đó, việc giúp sinh viên tiếp cận và sử dụng tốt
các công cụ trên để nâng cao chất lượng của việc tự học tiếng Anh là một đòi hỏi bức thiết.
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với khảo sát để tìm hiểu
và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Từ đó, tác giả thống kê kết quả và đưa ra những đánh
giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong khả năng tự học tiếng Anh cho người học
thông qua việc sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin (CCTT và CNTT)
hỗ trợ trong thời đại mới - thời đại công nghiệp 4.0
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh qua việc sử dụng truyền thông và công nghệ thông tin trong thời đại công nghiệp 4.0
Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 1 NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ HỌC TIẾNG ANH QUA VIỆC SỬ DỤNG TRUYỀN THÔNG VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP 4.0 Nguyễn Vũ Thanh Tuyền* Trường Đại học Ngoại Thương - Cơ sở II - TP. HCM Nhận bài: 18/09/2017; Hoàn thành phản biện: 23/10/2018; Duyệt đăng: 25/03/2018 Tóm tắt: Trong quá trình học tiếng Anh, vì sinh viên chưa khai thác triệt để các phương tiện, thiết bị truyền thông và công nghệ thông tin để tự học, nên gặp nhiều khó khăn trước yêu cầu thực tiễn ở nhiều phương diện. Do đó, việc giúp sinh viên tiếp cận và sử dụng tốt các công cụ trên để nâng cao chất lượng của việc tự học tiếng Anh là một đòi hỏi bức thiết. Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với khảo sát để tìm hiểu và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Từ đó, tác giả thống kê kết quả và đưa ra những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong khả năng tự học tiếng Anh cho người học thông qua việc sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin (CCTT và CNTT) hỗ trợ trong thời đại mới - thời đại công nghiệp 4.0. Từ khóa: công nghệ thông tin, tiếng Anh, truyền thông, tự học 1. Mở đầu Trong quá trình giảng dạy tại một số trường đại học, tác giả nhận thấy rất nhiều sinh viên gặp khó khăn và chưa tìm ra được con đường đúng đắn để phát huy năng lực ngoại ngữ cho chính bản thân mình. Chưa kể đến việc khi các em tốt nghiệp, cần một chứng chỉ ngoại ngữ để làm điều kiện tiền đề cho việc nộp hồ sơ xin việc cũng là một khó khăn lớn đối với nhiều sinh viên. Điều này được khẳng định theo nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong hội nghị Tổng kết năm học 2015-2016 của Bộ GD và ĐT được tổ chức ngày 5/8/2016 tại Hà Nội và của PGS.TS. Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội trong cuộc trao đổi về chủ đề Nhân lực hội nhập. Thông thường, giải pháp cơ bản nhất để khắc phục khó khăn này ngay khi vẫn đang là sinh viên tại một trường đại học hay khi ở giai đoạn tìm việc làm mà các sinh viên hay người tìm việc vẫn thường áp dụng là tìm một chỗ dựa một cách thụ động - tức là tìm một giáo viên hay người có chuyên môn về ngoại ngữ để giảng dạy cho họ, và hoàn toàn chưa sử dụng hết khả năng có thể để khắc phục hạn chế về ngoại ngữ. Hay nói cách khác, nếu sinh viên đã có nền tảng vững chắc về ngoại ngữ, thì vấn đề còn lại là duy trì để không làm mất đi kỹ năng hoặc khả năng vốn có. Còn nếu trong trường hợp nền tảng về khả năng tiếng Anh của sinh viên còn quá yếu kém, hay chưa vững, thì việc ‘dựa dẫm’ hay ‘phụ thuộc’ vào một người có trình độ chuyên môn cao là điều chắc chắn. Tuy nhiên, vấn đề đáng nói ở đây là sự phụ thuộc chủ động, chứ không phải là sự phụ thuộc thụ động từ phía sinh viên. Khi đề cập đến điều này, tác giả đang ngầm ý nói đến tính tự học ở các sinh viên, cho dù các em thuộc nhóm sinh viên vẫn phải đang dựa dẫm vào người khác để rèn luyện kỹ năng ngoại ngữ cho mình. Như vậy, tự học, hay học tập suốt đời là đòi hỏi quan trọng trong mỗi cá nhân, khi người thầy không phải luôn luôn bên * Email:nguyenvuthanhtuyen.cs2@ftu.edu.vn Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 2 cạnh để động viên, kiểm tra, nhắc nhở, và đặc biệt khi thời gian để đến lớp học không phải là một vấn đề mang tính lựa chọn. Trước thực tiễn trên, tác giả đã đi sâu tìm hiểu và phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan trong và ngoài nước với những tóm tắt như sau: Trong nước Trong các bài viết ‘Learner autonomy in EFL learning: from theory to practice’ (NCS. Bùi Thị Nhung, 2017), ‘Using portfolio in fostering learner autonomy in teaching grammar: An action research’ (Phùng Thị Đức, 2017), và ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành tại trường Đại học Ngoại thương’ (Bùi Thị Kim Phúc, 2017), các tác giả có đề cập đến tầm quan trọng của tự học trong quá trình phát triển năng lực ngoại ngữ và đưa ra những đề xuất cho việc phát triển khả năng tự học tiếng Anh ở sinh viên. Tuy nhiên, sự tập trung của các tác giả không phải là việc sử dụng các công cụ công nghệ thông tin để hỗ trợ việc tự học ngoại ngữ, nên đây sẽ là chủ đề để tác giả lựa chọn cho bài nghiên cứu của mình. Đề tài ‘Phát triển môi trường tiếng Anh ngoài lớp học nhằm đạt chuẩn đầu ra cho sinh viên Đại học Thái Nguyên’ do TS. Trần Thị Nhi làm chủ nhiệm (2016) đề cập rất chu đáo các hoạt động ngoài lớp học nhằm phát triển các kỹ năng tiếng Anh cho sinh viên, có sử dụng các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin để hỗ trợ các hoạt động này. Nhưng điểm khác nhau cơ bản về mặt nội dung giữa đề tài này (1) và chủ đề mà tác giả đã thực hiện (2) là: Với (1), đội ngũ giảng dạy vạch ra một cách cụ thể các hoạt động sử dụng CCTT và CNTT để phát triển các kỹ năng tiếng Anh cho sinh viên; còn với (2): tác giả tìm hiểu các CCTT và CNTT mà sinh viên của tác giả đã và đang sử dụng để phát triển các kỹ năng tiếng Anh, từ đó nhận ra những ưu, nhược điểm từ việc khai thác các phương tiện này của các em để đưa ra những hướng dẫn mà các em chưa nhận ra được trong quá trình sử dụng phương tiện truyền thông và công nghệ để hỗ trợ việc tự học. Cũng với lý do tương tự dẫn đến việc tác giả lựa chọn chủ đề nghiên cứu này, đó là đề tài ‘Thực trạng kỹ năng tự học ngoài lớp học của sinh viên chính quy sư phạm trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh’ do Nguyễn Thị Thu Huyền chủ nhiệm (2014) chỉ đánh giá kỹ năng tự học của sinh viên đại học Sư phạm thuộc 4 khối ngành Địa, Anh, Hóa và Tâm lý giáo dục thông qua 5 nhóm kỹ năng tự học, gồm: lập kế hoạch tự học, đọc sách, ghi chép, ôn tập và tự kiểm tra. Ngoài nước Trong nghiên cứu của mình được thực hiện đối với các học viên theo học tại Trung tâm tiếng Anh của đại học Indiana, Gradman và Hanania (1991) đã nhận định yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng lực tiếng Anh của học viên là tính chủ động trong việc khai thác tài liệu nghe và đ ... viết trong thực tế với kết quả: nói (32/100), viết (28/100) trong khi các em đánh giá cao về khả năng tự học với những kỹ năng khác như: tra nghĩa và cách dùng từ (92/100), nghe (88/100), đọc (60/100). Năm sinh viên (5/100) còn cung cấp thêm một cách chi tiết bằng cách viết nhận định vào phiếu trả lời về những khó khăn trong hai kỹ năng nói và viết: các em vẫn cứ mắc lỗi ngữ pháp, hay cách trình bày ý tưởng khi áp dụng kỹ năng này mặc dù đã nghe khá nhiều lời khuyên (tips) hay bài giảng về cách viết bài luận; các em sinh viên vẫn chưa thấy hài lòng về khả năng diễn tả của mình mặc dù đã tham gia vào các nhóm hay cộng đồng ở trang mạng Facebook hay Youtube. Giải pháp cho vấn đề này là sự kiên trì và đều đặn ở các em trong quá trình rèn luyện hai kỹ năng nói và viết: có thể trước mắt, các em vì quá nóng vội và kỳ vọng đạt kết quả cao có thể nhìn thấy tức thì, nên đánh giá không được cao cho ý nghĩa của CCTT và CNTT. Tuy nhiên, sự thay đổi theo hướng tích cực cho hai kỹ năng này không phải diễn ra trong một sớm một chiều, mà là kết quả của quá trình rèn luyện đều đặn và nhẫn nại theo năm tháng. Trước mắt, điều quan trọng mà các em cần phải hiểu ở đây là yêu cầu tối thiểu trong khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ hiện nay là làm cho người khác hiểu được mình (understandable). Về lâu dài, những yêu cầu cao hơn sẽ dần được lĩnh hội nếu quá trình luyện tập được diễn ra đều đặn và có ý thức của người thực hiện: diễn tả chính xác ý tưởng bằng những từ dùng đặc sắc, chuyên môn, cấu trúc đa dạng, phong phú, khả năng truyền đạt biểu cảm Về cơ bản, đã có những trang web hay phần mềm có thể hỗ trợ người học phần nào trong kỹ năng viết mà các em có thể tiết kiệm chi phí (miễn phí) khi sử dụng, nên tác giả kính đề nghị giảng viên có những hướng dẫn cụ thể về khả năng đáp ứng, ý nghĩa của các trang mạng, phần mềm ấy để giúp sinh viên nâng cao kỹ năng viết vì chúng có thể giúp sinh viên nhận ra lỗi của mình như: https: //writeandimprove.com/; http: //www.paperrater.com/; http: //wrinity.com/ newsfeed; https://essayforum.com/; https://www.englishforums.com/ Đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một chương trình hay phần mềm miễn phí nào có thể giúp người học cải thiện kỹ năng viết một cách tốt nhất, đặc biệt là về mặt ý tưởng hay nghệ thuật viết. Tất cả các trang web tự tin khẳng định có thể sửa bài viết (miễn phí) thì cũng chỉ dừng lại ở khả năng sửa lỗi chính tả hay ngữ pháp, hoặc tiến bộ hơn, đưa ra những từ gợi ý để tránh lỗi lập từ ở một bài viết. Chính vì chế , nên nghề giáo, cụ thể là giáo viên dạy tiếng Anh, vẫn phải được duy trì, cho dù đối với các em sinh viên khá, giỏi, khả năng tự học ở các em là rất cao. Và điều này cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân bố thời gian giảng dạy các kỹ năng ở một lớp học tiếng Anh mà tác giả sẽ đề cập ở mục tiếp theo trong mục 7 của phần Thảo luận và đề xuất này. Xét đến lý do thứ hai (2) - chính giáo viên cũng chưa thật sự có hiểu biết sâu rộng về các kênh công nghệ khác nhau để hỗ trợ việc học ngoại ngữ - đã được đề cập trên, thì đây quả là một sự thiếu sót nghiêm trọng nếu chính giáo viên chưa thực sự am hiểu về các công cụ và phương tiện công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0. Như vậy, dù muốn hay không muốn, giáo viên phải thích ứng để bắt kịp với những biến đổi nhiều mặt đang diễn ra trong xã hội. Khi chính trong ngành giáo dục, muôn vàn những thay đổi đã và đang diễn ra trong thời đại công Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 10 nghiệp 4.0, thì việc giáo viên phải thích ứng trước những thay đổi đó là điều tất yếu (Trần Thị Bích Liễu, 2017). Điều cần phải được nhấn mạnh là việc tự học và khả năng tự học suốt đời cần phải được hướng dẫn và rèn luyện cho sinh viên trong quá trình ngắn ngủi khi các em đang học tập tại trường. Hơn ai hết, giảng viên phải là lực lượng tiên phong trong việc thể hiện tính tự học của mình bằng cách tìm hiểu và cập nhật những phương tiện công cụ công nghệ rất hữu ích của xã hội để hướng dẫn và dạy bảo các em sinh viên để các em có thể trở thành những con người tự lập và tự phát triển - một trong những mục tiêu quan trọng của quá trình giáo dục. Để khắc phục hạn chế này ở lực lượng giảng dạy, chúng ta cần xem xét những giải pháp mang tính khả thi cao như sau: (1) Tổ chức hội thảo hay những buổi sinh hoạt chuyên môn, chia sẻ những ứng dụng công nghệ trong giảng dạy hoặc giới thiệu những trang web giúp sinh viên tự học tiếng Anh do những giảng viên có trình độ và sự am hiểu cao về công nghệ giới thiệu. (2) Thiết thực hơn, Ban chủ nhiệm Khoa hay Bộ môn tiếng Anh (Ngoại ngữ) tổ chức việc dự giờ cho các giảng viên tại các lớp nơi mà giảng viên có chuyên môn về công nghệ sẽ hướng dẫn cho sinh viên về cách tự học ngoại ngữ nhờ vào CCTT và CNTT. (3) Tổ chức những buổi Tập huấn liên quan đến việc ứng dụng công nghệ trong giảng dạy tiếng Anh và hướng dẫn những CCTT và CNTT cho sinh viên nếu Công Đoàn nhà trường có điều kiện về mặt tài chính. (4) Yêu cầu Câu lạc bộ tiếng Anh của trường tổ chức những buổi chia sẻ về việc ứng dụng CCTT và CNTT trong việc tự học tiếng Anh. 7. Tra nghĩa của từ/ cách dùng từ, luyện phát âm, học từ vựng và luyện kỹ năng nghe nhận được kết quả khá cao về khả năng tự học mà không cần có sự hướng dẫn của giáo viên, với tỉ lệ 82%, 57%, 68% và 70% tương ứng. Trong khi đó, với kỹ năng đọc, tác giả cho rằng sinh viên có thể tự học với các công cụ truyền thông và công nghệ thông tin hỗ trợ sẽ rất cao, nhưng kết quả khảo sát lại cho thấy chỉ 35% đồng ý. Khi xem xét nguyên do các em nêu ra, tác giả nhận ra rằng sinh viên cho rằng tài liệu giấy sẽ tốt hơn, mặc dù cũng phản ánh rằng các em có thể tự học kỹ năng này mà không cần sự hỗ trợ trực tiếp từ giáo viên. Đặc biệt, những kỹ năng không thể thiếu sự có mặt của giáo viên bao gồm luyện ngữ pháp chỉ với 20% lựa chọn câu trả lời rất đúng và đúng khi trả lời câu hỏi liên quan đến vấn đề (Bảng 9). Tương tự, kỹ năng nói (chỉ 21%), kỹ năng viết (chỉ 10%) cho thấy những sinh viên khá, giỏi này vẫn đang đề cao sự tương tác trực tiếp giữa giáo viên và sinh viên vì chưa thấy được phần mềm hay trang mạng nào có thể giúp các em phát triển những kỹ năng như nói và viết một cách hiệu quả mà không tốn quá nhiều chi phí. Như vậy, từ kết quả này, giáo viên có thể phân phối thời gian giảng dạy các kỹ năng một cách hợp lý để giúp sinh viên đạt được kết quả tốt nhất từ mỗi buổi học. Điều đáng lưu ý là khi trả lời câu hỏi: Người tham gia có thể tự học các kỹ năng tiếng Anh sau mà không cần có sự hướng dẫn của giáo viên, đến 50% sinh viên khẳng định là đúng và rất đúng cho mục (9): Mở rộng kiến thức. Kết quả này vừa là tin vui cho những nhà giáo dục và cho xã hội khi nếu sự thật là các em sinh viên có thể chủ động học hỏi được kiến thức mà không cần đến sự hỗ trợ của người thầy; nhưng kết quả này cũng là một tiếng chuông cảnh báo cho lực lượng giảng dạy vì các giáo viên phải thực sự đầu tư cả thời gian và công sức để có thể truyền đạt những kiến thức rất hữu ích mà những đối tượng giỏi nhất cũng phải thừa nhận rằng các em không thể tự mình tìm hiểu bằng cách sử dụng công cụ truyền thông và công nghệ thông tin. Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 2, Số 1, 2018 11 8. Cuối cùng, trong các câu hỏi mở ở bảng khảo sát để tìm hiểu về suy nghĩ, kỳ vọng của người tham gia khảo sát về vấn đề áp dụng các CCTT và CNTT nhằm nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh, tác giả đã nhận ra được những mong đợi thiết thực của sinh viên về thiết bị, phần mềm, trang mạng cần được cải thiện hay cài đặt tại thư viện trường hay nhà trường để các em có thể khai thác tốt hơn những phương tiện công nghệ sẵn có. Những mong đợi thiết thực và ý nghĩa này sẽ là cơ sở để tác giả có thể đề xuất lên lãnh đạo Nhà trường nhằm mục tiêu đáp ứng và phục vụ nhu cầu rất hợp lý và xác đáng của sinh viên. Tóm lại, kết quả thu thập được từ bảng khảo sát nhằm tìm hiểu tinh thần tự học có sử dụng các CCTT và CNTT của sinh viên, tính hiệu quả của những công cụ truyền thông và công nghệ thông tin đối với sinh viên đã giúp cho tác giả nói riêng và giảng viên nói chung có cái nhìn bao quát và chính xác hơn về những công cụ công nghệ hỗ trợ việc tự học các kỹ năng tiếng Anh. Từ đó, tác giả có những định hướng hoặc kế hoạch cụ thể để đáp ứng những nguyện vọng hoặc nhu cầu thiết thực từ phía người học, nhằm khẳng định được uy tín của chính bản thân, nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, và góp phần tạo ra lực lượng lao động tự lập, sáng tạo và chủ động, đáp ứng được những nhu cầu thực tiễn về lực lượng lao động của xã hội trong tình hình công nghiệp 4.0. 6. Kết luận Trong thời đại công nghiệp 4.0, từ kết quả của cuộc khảo sát, chúng ta có thể nhận thấy rằng mỗi bạn sinh viên viên gần như sở hữu hai sản phẩm công nghệ hữu ích phục vụ cho việc tra cứu tài liệu và tự học: máy tính (computer: 98%) và điện thoại thông minh (smart phone: 96%) và sử dụng các thiết bị này để phục đắc lực cho việc tự học các kỹ năng trong tiếng Anh. Với cuộc khảo sát này, những khó khăn trong kỹ năng ngoại ngữ của sinh viên Việt Nam được đề cập trong phần mở đầu không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì những sinh viên tham gia khảo sát là những sinh viên có năng lực tiếng Anh rất tốt - với điểm số rất cao khi bước vào đại học. Như vậy, vấn đề còn lại mà ngành giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng cần phải tiếp tục thực hiện đối với những đối tượng đã được khảo sát là hướng dẫn các em sinh viên về những giá trị khác mà các công cụ, thiết bị truyền thông mang lại mà các em vẫn chưa biết cách khai thác một cách hiệu quả nhất để trở thành chủ nhân thực thụ của công nghệ, chứ không phải là nô lệ hoặc bị chính những sản phẩm trí tuệ của chính con người lèo lái hành động và hướng đi của chính các em. Vì kết quả của bài nghiên cứu này có thể ứng dụng với những đối tượng sinh viên có trình độ tiếng Anh khá hoặc giỏi trở lên, nên đối với đối tượng người học mà có trình độ tiếng Anh dưới mức khá, đề tài nghiên cứu này cần phải thực hiện lại để đi đến những phân tích, đánh giá, và đề xuất phù hợp hơn. Chính vì vậy, dự định của tác giả là sẽ mở rộng đối tượng nghiên cứu với năng lực ngoại ngữ dưới mức khá trong thời gian sắp tới. Tài liệu tham khảo Balçikanli, C. (2010). Learner autonomy in language learning: student teacher’s beliefs. Australian Journal of Teacher Education, 35(1), 90-103. Benson, P., & Voller, P. (1997). Autonomy and independence in language learning. London: Longman. Bùi Thị Kim Phúc (2017). Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành tại trường Đại học Ngoại thương. Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp trường (2017): TPP, AEC và những Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 2, No 1, 2018 12 vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong hội nhập quốc tế (tr. 186-197). Thành phố Hồ Chí Minh. Bùi Thị Nhung (2017). Learner autonomy in EFL learning: from theory to practice. Hội thảo khoa học "Research as empowerment" của Khoa tiếng Anh Chuyên ngành (15/6/2017). Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội. Celix, S. (2013). Internet-assisted technologies for English language teaching in Turkish Universities. Computer Assisted Language Learning, 26(5), 468-483. VTV1 (2017). Chương trình hội nhập. Đài truyền hình VN. Truy cập ngày 13/8/2017. Gradman, H.L., & Hanania, E. (1991). Language learning background factors and ESL proficiency. The Modern Language Journal, 75(1), 39-52. Kenh14.Vn (2017). Là sinh viên, hãy hiểu thế nào là cách mạng công nghiệp 4.0 để không bị tụt hậu. Truy cập 15/8/2017 từ: de-khong-bi-tut-hau-20170522180046961.chn Little, D. (1991). Learner autonomy. 1: definitions, issues and problems. Dublin: Authentik. Littlejohn, A. (1997). Self-access work and curriculum ideologies. In P. Benson & P. Voller (Eds.), Autonomy and Independence in Language Learning (pp. 181-91). London: Longman. Ngụy An (2017). Phó thủ tướng: Nắm lấy cơ hội từ Cách mạng công nghiệp 4.0. Truy cập ngày 13/8/2017 từ: post746308.html. Nguyễn Thị Thu Huyền (2014). Thực trạng kỹ năng tự học ngoài lớp học của sinh viên chính quy sư phạm trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường. Phùng Thị Đức (2017). Using portfolio in fostering learner autonomy in teaching grammar: An action research. Hội thảo khoa học "Research as empowerment" của Khoa tiếng Anh Chuyên ngành (15/6/2017). Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội. Quyết định số 1400/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án ‘Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020’. Trần Thị Bích Liễu (2017). Phát triển giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam. Tài liệu tập huấn. Trần Thị Nhi (2016). Phát triển môi trường tiếng Anh ngoài lớp học nhằm đạt chuẩn đầu ra cho sinh viên Đại học Thái Nguyên. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường. ENHANCING EFFICIENCY OF ENGLISH LEARNING THROUGH THE USE OF COMMUNICATIONS AND INFORMATION TECHNOLOGY IN THE AGE OF INDUSTRY 4.0 Abstract: In the process of learning English, students have not fully exploited the means, equipment of communications and information technology to learn this language by themselves, so it is difficult to meet practical requirements in many ways. Therefore, it is imperative to assist students in approaching and using such tools to improve the quality of self-learning in English. This article uses qualitative research methods, combined with a survey to explore and synthesize collected data. Thereby, the author outlines the results and makes assessments and suggestions to improve the effectiveness of self-learning in English for learners through the use of supportive tools of technology and communications in the new age – the age of industry 4.0. Keywords: Communications, information technology, self-study, English
File đính kèm:
- nang_cao_hieu_qua_tu_hoc_tieng_anh_qua_viec_su_dung_truyen_t.pdf