Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam

Để xây dựng một chương trình đào tạo bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn đạt chuẩn về kiến thức và

phù hợp với đối tượng, cần dựa trên các phương diện như: nhiệm vụ truyền tải kiến thức, bản chất, đặc trưng của

môn học, khu biệt môn học với các môn học ngoại ngữ và chuyên ngành, phương pháp giảng dạy và học tập. Anh

văn chuyên ngành Ngữ văn là một bộ môn độc lập nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với các môn học nền tảng, cơ sở

khác. Do đó, khi xây dựng chương trình, cần xác định: mảng kiến thức nào làm phương tiện cho người học, mảng

kiến thức nào làm nền tảng cho tư duy, suy luận và mảng kiến thức nào sẽ là đối tượng hướng đến.

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 8760
Bạn đang xem tài liệu "Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam

Một số định hướng trong việc xây dựng chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn ở Việt Nam
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.4, NO.2 (2014) 
99 
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO 
TẠO ĐẠI HỌC BỘ MÔN ANH VĂN CHUYÊN NGÀNH NGỮ VĂN Ở VIỆT NAM 
SOME ORIENTATIONS IN SETTING THE UNIVERSITY TRAINING PROGRAM OF ENGLISH 
FOR PHILOLOGY IN VIETNAM 
Nguyễn Quốc Thắng 
Trường Đại học Thủ Dầu Một 
Email: thangfr@yahoo.fr 
TÓM TẮT 
Để xây dựng một chương trình đào tạo bộ môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn đạt chuẩn về kiến thức và 
phù hợp với đối tượng, cần dựa trên các phương diện như: nhiệm vụ truyền tải kiến thức, bản chất, đặc trưng của 
môn học, khu biệt môn học với các môn học ngoại ngữ và chuyên ngành, phương pháp giảng dạy và học tập. Anh 
văn chuyên ngành Ngữ văn là một bộ môn độc lập nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với các môn học nền tảng, cơ sở 
khác. Do đó, khi xây dựng chương trình, cần xác định: mảng kiến thức nào làm phương tiện cho người học, mảng 
kiến thức nào làm nền tảng cho tư duy, suy luận và mảng kiến thức nào sẽ là đối tượng hướng đến. 
Từ khóa: định hướng; xây dựng chương trình; Anh văn chuyên ngành Ngữ văn. 
ABSTRACT 
Setting the training program of English for philology achieving right standards of knowledge and being suitable 
for students must be based on aspects such as the transmission of knowledge within a precise distinction of the 
subject: its own nature and its specific features, not to be confused with the subjects of foreign language, teaching or 
learning methodology. English for Philology is a subject of its own. However, it is in tight relationship with other basic 
subjects. Therefore, this paper defines: which parts of knowledge are necessary tools for the students, which parts 
provide them with thinking and reasoning basis, and which parts are their targets. 
Key words: orientation; setting the program; English for Philology. 
1. Đặt vấn đề 
Một trong những năng lực quan trọng của 
sinh viên khi bước vào thị trường lao động trong 
thời đại ngày nay là trình độ ngoại ngữ, cụ thể là 
kỹ năng nghe, nói, đọc và viết tiếng Anh. Hơn thế 
nữa, việc am hiểu các kiến thức chuyên ngành và 
kĩ năng nghiên cứu (bao gồm tiếp thu, suy luận và 
sáng tạo) bằng tiếng Anh là chìa khóa để bước vào 
thời kì hội nhập về khoa học và công nghệ. Trên 
tinh thần đó, từ những năm cuối thế kỉ XX, các 
trường đại học ở Việt Nam bắt đầu chú trọng đến 
việc xây dựng chương trình và giảng dạy bộ môn 
tiếng Anh chuyên ngành. Bắt đầu là tiếng Anh 
chuyên ngành du lịch và công nghệ thông tin – hai 
lĩnh vực liên quan trực tiếp đến kiến thức tiếng 
Anh về chuyên ngành trong kỹ năng thực hành. 
Sau đó, các giáo trình tiếng Anh chuyên ngành 
kinh tế, luật, y – dược, điện tử lần lượt ra đời. 
Và khoảng 5 năm trở lại đây, hầu hết các chuyên 
ngành đào tạo đều có bộ môn tiếng Anh chuyên 
ngành. Xu thế này phát triển đến mức, có những 
trường đại học đã lập hẳn một khoa hoặc tổ tiếng 
Anh chuyên ngành. Tuy nhiên, việc áp dụng chuẩn 
nào để xây dựng khối kiến thức của bộ môn Anh 
văn chuyên ngành cho mỗi lĩnh vực chuyên môn 
một cách khoa học và phù hợp với sinh viên vẫn 
đang là một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. 
Sự khủng hoảng của khối ngành nhân văn ở 
Việt Nam thường được xem xét từ các nguyên 
nhân như: lối sống thực dụng, phương pháp giảng 
dạy một chiều – học tập thụ động, nội dung 
chương trình lạc hậu, năng lực cập nhật và ứng 
dụng công nghệ thông tin truyền thông kém và 
trong đó có khả năng ngoại ngữ, nhất là khả năng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 4, SỐ 2 (2014) 
100 
ngoại ngữ chuyên ngành. Qua khảo sát cho thấy, 
hiện nay, ở Việt Nam, chưa có một giáo trình Anh 
văn chuyên ngành Ngữ văn chính thức, chuyên 
biệt và dùng chung cho các trường đại học. Có một 
số giáo trình như Tiếng Anh dành cho Ngữ văn 
(Huỳnh Công Minh Hùng, Trường Đại học Sư 
phạm TP.HCM, 2000), English For Linguistics 
and Literature (Nguyễn Thành Trung, NXB Đại 
học Quốc gia TP.HCM, 2005) Tuy nhiên, các 
giáo trình này chưa xác định rõ phạm vi cho bộ 
môn là tiếng Anh chuyên ngành Văn học, Ngôn 
ngữ hay Ngữ văn và các đối tượng khác nhau là 
sinh viên chuyên ngành Ngôn ngữ học hay sinh 
viên chuyên ngành Văn học [3], [4]. 
Với những phác thảo trên, bài viết đi vào 
trình bày một số định hướng trong việc xây dựng 
chương trình đào tạo đại học bộ môn Anh văn 
chuyên ngành Ngữ văn. Mục đích của việc vạch ra 
các định hướng là nhằm xây dựng một chương 
trình Anh văn chuyên ngành Ngữ văn phù hợp với 
sinh viên, đúng với tinh thần khoa học và không đi 
chệch quỹ đạo chuyên ngành. 
2. Một số định hướng trong việc xây dựng 
chương trình đào tạo đạo học bộ môn Anh văn 
chuyên ngành Ngữ văn 
2.1. Xác định phạm vi của bộ môn: Anh văn 
chuyên ngành và Anh văn chuyên ngành Ngữ văn 
2.1.1. Anh văn học thuật (Academic English) và 
Anh văn chuyên ngành (Professional English) 
Trước hết, cần phân biệt sự khác nhau giữa 
Anh văn học thuật và Anh văn chuyên ngành. Nội 
dung của Anh văn học thuật là kỹ năng sử dụng 
ngôn ngữ bao gồm cách dùng từ, đặt câu, các 
phương pháp tạo lập, phân tích hay tóm tắt văn 
bản. Còn Anh văn chuyên ngành tập trung vào các 
thuật ngữ chuyên môn, các kiến thức chuyên 
ngành và tư duy chuyên biệt về ngành khoa học 
đó. Ở đây, tiếng Anh trở thành công cụ để tiếp cận 
với đối tượng là kiến thức chuyên ngành. Hai bộ 
phận có liên quan mật thiết với nhau: Anh văn học 
thuật là nền tảng ngôn ngữ cho Anh văn chuyên 
ngành, Anh văn chuyên ngành giúp chúng ta mở 
rộng phạm vi sử dụng ngôn ngữ. 
Anh văn chuyên ngành là học phần cuối 
cùng của các bộ môn trong chương trình đào tạo 
đại học có liên quan đến ngoại ngữ. Tuy nhiên, 
việc sắp xếp theo trình tự thời gian này không chỉ 
nhằm mục đích để cho sinh viên có một khả năng 
tiếng Anh nhất định mà còn liên quan đến sự tích 
lũy những kiến thức chuyên ngành trước khi bắt 
đầu môn học. Hai điều kiện tiên quyết có tầm quan 
trọng ngang nhau trong việc học tập bộ môn là: 
khả nă ... , đặc trưng của 
các kiến thức và phương pháp sẽ được đề cập đến 
trong môn học. Vậy nên, tên của bộ môn bằng 
tiếng Anh là “English applied for Philology” (được 
hiểu một cách rõ ràng hơn là “Tiếng Anh ứng 
1 (1915 – 1980), nhà phê bình văn học và kí hiệu học người 
Pháp. 
2 Trên thực tế, thói quen sử dụng thuật ngữ Ngữ văn ở Việt 
nam là để chỉ Ngôn ngữ và Văn học (Language and 
Literature) chứ không phải là Ngữ văn (Philology). 
dụng chuyên ngành Ngữ văn”) là tối ưu. Việc 
chuyển ngữ môn học sang tiếng Anh một cách 
chung chung như “English for Philology” chưa nói 
lên được đặc trưng của môn học [6], [7]. 
2.2. Anh văn chuyên ngành Ngữ văn hay là việc 
sử dụng các văn bản văn học trong giảng dạy 
ngoại ngữ 
Việc sử dụng các văn bản văn học làm 
phương tiện trong giảng dạy ngoại ngữ là một 
phương pháp truyền thống và phổ biến. Các mẫu 
hội thoại của thể loại kịch thường là tài liệu cho 
các lớp học ngoại ngữ theo phương pháp đóng vai 
(role-playing), các đoạn trích của các tác phẩm văn 
học kinh điển thường là tài liệu cho phần đọc hiểu 
(reading comprehension). Không thể phủ nhận lợi 
ích nhiều mặt của phương pháp này. Lựa chọn 
những đoạn trích văn học thích hợp không những 
mang lại hiệu năng trong việc rèn luyện ngôn ngữ 
mà còn trang bị cho người học các giá trị về về 
văn hóa và văn học. Các công trình nghiên cứu 
đều khẳng định vai trò của văn học trong giảng 
dạy ngoại ngữ như: mở rộng tầm nhìn, nâng cao 
nhận thức văn hóa của người học, nhất là yếu tố 
ngữ nghĩa và văn hóa của ngôn ngữ; kích thích trí 
tưởng tượng và sáng tạo của người học thông qua 
các kiệt tác của văn học Anh – Mỹ [7, 465-496]. 
Chính vì thế, chúng ta dễ bị nhầm lẫn phương 
pháp giảng dạy ngoại ngữ này với giảng dạy bộ 
môn Anh văn chuyên ngành Ngữ văn. Có một sự 
khác biệt khá rõ ràng đối với việc sử dụng các văn 
bản văn học: trong các lớp học ngoại ngữ thì văn 
bản văn học là công cụ, giáo viên sử dụng nó như 
một phương tiện để tiếp cận với đối tượng ngôn 
ngữ nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng nghe – nói – 
đọc – viết ; còn đối với bộ môn Anh văn chuyên 
ngành Ngữ văn: tiếng Anh là công cụ, người dạy 
và người học sử dụng nó như là phương tiện để 
tiếp cận với đối tượng văn học nhằm mục đích 
thông hiểu các kiến thức về văn học và ứng dụng 
các phương pháp phê bình văn học. Không nên 
nhầm lẫn giữa phương tiện và đối tượng, cách thức 
và mục đích của mỗi môn học. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 4, SỐ 2 (2014) 
102 
2.3. Định hướng từ việc xác lập ranh giới giữa ba 
lĩnh vực: tiếng Anh là một ngoại ngữ, chuyên ngành 
Ngôn ngữ học và phân môn Phong cách học 
Việc am hiểu ngôn ngữ Anh ở mức độ xác 
lập được các kiến thức về nó từ các phương diện 
khác nhau của ngôn ngữ học (ngữ âm, từ vựng, 
ngữ pháp, phong cách) của người học là một 
mức độ lí tưởng. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn 
giữa tính ứng dụng của ngôn ngữ (học ngoại ngữ 
để sử dụng nó làm phương tiện) và tính bác học 
trong nghiên cứu ngôn ngữ học (nghiên cứu các 
phạm trù của ngôn ngữ học về một ngôn ngữ) 
trong xây dựng chương trình Anh văn chuyên 
ngành Ngữ văn. Đối tượng của bộ môn không phải 
là các kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Anh. Trong 
việc giảng dạy và học tập bộ môn Anh văn chuyên 
ngành Ngữ văn, kiến thức về ngôn ngữ học đóng 
vai trò quan trọng (xét từ hai phương diện: đặc 
trưng của văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ 
và xu thế nghiên cứu liên ngành). Tuy nhiên, qua 
văn bản bằng tiếng Anh, những kiến thức về ngôn 
ngữ học ở đây phải được tập trung vào lĩnh vực 
Phong cách học (Stylistics) như: các phương tiện 
và biện pháp tu từ, đặc trưng và chức năng của tín 
hiệu ngôn ngữ, hệ thống các sự kiện phong cách, 
đặc trưng cấu trúc của văn bản nghệ thuật – các 
kiến thức có tính chất công cụ trong kiến giải văn 
bản nghệ thuật. Phong cách học đuợc xem là “cầu 
nối” của hai chuyên ngành Ngôn ngữ và Văn học. 
2.4. Định hướng từ tính thống nhất, logic nhưng 
không lặp lại kiến thức trong chương trình đào tạo 
Có một câu hỏi cần được đặt ra: Anh văn 
chuyên ngành Ngữ văn hay là sự diễn dịch kiến 
thức các môn học chuyên ngành bằng tiếng Anh? 
Câu hỏi này xuất phát từ tình trạng: vì trình độ 
tiếng Anh của sinh viên còn yếu, việc hiểu các 
kiến thức chuyên ngành mới vốn đã hóc búa lại 
phải tiếp cận bằng tiếng Anh nên sinh viên gặp rất 
nhiều khó khăn. Với giải pháp tình thế, có thể giáo 
viên sẽ dạy lại cho người học các kiến thức chuyên 
ngành mà họ đã được tiếp cận ở các môn học khác 
bằng tiếng Anh. Nhưng như thế, thực ra là đang 
diễn dịch các kiến thức họ đã học bằng tiếng Anh. 
Vậy nên, khi xây dựng chương trình, cần rà soát 
lại chương trình đào tạo của sinh viên, căn cứ vào 
tiêu chí lựa chọn các văn bản văn học và phê bình 
văn học được viết bằng ngôn ngữ gốc là tiếng Anh 
để tránh tình trạng này. 
2.5. Định hướng từ việc xác định về tính thuần 
túy của ngôn ngữ văn học 
Dịch thuật văn học có thể chuyển tải nội 
dung và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm từ 
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, khó 
có thể chuyển tải “tính thuần túy của ngôn ngữ văn 
học” (pure literary language) – những cảm thức về 
ngôn ngữ của chủ thể sáng tạo và tiếp nhận được 
hình thành từ một cấu trúc văn hóa nhất định. Việc 
tiếp cận một tác phẩm văn học dịch có thể mang 
lại nhiều “lỗ hổng” về các giá trị của ngôn từ nghệ 
thuật. Chính vì thế, lựa chọn các tác phẩm được 
các tác giả viết bằng ngôn ngữ gốc là tiếng Anh 
(của hai nền văn học Anh – Mỹ) đưa vào chương 
trình trở nên một định hướng cần thiết. 
Đó là chưa nói đến việc, nếu có thể, cần tạo 
ra cho sinh viên Ngữ văn một cách đọc chuyên 
biệt khi tiếp cận các tác phẩm văn học nước ngoài: 
đọc một tác phẩm văn học dịch thông qua quá 
trình đi từ bản gốc đến bản dịch. 
Thời lượng môn tiếng Anh chuyên ngành 
theo quy định trong các chương trình khung trình 
độ đại học được Bộ GD-ĐT ban hành là 6 đơn vị 
học trình (tương đương với 90 tiết). Vậy nên, có 
thể phân chia bộ môn Anh văn chuyên ngành 
thành hai học phần. Học phần Anh văn chuyên 
ngành Ngữ văn 1 sẽ hướng đến mục đích cung cấp 
cho sinh viên kiến thức về: các nền văn học, chủ 
đạo là văn học Anh – Mỹ, các thuật ngữ tiếng Anh 
về một nền văn học, các giai đoạn văn học, tác giả 
và tác phẩm văn học. Vì thời lượng có hạn, cần ưu 
tiên cho việc giới thiệu một cách khái quát văn học 
sử Anh – Mỹ cùng những tác giả, tác phẩm tiêu 
biểu của hai nền văn học này. Thông qua đó, việc 
tổng kết một cách hệ thống cho sinh viên về cách 
đọc hiểu và phân tích các văn bản văn học đã được 
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.4, NO.2 (2014) 
103 
rèn luyện qua các bài học trở nên cần thiết. 
2.6. Định hướng từ việc cung cấp một cái nhìn 
toàn cảnh về các trường phái lí luận, phê bình 
văn học 
Thông qua việc tạo nền tảng cho sinh viên 
bằng cách trình bày những kiến thức tổng quan về 
các phân môn của khoa nghiên cứu văn học như: 
Phê bình văn học là gì? (What is literary 
criticism?), Lí luận văn học là gì? (What is literary 
theory?) và Lịch sử văn học là gì? (What is literary 
history?), chúng ta cần tập trung tìm hiểu các 
trường phái lý luận, phê bình văn học Âu – Mỹ thế 
kỉ XX có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chuyển biến 
của khoa nghiên cứu văn học. Tùy vào thời lượng, 
có thể giới thiệu cho sinh viên một cách tổng quan 
về các trường phái phê bình và cách áp dụng các lí 
thuyết đó vào một lĩnh vực nghiên cứu văn học cụ 
thể như: Chủ nghĩa hình thức (Formalism), New 
Criticism (Phê bình mới), Structuralism, 
Poststructuralism/Deconstruction (Chủ nghĩa cấu 
trúc, Hậu cấu trúc/Giải cấu trúc), Reader Theory 
(Thuyết người đọc), Psychoanalysis (Phân tâm 
học), Postcolonialism (Chủ nghĩa hậu thực dân), 
Postmodernism (Chủ nghĩa hậu hiện đại). Bên 
cạnh đó, nên giới thiệu và tổng kết một cách hệ 
thống cho sinh viên cách phân tích và chuyển ngữ 
các tài liệu lí luận, phê bình văn học. Định hướng 
này có thể là cơ sở cho việc xây dựng học phần 
Anh văn chuyên ngành Ngữ văn 2. 
2.7. Như vậy, thực chất của 2 định hướng vừa 
nêu (2.5 và 2.6) dựa trên cơ sở xác lập tính logic 
giữa hai học phần: Anh văn chuyên ngành Ngữ 
văn 1 và Anh văn chuyên ngành Ngữ văn 2 
Nếu việc lựa chọn các kiến thức về các 
trường phái lí luận phê bình văn học ở học phần 2 
phải dựa trên cơ sở các kiến thức về văn học Anh, 
Mỹ mà sinh viên đã được làm quen ở học phần 1 
thì việc lựa chọn các tác phẩm văn học cho học 
phần 1 cần hướng đến việc tạo ra những nền tảng 
để trình bày và phân tích các trường phái lí luận, 
phê bình văn học ở học phần 2. Trong nghiên cứu 
văn học, quá trình phân tích, tiếp cận tác phẩm, tác 
giả văn học bao giờ cũng đi trước quá trình tiếp 
cận các văn bản lí luận, phê bình văn học. Việc tạo 
ra những kinh nghiệm tự thân trong phân tích tác 
phẩm là cơ sở cho việc tiếp cận các lí thuyết của 
các trường phái lí luận, phê bình văn học. Chẳng 
hạn, từ việc phân tích tác phẩm “The Catcher in 
the Rye” (Bắt trẻ đồng xanh) [2] của Jerome David 
Salinger3 ở học phần 1, có thể vận dụng các lí 
thuyết về chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại 
(Modernism and Postmodernism) để tiếp cận tác 
phẩm này trên một tinh thần và phương pháp mới 
ở học phần 2. 
2.8. Định hướng từ việc xác định nhiệm vụ của 
môn học: cung cấp kiến thức chuyên ngành và 
tạo lập kĩ năng tư duy bằng ngoại ngữ 
Rõ ràng, chúng ta đang cung cấp các kiến thức 
về Ngữ văn cho sinh viên bằng một ngôn ngữ là 
ngoại ngữ đối với họ. Chính vì thế, việc rèn luyện kĩ 
năng về: các phương pháp tóm tắt, phân tích, lí giải 
và trình bày về một văn bản nghệ thuật; các phương 
pháp suy luận về một văn bản lí luận và phê bình văn 
học; cách trích dẫn, kỹ năng tìm kiếm và tham khảo 
các tài liệu khoa học về chuyên ngành Ngữ văn; kỹ 
năng xây dựng và tóm tắt (abstract) một tiểu luận 
bằng tiếng Anh là cần thiết. Cho nên, cần xây dựng 
một phần kiến thức về phương pháp phân tích văn 
bản ở mỗi học phần. Tương ứng với tính chất của các 
kiến thức được đề cập đến ở học phần 1, chúng ta có 
thể xây dựng một phần kiến thức về các phương 
pháp tổng quan để phân tích một văn bản văn học 
(General methodology to English literary text 
analysis). Nội dung này có thể được triển khai với 
các ý tưởng như: General classification of texts 
(Literary genre of text, “Pragmatic” function - what 
is the purpose of the text?), To summarize a text 
(Answering the “6 W’s”: ‘‘what’’, ‘‘why’’, ‘‘where’’, 
‘‘when’’, ‘‘who’’, ‘‘to whom’’ and ‘‘How’’), 
Hypothesis for analysis (The general structure of a 
passage, The use of recurrent vocabulary, The use of 
recurrent imagery). 
3 (1919 – 2010), nhà văn Mỹ, tác giả của các tác phẩm 
khác như: Pretty Mouth and Green My Eyes (1951), De 
Daumier-Smith’s Blue Period (1952), Teddy (1953), Franny 
and Zooey (1961). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 4, SỐ 2 (2014) 
104 
 Tương ứng với tính chất của các kiến thức 
được đề cập đến ở học phần 2, chúng ta có thể xây 
dựng một phần kiến thức về phương pháp đọc hiểu 
phê bình văn học (Methodology for reading and 
understanding literary criticism) bằng việc trả lời 
các câu hỏi thông qua một văn bản cụ thể như: On 
what sort of approach to Literature does the author 
base his ‘‘Criticism’’? What is the author’s 
hypothesis in the article? What, precisely, is the 
corpus, the author’s hypothesis is based on? 
3. Kết luận 
Như vậy, trong định hướng xây dựng 
chương trình, cần đặt bộ môn Anh văn chuyên 
ngành Ngữ văn ở các chiều kích khác nhau: Ngôn 
ngữ là một phương tiện truyền đạt và tính ứng 
dụng của ngôn ngữ trong đặc thù của bộ môn, mối 
quan hệ giữa Ngôn ngữ và Văn học, bản gốc và 
bản dịch của một tác phẩm văn học, bước chuyển 
của Phê bình văn học từ hướng “phê bình tiểu sử” 
sang “phê bình văn bản”. Anh văn chuyên ngành 
Ngữ văn trở thành giao điểm của kĩ năng ngoại 
ngữ, kiến thức chuyên ngành và những nội dung 
chuyên ngành được tiếp cận ở một chiều kích và tư 
duy mới: chiều kích tiếp cận văn bản nghệ thuật 
bằng tính ứng dụng của ngôn ngữ và tư duy bằng 
ngoại ngữ. 
Một chương trình Anh văn chuyên ngành 
Ngữ văn đúng nghĩa và phù hợp sẽ giúp sinh viên 
nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn trong 
giảng dạy và nghiên cứu văn học. Và điều đó cũng 
có nghĩa là chúng ta đang bồi dưỡng cho sinh viên 
niềm đam mê trau dồi ngoại ngữ trong học tập và 
nghiên cứu văn học. 
Trong tình trạng hiện nay, một khi sinh viên 
chưa thoát khỏi thói quen: những gì được học liên 
quan đến ngoại ngữ, nghĩa là họ đang học ngoại 
ngữ thì việc giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành sẽ 
còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì thế, ngay từ năm 
học thứ nhất, các giảng viên bộ môn khác có thể 
lồng ghép những thuật ngữ tiếng Anh chuyên 
ngành vào bài giảng của mình hoặc yêu cầu sinh 
viên tìm đọc một cuốn giáo trình tiếng Anh nào đó 
để tham khảo. Chiến lược “mỗi giảng viên bộ môn 
là một giảng viên tiếng Anh chuyên ngành nghiệp 
dư” không chỉ mang lại điều kiện thuận lợi cho 
quá trình đào tạo, lợi ích cho người học mà còn tạo 
điều kiện cho các giảng viên tiếp cận các thành tựu 
khoa học mới trên thế giới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Roland Barthes (1964), Qu’est-ce que la critique// Essais critiques, Seuil, Paris. 
[2] Jerome David Salinger (1971), The Catcher in the Rye, Little, USA. 
[3] Huỳnh Công Minh Hùng (2000), Tiếng Anh dành cho Ngữ văn, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh. 
[4] Nguyễn Thành Trung (2005), English For Linguistics and Literature, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
[5] Paran, A (2008), “The role of literature in instructed foreign language learning and teaching: An 
evidence-based survey”, Language Teaching, 41/4, 465-496. 
[6] Karla Grierson (2008), Foreign language applied for Literature: English, Université Toulouse II-Le 
Mirail, France. 
[7] Hélène Beauchamp (2009), Lengua extranjera aplicada a la literatura: Español, Université 
Toulouse II-Le Mirail, France. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dinh_huong_trong_viec_xay_dung_chuong_trinh_dao_tao_d.pdf