Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh của các câu lạc bộ tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Thái Bình
Môi trường ngoại ngữ rất cần thiết cho sự phát triển kĩ năng ngoại ngữ cho học sinh (HS) trong thời đại mới. Quyết định số 2080/QĐ-TTg về việc điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025 ban hành ngày 22/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra một trong những nội dung là tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và xã hội để giáo viên (GV), giảng viên, thành viên gia đình và người học (HS, sinh viên ) cùng học ngoại ngữ. Để đạt được mục tiêu của Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020, đồng thời khắc phục nhược điểm nêu trên trong công tác dạy học tiếng Anh hiện nay, Đề án đã đề ra nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, trong đó có việc “xây dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, tạo động cơ học tập ngoại ngữ của thế hệ trẻ Việt Nam”. Lê Văn Canh (2015) cũng nêu một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh là “xây dựng các hoạt động học ngoài lớp học”. Câu lạc bộ tiếng Anh (CLB TA) chính là một trong các hoạt động học ngoài lớp học như thế. CLB TA chính là môi trường hỗ trợ việc dạy và học tiếng Anh rất hiệu quả. Khi tham gia CLB TA, HS không có cảm giác gò bó như đang học mà là đang gặp gỡ, trao đổi, giao lưu với bạn bè. Việc thực hành kĩ năng nghe, nói trong CLB TA sẽ giúp HS trau dồi năng lực nghe, nói, giúp việc học tiếng Anh hiệu quả hơn. HS ở lứa tuổi từ lớp 6 đến lớp 9 (theo hệ thống giáo dục ở Việt Nam) có những thay đổi về tâm - sinh lí nhất định, đôi khi gây nhiều khó khăn trong các giờ học trên lớp cho GV trong nhà trường. Võ Thị Minh Chí (2015) cho biết: “hứng thú học tập, sự quan tâm đến các vấn đề nhà trường của HS tuổi thiếu niên có phần bị giảm sút” do “quan hệ của trẻ với việc học không diễn ra trực tiếp mà được khúc xạ thông qua các mối quan hệ phức tạp của trẻ với người lớn (trong đó có thầy, cô giáo) và với bạn bè của chúng”. HS có xu hướng giảm việc học trong lớp học mà tiếp thu kiến thức tốt hơn khi được trò chuyện, trao đổi với bạn bè, người lớn. Từ đó, HS có nhu cầu “được tiếp nhận kiến thức ở ngoài nhà trường”. CLB TA sẽ giúp HS thỏa mãn nhu cầu được trao đổi, giao tiếp, nêu ra ý kiến, suy nghĩ của riêng mình, ý kiến của các em được ghi nhận, được coi trọng khi tự mình xây dựng chương trình CLB TA, được chọn Đề tài, hình thức tổ chức, được thể hiện quan điểm qua các bài thuyết trình, vở kịch, được thể hiện khả năng của mình thông qua các hoạt động sáng tác và thể hiện bài hát, bài thơ, trong CLB TA. Như vậy, hoạt động CLB TA rất phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi của HS
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh của các câu lạc bộ tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Thái Bình
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 195-200 ISSN: 2354-0753 195 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHE, NÓI CHO HỌC SINH CỦA CÁC CÂU LẠC BỘ TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH Hà Thu Nguyệt Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình Email: hathunguyet@gmail.com Article History Received: 15/3/2020 Accepted: 29/4/2020 Published: 08/5/2020 Keywords methods, communicative skills, English-speaking club, secondary student, Thai Binh city. ABSTRACT English speaking clubs with effective methods will provide more chances for the students to practice the language. The research focuses on the effectiveness of English speaking clubs with three methods. Most of the students (82,5%) and teachers (75%) felt positive about the clubs. The results of the tests on communicative skills were convinced. The listening and speaking skills marks rose by 9,1% and 10,7% respectively for grade 7 students, and 8,7% and 10,6% respectively for grade 8 students. Then, English speaking clubs with the given methods are obviously proved to have positive effects on the secondary students. These activities should be held periodically at secondary schools. 1. Mở đầu Môi trường ngoại ngữ rất cần thiết cho sự phát triển kĩ năng ngoại ngữ cho học sinh (HS) trong thời đại mới. Quyết định số 2080/QĐ-TTg về việc điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025 ban hành ngày 22/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra một trong những nội dung là tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và xã hội để giáo viên (GV), giảng viên, thành viên gia đình và người học (HS, sinh viên) cùng học ngoại ngữ. Để đạt được mục tiêu của Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020, đồng thời khắc phục nhược điểm nêu trên trong công tác dạy học tiếng Anh hiện nay, đề án đã đề ra nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, trong đó có việc “xây dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, tạo động cơ học tập ngoại ngữ của thế hệ trẻ Việt Nam”. Lê Văn Canh (2015) cũng nêu một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh là “xây dựng các hoạt động học ngoài lớp học”. Câu lạc bộ tiếng Anh (CLB TA) chính là một trong các hoạt động học ngoài lớp học như thế. CLB TA chính là môi trường hỗ trợ việc dạy và học tiếng Anh rất hiệu quả. Khi tham gia CLB TA, HS không có cảm giác gò bó như đang học mà là đang gặp gỡ, trao đổi, giao lưu với bạn bè. Việc thực hành kĩ năng nghe, nói trong CLB TA sẽ giúp HS trau dồi năng lực nghe, nói, giúp việc học tiếng Anh hiệu quả hơn. HS ở lứa tuổi từ lớp 6 đến lớp 9 (theo hệ thống giáo dục ở Việt Nam) có những thay đổi về tâm - sinh lí nhất định, đôi khi gây nhiều khó khăn trong các giờ học trên lớp cho GV trong nhà trường. Võ Thị Minh Chí (2015) cho biết: “hứng thú học tập, sự quan tâm đến các vấn đề nhà trường của HS tuổi thiếu niên có phần bị giảm sút” do “quan hệ của trẻ với việc học không diễn ra trực tiếp mà được khúc xạ thông qua các mối quan hệ phức tạp của trẻ với người lớn (trong đó có thầy, cô giáo) và với bạn bè của chúng”. HS có xu hướng giảm việc học trong lớp học mà tiếp thu kiến thức tốt hơn khi được trò chuyện, trao đổi với bạn bè, người lớn. Từ đó, HS có nhu cầu “được tiếp nhận kiến thức ở ngoài nhà trường”. CLB TA sẽ giúp HS thỏa mãn nhu cầu được trao đổi, giao tiếp, nêu ra ý kiến, suy nghĩ của riêng mình, ý kiến của các em được ghi nhận, được coi trọng khi tự mình xây dựng chương trình CLB TA, được chọn đề tài, hình thức tổ chức, được thể hiện quan điểm qua các bài thuyết trình, vở kịch, được thể hiện khả năng của mình thông qua các hoạt động sáng tác và thể hiện bài hát, bài thơ, trong CLB TA. Như vậy, hoạt động CLB TA rất phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi của HS cấp THCS, vì thế sẽ khai thác tối đa thế mạnh của lứa tuổi, giúp HS phát triển năng lực nghe, nói tiếng Anh tốt hơn. Bài viết đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói của HS các CLB TA ở các trường THCS trên địa bàn TP. Thái Bình. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Tổng quan nghiên cứu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 195-200 ISSN: 2354-0753 196 2.1.1. Kĩ năng nghe, nói tiếng Anh Kĩ năng giao tiếp bao gồm kĩ năng tiếp nhận và kĩ năng sản sinh. Trong đó, kĩ năng nghe thuộc nhóm các kĩ năng tiếp nhận, kĩ năng nói thuộc nhóm các kĩ năng sản sinh thông tin (Harmer, 2007, tr 246). Kĩ năng nghe là kĩ năng nghe hiểu ngôn ngữ nói (Segura, 2012, tr 10). Kĩ năng nghe hiểu rất quan trọng vì nó là yếu tố chính để con người có thể đạt được mục tiêu giao tiếp. Theo Nunan (2003, tr 23), kĩ năng nghe bao gồm 6 giai đoạn: nghe, chú ý, hiểu, nhớ, đánh giá và phản hồi. Sáu giai đoạn này diễn ra nhanh và theo đúng thứ tự trên. Kĩ năng nói là kĩ năng sản sinh ngôn ngữ, là kĩ năng diễn đạt những điều người nói muốn truyền đạt bằng ngôn ngữ (Segura, 2012, tr 19). Kĩ năng nói đòi hỏi sự kết hợp nhiều yếu tố, nhiều kĩ năng nói phụ vì vậy kĩ năng nói đòi hỏi được trau dồi, luyện tập nhiều nhất trong số bốn kĩ năng. Ngoài việc luyện tập cách diễn đạt, trình bày ý, cách sắp xếp ý, như trong kĩ năng viết, người học cần phải luyện tập để có thể có phát âm đúng, chuẩn các phụ âm, nguyên âm, trọng âm và ngữ điệu, biết giảm âm, nối âm như người bản địa, biết sử dụng thành ngữ, ngôn ngữ nói đúng theo bối cảnh cụ thể. Vì vậy, kĩ năng nói là một trong những kĩ năng thực hành ngôn ngữ khó. Nhiều người dành rất nhiều thời gian học tiếng Anh nhưng vẫn chưa thể nói tiếng Anh một cách thuần thục (Segura, 2012; Nunan, 2003). Kĩ năng giao tiếp rất quan trọng trong việc học tiếng Anh hiện nay. Mục đích của việc học tiếng Anh chính là để có thể giao tiếp được bằng tiếng Anh thông qua hình thức âm thanh hoặc văn bản (Nunan, 2003). Richards (2008) khẳng định rằng “việc học tiếng Anh thành công hay không thể hiện qua khả năng nghe, nói của người ... p để đảm bảo tất cả HS đều có thể tham gia; 2) GV chú ý phân đội, nhóm một cách hợp lí, đảm bảo đội, nhóm nào cũng có HS khá, giỏi, trung bình; 3) Cho điểm và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân hoặc các đội; 4) Hướng dẫn trò chơi cần rõ ràng, cụ thể giúp HS hiểu và bị lôi cuốn tham gia vào trò chơi; 5) Đảm bảo đại đa số HS có cơ hội trực tiếp tham gia vào trò chơi; 6) Thời gian chơi phù hợp, đảm bảo duy trì được sự hứng thú của HS trong suốt quá trình chơi. 2.2.2. Biện pháp bài hát tiếng Anh Bài hát tiếng Anh là những bài hát được hát bằng tiếng Anh. Giai điệu của bài hát sẽ giúp tạo hứng thú cho HS, giúp HS dễ nhớ, dễ thuộc và dễ thực hành việc nghe, nói tiếng Anh thông qua việc hát bài hát tiếng Anh. Cakir (1999) cho rằng, tâm lí con người nói chung và HS lứa tuổi vị thành niên nói riêng rất thích ca hát. Đó là lí do khiến các GV trên toàn thế giới đều sử dụng bài hát tiếng Anh trong quá trình dạy học. Neil (2011) và Ara (2009) đều cho rằng bài hát tiếng Anh chính là giáo cụ của GV dạy tiếng Anh vì các hoạt động dạy học kết hợp với bài hát tiếng Anh sẽ giúp HS thực hành các kĩ năng ngôn ngữ, giúp dạy và luyện từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, phát âm tiếng Anh, giúp HS học về văn hóa các nước nói tiếng Anh và quan trọng là tạo hứng thú, giúp HS chủ động, tích cực rèn luyện tiếng Anh khi tham gia các hoạt động này. Nguyên tắc chọn bài hát tiếng Anh để thiết kế hoạt động rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ cho HS là: bài hát tiếng Anh cần có chủ đề phù hợp với chủ đề, kiến thức HS học trên lớp, phù hợp với tâm lí lứa tuổi của HS; bài hát cần có âm thanh rõ ràng, tốc độ phù hợp để HS nghe và hát theo; lời bài hát cần tự nhiên và phù hợp; giai điệu bài hát hấp dẫn, lôi cuốn HS; và nếu có thể nên sử dụng các bài hát có thể kết hợp với phương pháp TPR (phương pháp phản hồi bằng ngôn ngữ cơ thể). VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 195-200 ISSN: 2354-0753 198 2.2.3. Biện pháp thuyết trình bằng tiếng Anh Thuyết trình bằng tiếng Anh là hoạt động HS trình bày, phân tích, giải thích về một vấn đề bằng tiếng Anh. Phương pháp thuyết trình bằng tiếng Anh giúp HS sử dụng kiến thức về từ vựng, cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh để thực hành kĩ năng nghe, nói thông qua việc trình bày, nghe và trả lời các câu hỏi của khán giả. Đây là phương pháp học đòi hỏi HS phải biết sử dụng tổng hợp các kiến thức kĩ năng ngôn ngữ của mình, vì vậy đây là một phương pháp tương đối khó với HS. Tuy nhiên, đây là một phương pháp hiệu quả, giúp HS có cơ hội thể hiện năng lực tiếng Anh, tự tin thể hiện bản thân mình, tạo động lực cho HS cố gắng hoàn thiện kiến thức và kĩ năng ngôn ngữ. Vì vậy, GV cần phải áp dụng biện pháp này trong hoạt động CLB TA và đồng thời làm giảm độ khó của phương pháp này thông qua các nguyên tắc sau: 1) Nội dung thuyết trình có chủ đề và ngôn ngữ phù hợp với trình độ kiến thức của đại đa số HS tham gia CLB TA; 2) HS cần sử dụng các công cụ hỗ trợ như sử dụng vật thật, tranh ảnh, máy vi tính và máy chiếu, ngôn ngữ cơ thể nhằm giúp bài thuyết trình sinh động và dễ hiểu hơn; 3) HS cần giao lưu với các thành viên khác trong quá trình thuyết trình bằng cách đặt câu hỏi giao lưu, đồng thời thiết kế thêm trò chơi liên quan đến bài thuyết trình nhằm tạo động lực giúp các thành viên khác chú ý hơn trong quá trình thuyết trình; 4) Thời gian thuyết trình nên hạn chế trong khoảng 4-7 phút nhằm giúp HS duy trì hứng thú trong suốt quá trình thuyết trình. 2.3. Thực nghiệm sư phạm 2.3.1. Mục tiêu Chúng tôi đã tiến hành áp dụng các biện pháp trên cho HS của các CLB TA và điều tra với mục tiêu đánh giá hiệu quả của các biện pháp chuyên môn với việc nâng cao hiệu quả việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho HS của các CLB TA ở một số trường THCS trên địa bàn TP. Thái Bình. 2.3.2. Tổ chức thử nghiệm Chúng tôi đã chọn Trường THCS Kỳ Bá (TP. Thái Bình) và Trường THCS An Dục (huyện Quỳnh Phụ) là nơi để áp dụng thử nghiệm các biện pháp đã đề xuất với 8 GV, cán bộ quản lí và 120 HS (60 HS lớp 7 ở Trường THCS Kỳ Bá và 60 HS lớp 8 ở Trường THCS An Dục). Đối tượng HS được chọn lựa ngẫu nhiên bao gồm các trình độ, năng lực kĩ năng nghe, nói tiếng Anh đa dạng. Chúng tôi cũng giúp nhà trường tổ chức 3 buổi sinh hoạt CLB TA (mỗi buổi kéo dài 45 phút) có áp dụng thử nghiệm 3 biện pháp chuyên môn đã nêu ở trên: trò chơi ngôn ngữ, bài hát tiếng Anh và thuyết trình bằng tiếng Anh. Cụ thể, 3 buổi sinh hoạt CLB TA ở Trường THCS Kỳ Bá lần lượt là vào tiết 1 sáng ngày 10/9/2018; tiết 1 sáng ngày 24/9/2018 và tiết 1 sáng ngày 15/10/2018; 3 buổi sinh hoạt CLB TA của Trường THCS An Dục lần lượt là vào tiết 1 sáng ngày 11/9/2018; tiết 4 sáng ngày 21/9/2018 và tiết 3 chiều ngày 4/10/2018. Chủ đề của 3 buổi sinh hoạt CLB TA là “My friends”, “Personal information” và “My house”. Sau mỗi buổi sinh hoạt, chúng tôi đã tiến hành điều tra với các đối tượng GV, cán bộ quản lí và HS với 3 hình thức điều tra là: trả lời phiếu điều tra, trả lời câu hỏi phỏng vấn và làm bài kiểm tra kĩ năng nghe, nói. Phiếu điều tra và câu hỏi phỏng vấn tập trung điều tra vào các biện pháp chuyên môn chính như sau: nội dung sinh hoạt; hiệu quả của 3 biện pháp đề xuất; động lực nghe, nói; cơ hội rèn luyện kĩ năng nghe, nói; năng lực nghe, nói; khó khăn khi tổ chức, biện pháp nâng cao hiệu quả sinh hoạt và hiệu quả chung của các CLB TA. HS được làm bài kiểm tra kĩ năng nghe, nói trước và sau mỗi lần áp dụng các biện pháp đề xuất. Kết quả của các bài kiểm tra này được tổng hợp, phân tích để làm cơ sở đánh giá về khả năng nghe, nói của HS trước và sau khi áp dụng thử nghiệm. Bài kiểm tra gồm 2 phần thi: kĩ năng nghe và kĩ năng nói. Bài thi nghe được chia thành 2 phần: dành cho HS lớp 7 và HS lớp 8, mỗi phần đều gồm 10 câu hỏi trắc nghiệm hoặc trả lời ngắn. Bài thi nói gồm 2 phần dành cho cả 2 đối tượng thuộc lớp 7 và lớp 8: phần 1 gồm 50 câu hỏi về thông tin cá nhân để giám khảo lựa chọn và hỏi thí sinh 5-7 câu hỏi và phần 2 gồm 12 chủ đề để thí sinh bốc một trong các chủ đề và nói trong 3 phút. 2.3.3. Đánh giá kết quả Sau buổi sinh hoạt CLB TA thứ nhất, phần lớn HS (82,5%) và GV, cán bộ quản lí (75%) hài lòng với hoạt động CLB TA nói chung. Tuy nhiên, một số HS phàn nàn về việc CLB TA được tổ chức ở sân khấu trước sân trường khiến HS có tâm lí è dè, ngại ngùng khi phải tham gia hoạt động trước đám đông, có tâm lí sợ nói sai, làm sai nên chưa thực sự nhiệt tình tham gia các hoạt động của CLB TA. Sau buổi sinh hoạt CLB TA lần thứ hai, phần lớn GV, cán bộ quản lí và HS cảm thấy hài lòng với hoạt động CLB TA. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, có một số HS đề xuất nên để các em trực tiếp lên kế hoạch tổ chức CLB TA tiếp theo. Việc HS trực tiếp lên kế hoạch, chỉ đạo và thực hiện sẽ giúp các hoạt động của CLB TA phù hợp với sở thích của HS hơn. GV và cán bộ quản lí chỉ nên là người góp ý và duyệt kế hoạch tổ chức CLB TA cho HS. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 195-200 ISSN: 2354-0753 199 Sau buổi sinh hoạt CLB TA lần thứ ba, kết quả sơ bộ cho thấy, đại đa số GV, cán bộ quản lí và HS cảm thấy hài lòng về hoạt động CLB TA. Kết quả điều tra của lần thử nghiệm thứ ba mang lại hiệu quả như sau: 1) HS thích được thực hành kĩ năng nghe, nói tiếng Anh ở CLB TA. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức CLB. 2) Ba biện pháp chuyên môn: trò chơi ngôn ngữ, bài hát tiếng Anh và thuyết trình bằng tiếng Anh đều mang lại sự hào hứng cho HS, giúp HS tự tin rèn luyện kĩ năng nghe, nói và từ đó nâng cao năng lực kĩ năng nghe, nói của các em. 3) Năng lực nghe, nói của HS trong CLB TA ở các trường THCS mới ở mức trung bình. Năng lực nghe, nói của HS nông thôn và thành phố không có sự chênh lệch lớn, cơ hội phát triển năng lực của các em là như nhau. Cần phát triển song song kĩ năng nghe, nói cho HS trong CLB TA, trong đó chú trọng hơn kĩ năng nghe. 3) Cán bộ quản lí, GV và HS đều chưa hài lòng với kết quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói tại các CLB TA và đều mong muốn việc thực hành nghe, nói tiếng Anh thường xuyên ở CLB sẽ giúp HS cải thiện thực trạng. 4) Hoạt động của CLB TA phải tính đến những biện pháp có tính chuyên môn sao cho đa số HS có cơ hội được rèn luyện kĩ năng nghe, nói. Cụ thể: chọn chủ đề nghe, nói phù hợp sở thích để kích thích HS giao tiếp; có những hình thức nghe, nói sinh động, thú vị: trò chơi, bài hát, đóng vai, thuyết trình, 5) Phải có sự kết hợp giữa biện pháp chuyên môn và biện pháp tổ chức để CLB TA thực sự phát huy tác dụng. Kết quả bài kiểm tra kĩ năng nghe của 2 khối HS lớp 7 và lớp 8 được thể hiện ở bảng 1: Bảng 1. Kết quả bài kiểm tra nghe trước và sau thử nghiệm Khối lớp Điểm trung bình Đạt được Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Khối 7 5,5 6,0 0,5 (9,1%) Khối 8 4,6 5,0 0,4 (8,7%) Kết quả bài kiểm tra kĩ năng nói của 2 khối HS lớp 7 và lớp 8 được thể hiện ở bảng 2: Bảng 2. Kết quả bài kiểm tra nói trước và sau thử nghiệm Khối lớp Điểm trung bình Đạt được Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Khối 7 5,6 6,2 0,6 (10,7%) Khối 8 4,7 5,2 0,5 (10,6%) HS khối 7 ở Trường THCS Kỳ Bá (TP. Thái Bình) có điểm kĩ năng nghe, nói đều cao hơn so với HS Trường THCS An Dục (huyện Quỳnh Phụ). Có thể vì có nền tảng kiến thức, kĩ năng cao hơn nên hiệu quả của các biện pháp đối với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói của HS khối 7 Trường THCS Kỳ Bá cũng tốt hơn. Cụ thể, so sánh giữa bài kiểm tra trước và sau khi áp dụng các biện pháp, kĩ năng nghe của HS khối 7 Trường THCS Kỳ Bá tăng 0,5 điểm (9,1%) và kĩ năng nói tăng 0,6 điểm (10,7%). HS khối 8 Trường THCS An Dục (huyện Quỳnh Phụ) có điểm trước nghiên cứu thấp hơn, tuy nhiên các biện pháp áp dụng trong CLB TA đã giúp các em tiến bộ. Kĩ năng nghe của HS lớp 8 Trường THCS An Dục tăng 0,4 điểm (8,7%) và kĩ năng nói tăng 0,5 điểm (10,6%). Như vậy, năng lực nghe, nói của HS hai khối đều tăng lên đáng kể sau khi áp dụng các biện pháp trong hoạt động CLB TA. Cụ thể hơn, sự tiến bộ của HS qua từng bài kiểm tra được thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1. Điểm kiểm tra kĩ năng nghe Biểu đồ 2. Điểm kiểm tra kĩ năng nói 0 1 2 3 4 5 6 7 Trước TN KT 1 KT 2 KT 3 Đ iể m s ố Khối 8 Khối 7 0 1 2 3 4 5 6 7 Trước TN KT 1 KT 2 KT 3 Đ iể m s ố Khối 7 Khối 8 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 195-200 ISSN: 2354-0753 200 Bảng điểm kiểm tra cụ thể cho thấy điểm kiểm tra kĩ năng nghe, nói của HS tăng nhẹ sau khi tham gia CLB TA lần 1 và tăng nhanh sau lần tham gia CLB TA lần 2 và đặc biệt là sau lần tham gia CLB TA lần 3. Như vậy, có thể thấy hiệu quả của các biện pháp sẽ cao hơn nếu HS được tham gia nhiều CLB TA và tần suất tổ chức CLB TA là gần nhau hơn, cụ thể trong thử nghiệm này là 2 tuần/ lần. Hiệu quả này có thể do ở hoạt động CLB TA lần thứ 3, các em được sinh hoạt tại phòng học với số lượng HS ít, đó là môi trường làm cho HS thấy gần gũi, thân thiện, tự tin, chủ động thể hiện khả năng nghe, nói của mình. 3. Kết luận Nghiên cứu đã khẳng định hiệu quả tích cực của các biện pháp chuyên môn đối với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho HS của các CLB TA ở một số trường THCS TP. Thái Bình. Việc nâng cao năng lực nghe, nói qua các hoạt động của CLB TA sẽ giúp HS thêm tự tin, thêm yêu thích việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói; từ đó giúp các em ngày càng hoàn thiện năng lực tiếng Anh của mình, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc tổ chức các CLB TA một cách định kì cho HS các trường THCS là điều rất cần thiết cũng như các nhà trường cần chú trọng thực hiện các biện pháp chuyên môn đã nêu trên một cách hiệu quả, phù hợp. Tài liệu tham khảo Ara, S. (2009). Use of songs, rhymes and games in teaching English to young learners in Bangladesh. The Dhaka University Journal of Linguistics, 2(3), 161-172. Cakir, A. (1999). Musical activities for young learners of EFL. The Internet TESL Journal, 5(11). Retrieved from Đặng Thị Ngọc Huyền (2016). Một số biện pháp tổ chức hoạt động Câu lạc bộ tiếng Anh ở Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ. Sáng kiến kinh nghiệm, Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ. Harmer, J. (2007). The practice of English language teaching (4th ed.). London: Longman. Kathleen, F. M. (2015). The English club handbook: A guide for English club leaders. Kinshasa, République Démocratique du Congo. Lê Văn Canh (2015). Đi tìm giải pháp khả thi cho việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh trong điều kiện khó khăn. Kỉ yếu hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên các trường cao đẳng miền núi phía Bắc”, Lạng Sơn. McCallum, G. P. (1980). 101 word games for students of English as a second or foreign language. New York: Oxford University Press. Michael West (1960). Teaching English in difficult circumstances: Teaching English as a foreign language. London: Longman. Morgan, L. Z. (2000). Class size and second-language instruction at the post-secondary level: A survey of the literature and a plea for further research. Italica, 77(4), 449-472. Neil, T. M. (2011). Using songs effectively to teach English to young learners. Language Education in Asia, 2(1), 134-141, DOI:10.5746/LEiA/11/V2/I1/A11/Millington. Nunan, D. (2003). The impact of English as a global language on educational policies and practices in the Asia- Pacific region. TESOL Quarterly, 37(4), 589-613. Richards, J. C. (2008). Teaching listening and speaking - From theory to practice. New York: Cambridge University Press. Richards, J. C. (2009). The changing face of TESOL. Plenary Speech at TESOL Convention and Exhibit. Retrieved from https://www.professorjackrichards.com/wp-content/uploads/changing-face-of-TESOL.pdf. Segura A. R. (2012). The importance of teaching listening and speaking skills. Retrieved from https://www.ucm.es/ data/cont/docs/119-2015-03-17-12.RocioSeguraAlonso2013.pdf. Võ Thị Minh Chí (2015). Các biểu hiện tâm lí trong hoạt động học tập của học sinh ở tuổi thiếu niên. Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
File đính kèm:
- mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_ren_luyen_ki_nang_nghe_no.pdf