Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nhằm tháo gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU
Tổng quan về thị trƣờng thủy sản EU và xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam sang thị trƣờng EU
EU với 28 thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số
hơn 500 triệu ngƣời. Bình quân thu nhập tính theo đầu ngƣời của các
quốc gia EU khá cao so với thế giới. Ngƣời dân EU rất thích dùng các
sản phẩm thủy sản trong nhu cầu ăn uống và bảo vệ sức khoẻ do tính ƣu
việt của sản phẩm này là ngon và bổ dƣỡng. Hàng năm, nhu cầu sản
phẩm thủy sản của EU đạt mức 26,3 kg/ngƣời.
EU là một trong những thị trƣờng nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế
giới với giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vƣợt 5,52 tỷ Euro. Phần
lớn sản phẩm thủy sản đƣợc nhập khẩu từ các nƣớc nội bộ trong khối.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nhằm tháo gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU
International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 856 NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC NHẰM THÁO GỠ THẺ VÀNG ĐỐI VỚI THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG EU Improve the efficiency of State management activities to excapefrom EU’s yellow cards for Vietnam's seafood exports to the this market ThS. Lê Quốc Cƣờng Bộ môn Kinh tế quốc tế - Khoa Thương mại quốc tế Trường Đại học Thương Mại TÓM TẮT Ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng luôn là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nƣớc với rất nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch trên 1 tỷ đô la Mỹ. Cùng với những kết quả đã đạt đƣợc, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn điển hình là cảnh báo thẻ vàng của EU đã gây không ít những tổn thất cả trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một liều thuốc tốt giúp cho Ngành thủy sản Việt Nam có thể thay đổi cần thiết về chính sách, vấn đề quản lý để hƣớng tới sự phát triển của Ngành cũng nhƣ đối với thủy sản xuất khẩu theo hƣớng bền vững hơn. Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 857 Từ khóa: Quản lý nhà nƣớc; thủy sản xuất khẩu; thị trƣờng EU; tháo gỡ thẻ vàng ABSTRACT The Vietnam‘s seafood industry in general and seafood export in particular have always been a spearhead economic sector of the country with many key export items with a turnover of over US $ 1 billion. Along with the achieved results, Vietnam's seafood exports also face many difficulties, typically the EU yellow card warning has caused many losses both in the short term as well as in the long run. with export seafood of Vietnam. However, this is also a good medicine for Vietnam's fisheries sector to make necessary changes in management policies and issues towards the development of the industry as well as the export fishery towards a sustainable direction. more solid. Key words: State management; exported aquatic products; EU market; remove the yellow card Tổng quan về thị trƣờng thủy sản EU và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trƣờng EU EU với 28 thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số hơn 500 triệu ngƣời. Bình quân thu nhập tính theo đầu ngƣời của các quốc gia EU khá cao so với thế giới. Ngƣời dân EU rất thích dùng các sản phẩm thủy sản trong nhu cầu ăn uống và bảo vệ sức khoẻ do tính ƣu việt của sản phẩm này là ngon và bổ dƣỡng. Hàng năm, nhu cầu sản phẩm thủy sản của EU đạt mức 26,3 kg/ngƣời. EU là một trong những thị trƣờng nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới với giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vƣợt 5,52 tỷ Euro. Phần lớn sản phẩm thủy sản đƣợc nhập khẩu từ các nƣớc nội bộ trong khối. International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 858 Tuy nhiên, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ (chủ yếu là các sản phẩm thủy sản nƣớc ấm) EU Do vị trí địa lý và khí hậu khắc nghiệt, cộng thêm nguồn thủy sản của EU đang nằm dƣới giới hạn an toàn sinh học, trong khi nhu cầu tiêu dùng thủy sản của EU vẫn tăng nhanh. Vì vậy, EU buộc phải nhập khẩu thủy sản từ hơn 180 quốc gia trên thế giới đến từ các quốc gia châu Mỹ, châu Á trong đó có Việt Nam. Các sản phẩm thủy sản của Eu nhập khẩu chủ yếu là tôm đông lạnh, cá tƣơi và cá, giáp xác, nhuyễn thể đông lạnh; và thủy sản đóng hộp, thủy sản tẩm bộttrong đó thì cá philê đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo là tôm đông lạnh. Tuy nhiên, muốn nhập khẩu đƣợc vào thị trƣờng EU thì phải vƣợt qua đƣợc rào cản kỹ thuật của EU. "Rào cản kỹ thuật" là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Rào cản kỹ thuật chính là qui chế nhập khẩu chung đƣợc cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: chất lƣợng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho ngƣời sử dụng, bảo vệ môi trƣờng và tiêu chuẩn về lao động. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những bƣớc tiến vƣợt bậc trong gần 25 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ mức thấp 550 triệu năm 1995 đã có những bƣớc tăng trƣởng mạnh mẽ qua từng năm với mức tăng trƣởng bình quân 15,6%/năm. Quá trình tăng trƣởng này đã đƣa Việt Nam trở thành một trong 5 nƣớc xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp nguồn thủy sản toàn cầu. EU là thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ hai của hải sản Việt Nam trong 5 năm qua, với giá trị xuất khẩu dao động trong khoảng 350 – 400 triệu USD/năm, chiếm 16 – 17% tổng xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Tuy nhiên thẻ vàng IUU đã kéo giảm xuất khẩu thủy sản khai thác của Việt Nam sang EU trong thời gian qua. Số liệu ghi nhận kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã giảm khoảng gần 30% tổng giá trị đối với các mặt hàng thủy sản chủ lực sang thị trƣờng EU. Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 859 Biểu đồ 1: Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU Nguồn: VASEP Cơ cấu mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU là khá đa dạng với nhiều chủng loại. Tuy nhiên, những sản phẩm đƣợc ƣa chuộng và tiêu dùng nhiều nhất là cá, tôm và mực – bạch tuộc. Bảng 1: Mặt hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU 6 tháng đầu năm 2019 ĐVT: Sản lượng (nghìn tấn); Kim ngạch (triệu USD) Mặt hàng Sản lƣợng Kim ngạch Cá 135 326 Tôm 15,8 115 Mực - Bạch tuộc 11,5 40 Thủy sản khác 10,7 34 Nguồn: Hải quan Việt Nam Do tính chất quan trọng của thị trƣờng EU về cả kim ngạch cũng nhƣ tính đa dạng trong các mặt hàng xuất khẩu mà hiện nay số lƣợng các doanh nghiệp tham gia chế biến, xuất khẩu sang EU ngày càng tăng lên nhanh chóng và đƣợc phân bố tại một số địa phƣơng thủy sản trọng điểm . Hiện nay, số ... hi nhận của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP); trong 7 tháng đầu năm 2019 có một số thị trƣờng xuất khẩu cá tra đã có sự giảm sút về kim ngạch nhƣ Mỹ, Brazil, Colombia lần lƣợt là 34,3%, 25,4, 18.6% trong khi đó một số thị trƣờng có ghi nhận tăng nhƣ ASEAN, Nhật bản, Trung Quốc, Mexico và EU trong đó EU tăng nhiều nhất khoảng 12,6%. Điều này cho thấy, để hạn chế tác động tiêu cực của thẻ vàng các sản phẩm thủy sản đƣợc nuôi trồng theo hƣớng bền vững đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một giải pháp tốt cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Biểu đồ 2: Tăng trƣởng xuất khẩu cá tra sang các thị trƣờng chính 7 tháng đầu năm 2019 Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 863 Nguồn: VASEP Từ những thực trạng nêu trên có thể thấy, để EU tiếp tục là thị trƣờng xuất khẩu thủy sản chủ lực của Việt Nam và trƣớc mắt là vấn đề tháo gỡ thẻ vàng thì quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động thủy sản là một hoạt động không thể thiếu đƣợc.‘. Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý Nhà nƣớc nhằm tháo gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng EU Trước vấn đề thẻ vàng đã có những tác động rất tiêu cực đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 2 năm vừa qua, Các cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản đã có nhiều nỗ lực triển khai thực hiện các quy định về khai thác IUU của theo khuyến nghị của EC. Việt Nam đã nhanh chóng ban hành và hoàn thiện một số quy phạm pháp luật, tăng cường nâng lực thực thi pháp luật cụ thể cũng như các công tác triển khai thực thi luật pháp. Thứ nhất: Trong công tác hoàn thiện các quy định nhằm quản lý vấn đề khai thác thủy sản bất hợp pháp. - Luật Thuỷ sản 2017 - Công điện số 732/CĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2017 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ngăn chặn, giảm thiểu và chấm dứt tình trạng tàu cá và ngƣ dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nƣớc ngoài - Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 13/12/2017 của Thủ tƣớng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. - Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 16/01/2018 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt kết hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn chặn, International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 864 giảm thiểu và loại bỏ khai thách hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định đến năm 2025. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mƣu trình Chính phủ phƣơng án thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống đánh bắt bất hợp pháp đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả. - Tiếp tục hoàn thiện các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Thủy sản năm 2017, tổ chức dịch sang Tiếng Anh các dự thảo văn bản pháp luật để gửi cho Tổng vụ các vấn đề về Biển và Thủy sản của EC tham vấn, góp ý, bảo đảm có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2019. - Ban hành văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn các địa phƣơng ven biển trang bị, lắp đặt, sử dụng, quản lý đồng bộ thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá; trƣớc mắt tập trung theo dõi, giám sát chặt chẽ số lƣợng tàu cá đã trang bị thiết bị VX-1700, Movimar phục vụ cho công tác thực thi pháp luật trên biển và xử phạt tàu cá khai thác IUU. Đồng thời, tăng cƣờng chỉ đạo điều hành, thực thi pháp luật nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong quản lý nghề cá nói chung, quản lý chống khai thác IUU từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ngành có liên quan đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện; tổ chức các cuộc họp và trực tiếp đi địa bàn để chỉ đạo các tỉnh ven biển triển khai ngăn chặn, giảm thiểu, chấm dứt tàu cá và ngƣ dân vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nƣớc ngoài. Thứ hai: Các hoạt động quản lý nhà nƣớc nhằm tăng cƣờng chống khai thác IUU đƣợc áp dụng cụ thể: Quản lý chặt chẽ hơn việc cấp giấy phép khai thác thủy sản cho tàu cá; kiểm soát chặt chẽ tàu cá xuất, nhập bến; tăng cƣờng tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên các vùng biển để ngăn chặn, xử lý, xử phạt nghiêm theo quy định đối với tàu cá chống khai thác IUU, thực hiện việc truy xuất nguồn gốc hải sản khai thác theo quy định. Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 865 Các hiệp hội, hội nghề cá, cộng đồng ngƣ dân triển khai các hành động cụ thể trong chống khai thác IUU nhƣ: cộng đồng doanh nghiệp phát động chƣơng trình ―doanh nghiệp hải sản cam kết chống khai thác IUU‖, ban hành sách trắng về IUU, ký cam kết chống khai thác IUU... Ngoài ra, tăng cƣờng theo dõi, giám sát, kiểm soát hoạt động tàu cá thông qua việc xây dựng quy định chặt chẽ và lộ trình lắp đặt thiết bị giám sát tàu cá đối với tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên. Sửa đổi quy trình kiểm soát tàu cá ra vào cảng, kiểm soát chặt chẽ sản lƣợng cập bến gắn với quy trình xác nhận, chứng nhận. Điều chỉnh quy trình kiểm soát tàu nƣớc ngoài tại cảng Việt Nam theo Quy định của Hiệp định biện pháp quốc gia có cảng. Đồng thời, thực hiện tốt việc truy xuất nguồn gốc hải sản từ khai thác thông qua tăng cƣờng trách nhiệm cho cơ quan quản lý cảng cá, đảm bảo kiểm tra chéo các thông tin trong chuỗi. Quản lý năng lực khai thác thông qua việc triển khai các quy định mới trong Luật Thủy sản về kiểm soát số lƣợng tàu cá và xây dựng thí điểm cấp hạn ngạch khai thác cá ngừ đại dƣơng dựa trên số liệu điều tra nguồn lợi. Song song đó, tăng cƣờng hợp tác quốc tế; tham gia tích cực vào các sáng kiến khu vực về chống khai thác IUU; Đẩy mạnh hợp tác song phƣơng với các nƣớc trong khu vực, kí đƣờng dây nóng trao đổi thông tin về IUU. Mặc dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng trong quá trình triển khai các quy định đáp ứng yêu cầu của EC về khai thác hải sản,có thể thấy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trước mắt cũng như về mặt lâu dài sẽ gặp phải những khó khăn cụ thể như sau: Thứ nhất: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU mặc dù bao gồm cả thủy sản nuôi trồng và thủy sản đánh bắt trong đó tỷ trọng thủy sản nuôi trồng trên thủy sản đánh bắt có xu hƣớng tăng mạnh (tỷ lệ hải sản đánh bắt của Việt Nam xuất sang EU hiện nay rất thấp, chỉ chiếm có 5,1%"). Tuy nhiên, nếu không xử lý tốt vấn đề này, sẽ ảnh hƣởng International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 866 chung đến thƣơng hiệu thủy sản xuất khẩu của Việt Nam mặc dù nếu Việt Nam có khắc phục đƣợc nhƣng cũng khó để quay lại thị trƣờng này khi thƣơng hiệu đã mất. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong những năm gần đây để đáp ứng các đơn hàng, Việt Nam đã nhập khẩu nguyên liệu thủy sản từ 84 quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau, với tổng giá trị gần 1 tỷ USD, trong đó 40% là mặt hàng tôm. Thực tế có tình trạng không ít doanh nghiệp tạm nhập tái xuất hay nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để tiêu thụ nội địa nhƣng không quan tâm đến quy định của IUU. Nếu không có biện pháp quản lý tốt tình trạng này, có thể dự báo EU sẽ coi đây là vấn đề đáng quan ngại đối với tình trạng thủy sản bất hợp pháp. Thứ hai: Đây là một trong những rào cản quan trọng trong tiến trình phê chuẩn và có hiệu lực chính thức cho Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam và EU (EVFTA). Điều này cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trƣờng quan trọng này. Theo trung tâm WTO, ngay khi EVFTA có hiệu lực, khoảng 50% số dòng thuế của EU dành cho thủy sản Việt Nam sẽ đƣợc xóa bỏ. 50% số dòng thuế còn lại đƣợc xóa bỏ theo lộ trình từ 3-7 năm. Đối với một số mặt hàng "nhạy cảm" nhƣ cá ngừ và cá viên đóng hộp, phía EU cam kết dành một hạn ngạch miễn thuế nhất định cho hàng hóa từ Việt Nam. Cụ thể các sản phẩm cá ngừ đại dƣơng chế biến đƣợc miễn thuế trong phạm vi cộng dồn 11.500 tấn/năm; sản phẩm Surimi (cá viên đóng hộp) đƣợc miễn thuế trong hạn ngạch 500 tấn/năm. Nhƣng với việc bị EU giơ thẻ vàng, nếu thời gian tới VN không đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn quốc tế cũng nhƣ quy định của EU về chống khai thác đánh bắt bất hợp pháp thì không chỉ ngành thủy sản VN bị ―thẻ đỏ‖ cấm hoàn toàn xuất khẩu vào EU. Thứ ba: Xuất khẩu thủy sản sang thị trƣờng EU sẽ gặp một loạt những cản trở liên quan đến IUU trong quá trình xuất khẩu nhƣ quá trình thông quan, chi phí chững nhận, kiểm traĐiều này ảnh hƣởng Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 867 nghiêm trọng đến kim ngạch xuất khẩu, năng lực cạnh tranh đối với hàng thủy sản của Việt Nam. Theo (VASEP), trong thời gian bị ―dính thẻ vàng‖, 100% container hàng xuất khẩu có nguy cơ bị giữ lại để kiểm tra nguồn gốc khai thác, thời gian sẽ kéo dài tới 3 - 4 tuần/container; phí kiểm tra nguồn gốc khoảng 500 bảng Anh/container, chƣa kể phí lƣu giữ cảng và hệ lụy kinh doanh của đối tác khách hàng bên cạnh đó rủi ro lớn nhất là tỷ lệ lớn các lô hàng bị từ chối thông quan, trả hàng tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp của Philippine khi có tới 70% số lô hàng bị từ chối thông quan. Thứ tƣ: Đây là vấn đề có tính nhãn tiền đối với hoạt động lập pháp và hành pháp đối với các cơ quan chức năng của Việt Nam, đây không dừng lại đối với thị trƣờng EU mà còn tiếp tục diễn ra đối với các thị trƣờng khác nếu các cơ quan chức năng không có động thái tích cực. Một đề nghị của EU cực kỳ quan trọng đối với vấn đề pháp lý của VN trong dự thảo Luật Thủy sản sửa đổi là quy định về chế tài xử phạt. Các quy định chế tài xử phạt khai thác bất hợp pháp thƣờng đƣợc Việt Nam đƣa vào văn bản dƣới luật, mức xử phạt thấp, không mang tính răn đe. Chƣa kể văn bản lƣới luật đều dễ thay đổi. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nƣớc nhằm tháo gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng EU Để tiếp tục duy trì là một thị trƣờng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong thời gian tới, trên quan điểm nhận diện đây là một bài học kinh nghiệm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bị phạt ―thẻ vàng của EU đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần sớm khắc phục một số vấn đề quan trọng sau: Một là: Việt Nam cần hoàn thiện thể chế, quy định để phù hợp với quốc tế và EU. Cụ thể là sửa Luật thủy sản và đã đƣợc thông qua, trong đó đƣa tối đa các khuyến nghị của EU vào Luật. Một số khuyến nghị chƣa phù hợp với luật của Việt Nam chƣa đƣợc đƣa vào luật thì đã có International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 868 thông báo cần thiết với EU. Đặc biệt cần đƣa các quy định chế tài vào trong luật, tăng mức chế tài cao hơn, thể hiện đƣợc sự quyết liệt của Chính phủ Việt Nam trong công tác chống khai thác bất hợp pháp. Hai là: Việt Nam cần nâng cao năng lực thực thi của hệ thống quản lý Nhà nƣớc với chủ tàu, ngƣ dân song song với vấn đề năng lực thực thi và cam kết, đây là yếu tố quan trọng nhất, vì EU muốn Việt Nam chứng minh bằng năng lực thực tiễn, cần có sự chuyển biến từ thực tế. Các bộ có liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu thủy sản nhƣ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin truyền thông có những giải pháp cấp bách để triển khai chủ trƣơng của Chính phủ đối với việc ngăn chặn, giảm thiểu và chấm dứt tình trạng tàu cá và ngƣ dân Việt Nam khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nƣớc ngoài. Thứ ba: Trong qua trình xuất khẩu thực tế, cần có sự điều chỉnh thời hạn giấy chứng nhận kiểm dịch vệ sinh an toàn thực phẩm theo thông lệ quốc tế, thay vì chỉ có 2 tháng nhƣ hiện nay bởi trên thực nguyên do từ việc thông thƣờng doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để dự trữ chờ đơn hàng, không phải nào cũng nhập khẩu nguyên liệu để chế biến ngay. Thứ tƣ: Việt Nam cần tham gia đầy đủ các tổ chức của khu vực và thế giới liên quan về IUU, cũng nhƣ ký kết hiệp định với các quốc gia có cảng cá, giúp cung cấp thông tin về nguồn nguyên liệu hải sản khai thác tại các nƣớc có hợp pháp hay không. Thứ năm: Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong đó cơ quan đại diện là Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP tiếp tục nghiên cứu, phổ biến kinh nghiệm, thực hiện nghiêm túc các cam kết thu mua và nhập khẩu nguyên liệu hải sản khai thác hợp pháp, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, nói không với những hải sản bị cấm đánh bắt, xây dựng quy tắc thu mua hải sản minh bạch. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ, tích cực hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong thực thi các quy định chống khai thác IUU, đề xuất thay đổi phƣơng thức quản Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”, ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3 869 lý các cảng cá, xây dựng cơ sở dữ liệu nghề cá phục vụ cho việc quản lý và truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng EU TÀI LIỆU THAM KHẢO Trung tâm dữ liệu thƣơng mại – Trade Map, Palais des Nations; CH- 1211 Geneva 10; Switzerland Oleksandr Shepotylo – Effect of non- tariff measures on extensive and intensive margins of export in seafood trade, Norwegian Institute of International Affairs, 2015. Mahfuzuddin Ahmed – Fish to 2020 in changing global market: trade liberalization and market access constrains for developing countries, WorldFish Center, Malaysia. Lee F. Peoples – International Trade In Agricultural Producs (2004) – Oklahoma University School of Law, United States. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: www.mard.gov.vn/ Tổng cục thủy sản: https://tongcucthuysan.gov.vn/ Phòng thƣơng mại công nghiệp Việt Nam: vcci.com.vn/ Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam: vasep.com.vn
File đính kèm:
- nang_cao_hieu_qua_hoat_dong_quan_ly_nha_nuoc_nham_thao_go_th.pdf