Một số kết quả nghiên cứu mới về đặc điểm phân bố và thành phần vật chất của quặng hóa trong khu vực mỏ chì - kẽm Na Sơn
Vùng mỏ Na Sơn từ lâu đã được nhiều nhà địa
chất quan tâm nghiên cứu và đều có những nhận
định chung về triển vọng công nghiệp của quặng
chì-kẽm phân bố ở khu vực này. Tuy nhiên, những
yếu tố quan trọng như: đặc điểm địa chất khống
chế quặng, mối quan hệ giữa quặng hóa với các
thành tạo vây quanh, đặc điểm hình thái cấu kiến
trúc và thành phần vật chất quặng hóa (thành phần
khoáng vật, thành phần hóa học, hành vi địa hóa
của các nguyên tố) làm cơ sở cho việc luận giải
nguồn gốc và cơ chế thành tạo của mỏ quặng chưa
được làm sáng tỏ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số kết quả nghiên cứu mới về đặc điểm phân bố và thành phần vật chất của quặng hóa trong khu vực mỏ chì - kẽm Na Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả nghiên cứu mới về đặc điểm phân bố và thành phần vật chất của quặng hóa trong khu vực mỏ chì - kẽm Na Sơn
63 33(1), 63-77 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2011 MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỚI VỀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ THÀNH PHẦN VẬT CHẤT CỦA QUẶNG HÓA TRONG KHU VỰC MỎ CHÌ - KẼM NA SƠN BÙI ẤN NIÊN, TRẦN TRỌNG HÒA, TRẦN TUẤN ANH, PHẠM THỊ DUNG, PHẠM NGỌC CẨN, TRẦN VĂN HIẾU, TRẦN QUỐC HÙNG, NGÔ THỊ PHƯỢNG E-mail: nienba54@yahoo.com.vn Viện Địa chất - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam Ngày nhận bài: 01-9-2010 1. Mở đầu Vùng mỏ Na Sơn từ lâu đã được nhiều nhà địa chất quan tâm nghiên cứu và đều có những nhận định chung về triển vọng công nghiệp của quặng chì-kẽm phân bố ở khu vực này. Tuy nhiên, những yếu tố quan trọng như: đặc điểm địa chất khống chế quặng, mối quan hệ giữa quặng hóa với các thành tạo vây quanh, đặc điểm hình thái cấu kiến trúc và thành phần vật chất quặng hóa (thành phần khoáng vật, thành phần hóa học, hành vi địa hóa của các nguyên tố) làm cơ sở cho việc luận giải nguồn gốc và cơ chế thành tạo của mỏ quặng chưa được làm sáng tỏ. Từ trước đến nay, các mỏ chì-kẽm ở Việt Nam nói chung và ở mỏ Na Sơn nói riêng chỉ mới tập trung khai thác chế biến hai loại quặng kẽm (sphalerit) và chì (galenit) là chủ yếu, các nguyên tố quý hiếm đi kèm như Cd, In, Ag, Cu, Sb, Mo, TR có ý nghĩa làm tăng giá trị kinh tế của mỏ quặng hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu. Khắc phục được những tồn tại như đã nêu ở trên là một trong những công việc rất phức tạp, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu chi tiết cả ngoài thực địa lẫn trong phòng thí nghiệm. Đặc biệt là trong nghiên cứu thành phần vật chất của quặng hóa, cần phải thu thập các mẫu sao cho đại diện nhất ở các vị trí khác nhau ngoài thực địa, đồng thời tiến hành phân tích nhiều loại mẫu bằng nhiều phương pháp khác nhau để có bộ kết quả tốt nhất giúp cho việc dự đoán quy mô, triển vọng và giá trị kinh tế của mỏ quặng. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đồng thời đó cũng chính là nội dung của bài báo mà tập thể tác giả sẽ trình bày dưới đây. 2. Khái quát về đặc điểm địa chất - thạch học khu vực mỏ Na Sơn Mỏ chì-kẽm Na Sơn nằm trong địa phận xã Tòng Bá, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, cách thị xã Hà Giang khoảng 13km về phía Đông Bắc, với tọa độ trung tâm: 22º55'20,4'' vỹ độ bắc; 105º04'47,7'' kinh độ đông. Về phương diện địa chất, khu vực Na Sơn - Tòng Bá là bộ phận nhỏ trong đới nâng sông Lô [2, 13, 14], hoặc trong phạm vi của đới cấu trúc Khao Lộc [11, 15]. Địa bàn nghiên cứu nằm ở phần trung tâm nếp lõm Tòng Bá, do ảnh hưởng của hoạt động kiến tạo đất đá ở đây bị đẩy trồi lên, tạo thành khối cấu tạo Tòng Bá có đặc điểm kiến trúc và sinh khoáng khác biệt so với xung quanh. Những kết quả nghiên cứu địa chất trước đây ở khu vực này về cơ bản đã xác lập được bình đồ cấu trúc chung của vùng nghiên cứu, song về địa tầng lại có những quan điểm khác nhau: các đá rõ ràng có cùng vị trí và cùng thành phần nhưng chúng lại được xếp vào các phân vị có tuổi rất khác nhau, trật tự trầm tích không thống nhất. Chẳng hạn, các thành tạo trầm tích lục nguyên-carbonat xen phun trào phân bố ở Na Sơn được Tạ Hoàng Tinh (1971) 64 xếp vào điệp Cao Vinh (D2cv). Khi hiệu đính loạt tờ Đông Bắc tỷ lệ 1:200.000, Phan Sơn và Vũ Ngọc Hải (1994), Hoàng Xuân Tình (2001) đã xếp chúng vào hệ tầng Tòng Bá (D1tb), Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên có lẽ do mức độ khảo sát địa chất ở các bản đồ tỷ lệ nhỏ còn thưa, đá lộ kém và bị biến chất không đồng đều, hoá thạch thu thập được quá ítdo vậy trật tự địa tầng trong vùng chủ yếu được xác lập nhờ đối sánh với các vùng xung quanh và có nhiều biến động là điều khó tránh khỏi. Chúng tôi chấp thuận quan điểm với các tài liệu mới của [11] đã xếp các thành tạo ở khu vực này vào hệ tầng Bản Cưởm (D1 bc) cùng với các mô tả chi tiết hơn. 2.1. Đặc điểm thạch học 2.1.1. Hệ tầng: Khu mỏ Na Sơn chỉ chiếm một diện tích nhỏ vì vậy địa tầng khá đơn giảm, chủ yếu lộ ra phân hệ 2 của hệ tầng Bản Cưởm (hình 1), bao gồm các biến loại: phiến thạch anh felspat mica, phiến silic, phiến sericit, có đặc trưng phân phiến mỏng, phân bố thành từng tập xen kẽ cùng với ryolit biến đổi. Đá có cấu tạo dải, thế nằm chung 40-45°<70-75°, Hình 1. Sơ đồ địa chất và khoáng sản khu vực mỏ chì-kẽm Na Sơn, tỷ lệ 1: 50.000 65 một số nơi quan sát thấy quặng dạng mạch mỏng, dạng tia nhỏ, thấu kính nhỏ xuyên khớp đều theo mặt phân lớp của đá. 2.1.2. Các thành tạo magma: Phân bố trong khu vực nghiên cứu có khối Khuôn Làng và các thể nhỏ, mạch nhỏ với bề dày dao động từ vài mét đến hàng chục mét và kéo dài hàng trăm mét, chúng được xếp vào phức hệ Tòng Bá với các biến loại như sau: - Granit biotit felspat kiềm dạng porphyr hạt nhỏ, màu xám trắng loang lổ, hồng nhạt với các ban tinh felspat kali màu hồng đỏ nhạt, biotit màu đen nâu, lượng thạch anh nhiều hơn felspat kali, đá có kiến trúc hạt nửa tự hình, granophyr, vi khảm. - Syenit thạch anh biotit dạng porphyr, đá có màu xám phớt hồng với các ổ đốm hoặc dải màu đen của biotit. Thành phần gồm felspat kali dạng ban tinh khá đẳng thước và các ban tinh thạch anh. Đá có cấu tạo dạng porphyr, dạng khối, dạng phân dải, kiến trúc hạt nửa tự hình, aplit, granophyr - Microsyenit thạch anh, microgranit felspat kiềm, các biến loại này là các tập phân bố theo dải dạng tuyến. Đá hạt nhỏ-mịn và ẩn tinh, đôi chỗ có mặt những vi ban tinh felspat kali màu hồng (kiểu ortophyr) và các ban tinh thạch anh (kiểu porphyr thạch anh), ban tinh chỉ chiếm 5-7% thể tích đá. Trong trường hợp này nếu không quan sát kỹ quan hệ địa chất và sự phân bố không gian của chúng thì dễ ngộ nhận đó là các đá phun trào thực sự, đá có kiến trúc đặc trưng vi granophyr, vi khảm , trachyt và microspherolit. - Ngoài ra, ryolit là biến loại chiếm phần lớn trong khu vực nghiên cứu, đá thường có màu xám nhạt, xám phớt hồng hoặc hồng nhạt loang lổ, bị ép nén đến phân phiến thành các dải xen kẽ cùng với các tập đá phiế ... nhìn chung hầu hết không đặc trưng cho mỏ quặng chì-kẽm Na Sơn, chúng đều có giá trị thấp: Sn-6- 46ppm (TB-15.14ppm - phân tích bằng pp TD- MS); Ga nhỏ hơn 0.001% (QPHTNT), Ga-4.3- 48.1ppm (TB-28.13ppm, TD-MS); Ge- 0.1-8.9ppm (TB-1.57ppm, TD-MS); Se-1.7-9.8ppm (TB- 3.91ppm, n=7, TD-MS); Te nhỏ hơn 0.1-0.2ppm (TD-MS). Mặc dù các nguyên tố kể trên đều có giá trị hàm lượng thấp, song riêng với Ga, Te và Ge trong mỏ Na Sơn lại có hàm lượng cao hơn so với các mỏ Chợ Đồn, Chợ Điền và Làng Hích và đây cũng là nét khác biệt cần được quan tâm nghiên cứu các nguyên tố trên ở mỏ Na Sơn. Như vậy, qua các kết quả phân tích ở các mẫu lấy theo các công đoạn khác nhau (từ mẫu nguyên khai, mẫu chọn trước khi tuyển, mẫu nghiền qua máy đến các tinh quặng và đuôi thải,) cho thấy 74 trong quặng vùng mỏ Na Sơn, ngoài các nguyên tố chính có hàm lượng cao (Pb, Zn), trong quặng còn giàu các nguyên tố đi kèm như Cu, Cd, Ag, In, Mo, Sb và một lượng đáng kể các nguyên tố Ga, Re, Rb... - Nhóm đất hiếm. Kết quả phân tích hàm lượng các nguyên tố nhóm TR nhìn chung đều thấp (xem bảng 9), nhất là nhóm đất hiếm nặng, chỉ dao động trong khoảng 0,89ppm (Tm) đến 59,34ppm (Y). Tuy nhiên ở nhóm đất hiếm nhẹ lại có hàm lượng khá cao: Ce (195,26ppm), La (97,27ppm) và Nd (83,14ppm), đặc biệt là trong đuôi thải chúng có giá trị vượt trội hơn hẳn: Ce (412,33ppm), La (189ppm), Nd (140,67ppm),(bảng 10). Bảng 10. Hàm lượng các nguyên tố đất hiếm (REE) trong quặng nguyên khai và trong các mẫu ở các giai đoạn khác nhau Các ng. tố, ppm Mẫu tại các lò (nguyên khai) Mẫu trước khi tuyển (đã chọn) Tinh quặng Pb Tinh quặng Zn Đuôi thải sau máy La 86,94 190,00 39,73 106,80 189,00 Ce 157,24 407,67 79,95 248,30 412,33 Pr 19,67 40,43 8,78 30,17 41,27 Nd 67,38 137,33 29,80 104,17 140,67 Sm 12,23 24,30 5,60 19,07 25,17 Eu 1,81 2,47 0,75 2,53 2,56 Gd 13,47 21,30 5,43 18,23 21,10 Tb 1,82 3,27 0,88 2,77 3,13 Dy 9,17 19,70 5,18 14,87 18,97 Ho 1,78 3,87 1,08 3,17 3,80 Er 4,75 10,67 3,05 8,53 10,47 Tm 0,67 1,50 0,43 1,13 1,53 Yb 3,81 8,57 2,48 6,47 8,90 Lu 0,50 1,20 0,33 0,83 1,27 LREE 345,27 802,20 164,60 511,03 810,99 HREE 35,97 70,07 18,83 56,00 69,17 R2O3 381,23 872,27 183,43 567,03 880,16 Hàm lượng cao của nhóm đất hiếm nhẹ trong đuôi thải có thể giải thích là do sự có mặt của ortit còn lại trong quá trình tuyển nổi vì chúng không được lọc ra cùng các tinh quặng chì và kẽm (ảnh 7 và hàm lượng REE thực hiện trên kính hiển vi điện tử quét). Ảnh 7. Hình ảnh và thành phần hóa học của ortit quan sát trên kính hiển vi điện tử quét. Mẫu NS-08-50. Khoáng vật màu sáng trắng là ortit 75 Theo các báo cáo địa chất về tìm-kiếm thăm dò mỏ chì-kẽm trước đây [2-4] cho rằng vùng mỏ Na Sơn rất có triển vọng về nguyên tố TR, song lại chưa xác định được nguồn gốc và dạng tồn tại của chúng. Với kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khoáng vật orit có mặt trong quặng của mỏ Na Sơn, chính chúng là nguyên nhân dẫn đến nhóm đất hiếm nhẹ có hàm lượng cao, đây là một trong những phát hiện mới làm sáng tỏ sự có mặt các nguyên tố đất hiếm trong khu vực nghiên cứu, vì thế ngoài các nguyên tố đi kèm có giá trị như đã trình bày ở trên thì chính khoáng vật ortit chứa nhóm nguyên tố này cũng cần được quan tâm. 5. Một số nhận định và kết luận 5.1. Về quy luật phân bố quặng Trong đó đới quặng I chủ yếu gặp tụ khoáng sphalerit đặc xít với ít hợp phần của galenit, chalcopyrit và các sulfur khác. Đới quặng II chủ yếu gặp tụ khoáng galenit đặc xít với ít hợp phần của sphalerit, chalcopyrit và các sulfur đa kim khác. Nhìn chung ở cả hai đới quặng đều có thành phần khoáng vật quặng tương tự nhau, chỉ khác nhau về hàm lượng khoáng vật, nguyên tố kim loại quặng. Theo không gian, quặng hóa phân bố theo quy luật sau: - Các đới quặng có sự biến đổi tương quan giữa loại quặng và sự giảm hàm lượng kẽm, tăng hàm lượng chì với sự gia tăng lượng đá phun trào, á phun trào. - Tổng hàm lượng chì - kẽm giảm cùng với sự gia tăng lượng sulfur khác. - Đới quặng I bị khống chế bởi yếu tố thạch học địa tầng. Đới quặng II quan sát thấy quặng thường nằm nơi giao nhau của hệ thống đứt gãy TB - ĐN và á kinh tuyến, trong các đới phá hủy, đới khe nứt bong lớp (phần lớp bị uốn cong), quặng bị khống chế bởi yếu tố cấu trúc. - Sự biến đổi hàm lượng khoáng vật quặng phản ánh rõ sự ảnh hưởng của chúng bởi các pha xâm nhập - tăng cường dung dịch quặng cho các khu vực có điều kiện tích tụ thuận lợi. Theo thời gian, các kết qủa phân tích mẫu khoáng tướng cho thấy: Trong quặng thường quan sát thấy hiện tượng các khoáng vật hình thành ở giai đoạn sớm (magnetit, pyrite) bị thay thế bởi các khoáng vật khác muộn hơn, hiện tượng trên cho phép nhận định magnetit và các sulfur sắt thuộc giai đọan tích tụ sớm, sau đó là giai đọan tích tụ kẽm (chì), đồng, bạc và giai đọan sau là chì (kẽm), đồng, bạc,... Quá trình trên thể hiện sự tăng cường vật chất cho dung dịch quặng trong quá trình vận hành và trao đổi chất. 5.2. Về cơ chế thành tạo quặng Nhìn chung quặng ở mỏ Na Sơn có cấu tạo rất đa dạng, như: xâm tán, ổ, thấu kính và lấp đầy các khe nứt. Ranh giới thân quặng với đá vây quanh lồi lõm, gồ ghề, trong thân quặng còn quan sát thấy chúng có chứa các mảnh tù của đá vây quanh như syenit, microsyenit thạch anh biotit, microgranit felspat kiềm, rõ nhất là ở đới quặng II. Những đặc điểm quặng hóa nêu trên cho thấy khoáng hóa chì-kẽm của mỏ Na Sơn được thành tạo trong giai đoạn nhiệt dịch có liên quan chặt chẽ với các pha xâm nhập nông của phức hệ granitoit á núi lửa Tòng Bá. Các đá vụn núi lửa bị biến đổi có chứa một lượng carbonat là môi trường thuận lợi cho dung dịch nhiệt dịch trao đổi thay thế, thấm lọc trong quá trình tạo quặng Pb-Zn (đới quặng I). Ngoài ra, Hệ thống đứt gãy TB-ĐN, các đới phá hủy kiến tạo giữ vai trò kênh dẫn đồng thời cũng là không gian thuận lợi nhất cho dung dịch nhiệt dịch di chuyển và tập trung. Nhìn chung ở cả hai đới quặng I và II gần như có cùng một tổ hợp địa hoá gồm các nguyên tố tạo quặng chính: Pb - Zn - Ag - Cu - Cd. Song giữa hai đới quặng cũng có sự khác biệt nhau: Đới quặng I nằm trong đá trầm tích núi lửa lục nguyên-carbonat xen phun trào bị biến chất, thân quặng có dạng vỉa, thấu kính, mạch khớp đều với đá vây quanh. Quặng có cấu tạo dải, xâm tán, kiến trúc sót, gặm mòn đặc trưng cho kiểu nguồn gốc nhiệt dịch trao đổi-thay thế. Đới quặng II chủ yếu nằm trong đới phá hủy kiến tạo, ngoài kiểu thân quặng dạng mạch dọc theo đới dăm kết còn phát triển dọc theo khe nứt của đá. Quặng có cấu tạo đốm, dảichúng đặc trưng cho kiểu nhiệt dịch lấp đầy. Về thành phần khoáng vật quặng tương đối đơn giản (sphalerit - galenit - chalcopyrite - pyrite - 76 tetraedrit - pyrotin). Đới quặng II có thành phần phức tạp hơn, chứng tỏ có sự bổ sung thành phần vật chất cho dung dịch quặng. Trong thành phần hoá học có thể thấy rõ lượng kẽm ở đới I lớn hơn chì còn ở đới II thì ngược lại. Khoáng vật spharlerit ở đới I có hiện tượng bị nén ép tạo vết rạn trong khi ở đới II không thấy hiện tượng đó, chứng tỏ sphalerit được hình thành sớm hơn. Từ những đặc điểm này cho thấy quặng chì - kẽm Na Sơn có nguồn gốc nhiệt dịch nhiệt độ trung bình - thấp, có cùng nguồn gốc dung dịch nhưng đã trải qua những giai đoạn lắng đọng khác nhau. Tùy thuộc vào giai đoạn xâm nhiễm của dung dịch mà ở mỗi nơi, mỗi lúc do điều kiện môi trường đã tạo thành tổ hợp quặng về định lượng có khác nhau. Ở giai đoạn đầu của quá trình vận hành, dung dịch nhiệt dịch tích tụ ở đới I, tại đây quá trình tích tụ kim loại mà khởi đầu là sắt và một lượng lớn kẽm, tiếp đó mới đến đồng và chì, sau đó lại xảy ra một đợt xâm nhiễm mới của dung dịch nhiệt dịch đã được tăng cường về mặt thành phần, đồng thời chúng cũng hòa tan vật chất đá vây quanh làm giàu thêm thành phần dung dịch quặng và lại tiếp tục quá trình phân dị mới - quá trình tích tụ vật chất mới lại xảy ra, nhưng quá trình phân dị này xảy ra triệt để hơn và kết quả là thành phần quặng phức tạp hơn- đó chính là đa thành phần quặng ở đới II. Giai đọan đầu của sự phân dị tạo nên tổ hợp thành phần: sphalerit - galenit - pyrit(đới quặng I). Giai đoạn sau tạo nên tổ hợp thành phần: galenit - sphalerit - pyrit - chalcopyrit - tetraedrit ...argentit (đới quặng II). Sau khi giai đoạn tạo quặng nội sinh kết thúc, trong môi trường giàu ôxy hơn nữa thì quặng nội sinh bị biến đổi và các khoáng vật thứ sinh của Pb, Zn, Cu được hình thành: Serucit, smixonit, anglerit, bornit, covelin,chúng tạo các viền bao quanh galenit, sphalerit, chalcopyrite... Nghiên cứu đặc điểm phân bố quặng hoá khu Na Sơn cho thấy mức độ bóc mòn từ đới quặng I sang đới quặng II giảm dần, vì thế đới II còn có triển vọng quặng nằm ở dưới sâu. Tiền đề tìm kiếm quặng chì - kẽm cho khu vực là các tập đá trầm tích lục nguyên - carbonat, các tập đá trầm tích lục nguyên - carbonat xen các lớp phun trào, các thể xâm nhập thuộc phức hệ granitoit á núi lửa Tòng Bá, các đới giao nhau của hệ thống đứt gãy TB - ĐN và á kinh tuyến, đặc biệt chú ý đến cấu trúc vòm của các lớp cận kề đứt gãy, các đới biến đổi nhiệt dịch,... Hoạt động kiến tạo sau tạo quặng chắc chắn đã xảy ra mạnh mẽ, một mặt chúng kế thừa các đứt gãy liên quan tới tạo quặng và tạo nếp uốn, mặt khác chịu ảnh hưởng của đứt gãy phân đới cấu trúc (rìa đới). Như vậy những đứt gãy hướng Đông Bắc - Tây Nam ở khu vực nghiên cứu sẽ là những đứt gãy trượt gây dịch chuyển, do vậy cần phải chú ý tới sự có mặt của chúng trong tìm kiếm cũng như trong quá trình khai thác. Cũng cần phải nói thêm rằng, đặc thù khoáng hoá Pb, Zn và các sulfur khác của mỏ Na Sơn là vô cùng phức tạp và mang tính gián đoạn lớn theo cả chiều ngang lẫn chiều sâu, vì vậy trong quá trình khai thác cần kết hợp với nghiên cứu địa chất cấu trúc. TÀI LIỆU DẪN [1] Trần Đình Bát và nnk, 1989: Báo cáo kết quả tìm kiếm đánh giá quặng chì - kẽm Na Sơn và tìm kiếm sơ bộ khu Tàng Khoảng - Tà Pan - Suối Thâu, Hà Tuyên. Lưu trữ Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. [2] Dovjkov A.E., 1965: Địa chất miền Bắc Việt Nam. Nxb KH và KT, Hà Nội. [3] Vũ Xuân Độ, 1994: Khái quát về sinh khoáng Đông Bắc Bắc Bộ trong Phanerozoi. TC Địa chất, A 221, 24-34. [4] Gospođinov G.R., Nguyễn Nghiêm Minh, Nguyễn Văn Học, 1987: Về các nguyên tố có ích đi kèm trong các thành hệ quặng chì - kẽm ở Việt Nam. TC Địa chất, A 180, 14-19. [5] Ivanov V.V., 1966: Địa hoá của các nguyên tố phân tán Ga, Ge, Cd, In và Tl trong các mỏ nhiệt dịch, Nxb. Nedra, Moskva, 389 tr, (tiếng Nga). [6] Ivanov V.V., Iusko-Xakharova O.E, 1974. Mỏ các nguyên tố phân tán Re, Se, Te, Cd, Ga, Tl, In và Sc. Trong sách “Các mỏ quặng Liên Xô”, tập 3, tr.453-465, Nxb Nedra, Moskva, (tg. Nga). [7] Hoàng Minh và nnk, 1992: Báo cáo đặc điểm phân bố vàng bạc và các nguyên tố hiếm khác trong quặng chì - kẽm vùng Tùng Bá - Na Sơn, Hà Giang. Lưu trữ Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. [8] Nguyễn Văn Nhân và nnk, 1974: Đặc điểm quặng hóa một số mỏ chì - kẽm, antimoan vùng Đông Bắc Việt Nam. Lưu trữ TTTL Địa chất. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, HN. 77 [9] Nguyễn Văn Nhân, 1977: Đặc điểm quặng hoá chì - kẽm Đông Bắc Việt Nam. Lưu trữ Viện TTTL Địa chất, Hà Nội. [10] Nguyễn Văn Nhân, 2000: Một số đặc điểm của sphalerit trong các mỏ và tụ khoáng chì - kẽm thuộc các kiểu khác nhau và ý nghĩa thực tiễn của chúng. Tc. Địa chất, loạt A, số dành cho Khoa Địa chất, Trường ĐH KHTN - ĐHQG HN. [11] Vương Mạnh Sơn và nnk, 2003: Báo cáo địa chất và khoáng sản nhóm tờ Phúc Hạ tỷ lệ 1:50000. Lưu trữ Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. [12] Đặng Trung Thuận, 1998: Địa hóa nguyên tố, Nxb. ĐHQG Hà Nội, 111 tr, Hà Nội. [13] Trần Văn Trị, Nguyễn Đình Uy và nnk, 1976: Sơ đồ kiến tạo miền bắc Việt Nam tỉ lệ 1:1000.000, Tc ĐC, loạt A (123), tr. 1-22, Hà Nội. [14] Trần Văn Trị (chủ biên) và nnk, 2009: Địa chất và Tài nguyên Việt Nam. Nxb Khoa học Tự nhiên và công nghệ. [15] Mai Thế Truyền và nnk,1997: Báo cáo địa chất và khoáng sản nhóm tờ Bảo Lạc tỷ lệ 1:50000. Lưu trữ Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. SUMMARY New reseach results on distributiion and compositional characteristics of the Na Son lead-zinc ore Detailed studies in structural geology, ore body distribution and ore component characteristics of the Na Son mine indicated: - The ore bodies in the first zone mainly composed of sphalerite, minority of galenite, chalcopyrite related to carbonate-volcanic terrigenous sediment interposed of alternative extrusion. The ore body characterized by bed, vein, lenticle fit within surrounding rocks. Ore bed characteristics of replaced hydrothermal structure. The ore body almost denuded as far as bottom. - The ore bodies in the second zone formed by galenite, less of sphalerite, chalcopyrite and ternadite lied in the tectonic fracture zone. The ore body characterized by vein occurred along clastic breccia, rock partings of syenitoid. The ore belong to filled hydrothermal. The top of ore body just exposed and potential part lied in the deep. The ore’s major elements characterized by high concentration of Zn (62.24-66.01 wt.%); Pb (86.76 wt.%), equivalent to rich Zn-Pb mine of the world. The ores have high content of rare elements such as: Cu (1-3 wt.%); Ag (10-123 ppm); Cd (66-1450ppm); In (0.7- 31.5ppm); Mo (110-800 ppm), Sb (10.8-89.3 ppm, some time it reaches 323ppm); Bi (0.6-10.3 ppm), Specific ratios of Zn/Pb in the ore in first zone: 0.25-31.14; in the second zone (0.067-0.92); Zn/Cd in the ore in first zone: 381.82-700; in the second zone (87.5-204.44) presented the ore in first zone denuded in the lower part, the ore in the second zone exposed in the higher part.
File đính kèm:
- mot_so_ket_qua_nghien_cuu_moi_ve_dac_diem_phan_bo_va_thanh_p.pdf