Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở

sinh viên. Nghiên cứu được tiến hành trên 400 sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bằng Bảng hỏi năng lực cảm xúc -

xã hội (SECQ) và Thang đánh giá sàng lọc lo âu, trầm cảm, stress –DASS 21. Kết quả cho thấy năng lực cảm xúc - xã hội có

tương quan nghịch ở mức trung bình với nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên.

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 1

Trang 1

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 2

Trang 2

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 3

Trang 3

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 4

Trang 4

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 5

Trang 5

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 4800
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên

Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.943 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 157-162 | 157 
Cite this article as: Vo, V. N. H. & Kieu, T. T. T. (2021). The 
relationship between social emotional competence and risk 
of mental disorder among students. UED Journal of Social 
Sciences, Humanities and Education, 11(1), 157-162. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.943 
MỐI LIÊN HỆ GIỮA NĂNG LỰC CẢM XÚC - XÃ HỘI 
VÀ NGUY CƠ RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở SINH VIÊN 
Võ Văn Ngọc Huy, Kiều Thị Thanh Trà 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Võ Văn Ngọc Huy - Email: vovanngochuydl@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12-05-2021; ngày nhận bài sửa: 14-6-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở 
sinh viên. Nghiên cứu được tiến hành trên 400 sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bằng Bảng hỏi năng lực cảm xúc - 
xã hội (SECQ) và Thang đánh giá sàng lọc lo âu, trầm cảm, stress –DASS 21. Kết quả cho thấy năng lực cảm xúc - xã hội có 
tương quan nghịch ở mức trung bình với nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên. 
Từ khóa: mối liên hệ; năng lực cảm xúc - xã hội; rối loạn tâm thần; nguy cơ rối loạn tâm thần. 
1. Đặt vấn đề 
Rối loạn tâm thần được xem là “bệnh” của thời đại 
hiện nay. Có thể hiểu rối loạn tâm thần là “một hành vi 
có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng tâm lý xuất 
hiện ở một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn 
chức năng, làm gia tăng hành vi nguy cơ tự hủy hoại 
bản thân, làm cá nhân mất khả năng kiểm soát bản 
thân.” (Association, 1994). Theo ước tính, gánh nặng 
bệnh tật toàn cầu năm 2001 của tổ chức Y tế Thế giới 
(WHO) có tới 450 triệu người mắc các rối loạn tâm thần 
hoặc rối loạn hành vi (World Health Organization, 
2003). Tại Việt Nam, sử dụng bộ công cụ sàng lọc dịch 
tễ học SDQ25 dành cho trẻ em và SRQ20 dành cho 
người lớn, tỷ lệ nghi ngờ có rối nhiễu tâm lý được báo 
cáo từ 14%-20% ở trẻ em và từ 20% đến 37,5% ở người 
lớn (Tran, 2007). 
Năng lực cảm xúc - xã hội là tổ hợp các năng lực 
gồm: Nhận thức bản thân; Nhận thức xã hội; Làm chủ 
bản thân; Làm chủ các mối quan hệ; Quyết định có 
trách nhiệm, giúp con người biết cách ứng xử với chính 
mình, với người khác, với các mối quan hệ và hoạt động 
một cách hiệu quả. 
Một số nghiên cứu cho thấy năng lực cảm xúc - xã 
hội tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của 
mỗi con người. Năng lực này giúp cải thiện các hành vi 
xã hội, giảm những vấn đề về hành vi và cảm xúc gây 
đau khổ (Durlak et al., 2011; Durlak & Wells, 1997). Ở 
sinh viên năng lực cảm xúc - xã hội giúp giảm bạo lực, 
tăng cường hợp tác và giải quyết vấn đề (McCuin, 
2012). Năng lực cảm xúc - xã hội ảnh hưởng tích cực 
đến sức khỏe tâm thần và sự khỏe mạnh toàn diện của 
cá nhân và là yếu tố dự báo mạnh nhất cho sự khỏe 
mạnh toàn diện (Goodman et al., 2015). Ở Việt Nam, 
năng lực cảm xúc – xã hội là một hướng nghiên cứu 
mới, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung thực 
trạng năng lực cảm xúc – xã hội và phát triển năng lực 
cảm xúc - xã hội. 
Trong bối cảnh rối loạn tâm thần đã và đang ảnh 
hưởng không nhỏ đến cuộc sống của mỗi cá nhân và là 
gánh nặng của cộng đồng, việc nghiên cứu mối liên hệ 
giữa năng lực cảm xúc - xã hội và rối loạn tâm thần là 
cần thiết. Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về mối 
liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối 
loạn tâm thần của các tác giả như Alissa Goodman, 
Sheila T. Fitzgerald, Birgitta Kimber, Pilar Aguilar, 
Yehui Wang, Zhaoxi Yang, Joseph Ciarrochi Trong 
Võ Văn Ngọc Huy, Kiều Thị Thanh Trà 
158 
khi đó tại Việt Nam tới thời điểm hiện tại chưa có một 
nghiên cứu nào về mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - 
xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần. Vì thế, nghiên cứu 
“Mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ 
rối loạn tâm thần ở sinh viên” là rất cần thiết. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Mẫu nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu gồm 400 sinh viên được lựa chọn 
thuận tiện từ hai trường: Đại học Sư phạm Thành phố 
Hồ Chí Minh và Đại học Khoa học tự nhiên – Đại học 
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp 
nghiên cứu chính của đề tài nhằm khảo sát thực trạng năng 
lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh 
viên từ đó xác định mối liên hệ giữa năng lực cảm xúc - xã 
hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên. Bảng hỏi có 2 
nội dung chính gồm phần A – Đánh giá năng lực cảm xúc - 
xã hội ở sinh viên bằng bảng hỏi năng lực cảm xúc - xã hội 
(SECQ) của Mingming Zhou & Jessie Ee. Phần B – Đánh 
giá nguy cơ lo âu, trầm cảm, stress bằng thang đánh giá lo 
âu, trầm cảm, stress – DASS 21. 
- Bảng hỏi năng lực cảm xúc - xã hội SECQ 
Bảng hỏi năng lực cảm xúc – xã hội (SECQ) được 
Mingming Zhou và Jessie Ee xây dựng gồm 25 câu để 
khảo sát năng lực cảm xúc – xã hội được xây dựng trên 
cơ sở lý thuyết của tổ chức CASEL. Bảng hỏi bao gồm 
5 mặt biểu hiện: nhận thức bản thân; nhận thức xã hội; 
làm chủ bản thân; làm chủ các mối quan hệ; quyết định 
có trách nhiệm. Người trả lời chọn 1 trong 6 mức độ 
phù hợp với bản thân. Trong đó, có 6 mức độ phù hợp 
tăng dần từ ít phù hợp nhất đến hoàn toàn phù hợp. 
Cách đánh giá năng lực cảm xúc – xã hội: dựa vào mô 
hình chuỗi liên tục, mức độ năng lực cảm xúc – xã hội 
được phân chia thành 5 mức độ được thể hiện ở Bảng 1. 
Bảng 1. Phân loại tổng điểm năng lực cảm xúc - xã hội 
Tổng điểm 5 mặt Mức độ 
≤50 Rất thấp 
51 – 75 Thấp 
76 – 100 Trung bình 
101 – 125 Khá 
>125 Cao 
Trong nghiên cứu này kiểm định Cronbach’s Alpha 
cho kết quả α = 0,884 với điều kiện α ≥ 0,65 cũng cho 
thấy bảng hỏi Năng lực cảm xúc - xã hội (SECQ) có độ 
tin cậy cao. 
- Thang đánh giá lo âu, trầm cảm, str ...  15 – 18 8 – 9 10 – 13 
Trung bình Nguy cơ trung bình, cần theo dõi và hỗ trợ tâm lý 19 – 25 10 – 14 14 – 20 
Nghiêm trọng Nguy cơ cao, cần hỗ trợ tâm lý càng sớm càng tốt 26 – 33 15 – 19 21 – 27 
Rất nghiêm 
trọng 
Nguy cơ rất cao, cần hỗ trợ tâm lý ngay 
lập tức 34 trở lên 20 trở lên 28 trở lên 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 157-162 
| 159 
Trong nghiên cứu này, kiểm định Cronbach Alpha 
cho kết quả α = 0,874 với điều kiện α ≥ 0,65 cũng cho 
thấy DASS 21 là một công cụ có độ tin cậy cao. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Kết quả nghiên cứu về năng lực cảm xúc - 
xã hội của sinh viên 
Bảng 3. Mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
Toàn mẫu 
Tần 
số 
Tỷ lệ 
% 
Mức độ 
năng lực 
cảm xúc - 
xã hội 
Rất thấp 2 0,5 
Thấp 15 3,7 
Trung bình 141 35,2 
Khá 209 52,3 
Cao 33 8,3 
Điểm trung bình năng lực 
cảm xúc - xã hội 103,34 
Độ lệch chuẩn 16,074 
Xét trên toàn mẫu khảo sát, trung bình tổng điểm 
năng lực cảm xúc - xã hội của SV là 103,34 điểm, mức 
khá. Xét trên tỷ lệ từng mức độ năng lực cảm xúc - xã 
hội, hơn một nửa mẫu nghiên cứu có năng lực cảm xúc - 
xã hội ở mức khá (209 SV - 52,3%), mức trung bình là 
35,2% (141 SV), mức cao là 8,3% (33 SV). SV có năng 
lực cảm xúc - xã hội ở mức thấp và rất thấp chiếm tỷ lệ 
rất thấp lần lượt là 3,7% (15 SV) và 0,5% (2 SV). Với 
kết quả trên cho thấy phần lớn SV có năng lực cảm xúc 
- xã hội ở mức khá, SV đã biết cách cư xử với chính 
mình, với người khác, với các mối quan hệ và hoạt động 
một cách hiệu quả. 
3.2. Kết quả nghiên cứu về nguy cơ rối nhiễu 
tâm lý của sinh viên 
Từ Bảng 4 có thể thấy, điểm trung bình nguy cơ 
stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên lần lượt là 
16,31 (ĐLC = 7,69); 12,05 (ĐLC = 6,76); 10,04 (ĐLC 
= 7,37) tương ứng mẫu nghiên cứu có nguy cơ stress 
thấp, nguy cơ lo âu mức trung bình và nguy cơ trầm 
cảm ở mức thấp. 
Bảng 4. Điểm trung bình nguy cơ rối loạn tâm thần ở 
sinh viên 
Rối loạn tâm thần Điểm trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Stress 16,31 7,69 
Lo âu 12,05 6,67 
Trầm cảm 10,04 7,37 
3.3. Kết quả phân tích tương quan Pearson 
giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối 
loạn tâm thần ở sinh viên 
Mối liên hệ gữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy 
cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên được xác định bằng 
tương quan Pearson. Kết quả được thể hiện ở Bảng 5: 
Bảng 5. Hệ số tương quan Pearson giữa năng lực cảm 
xúc - xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần cở sinh viên 
 Nguy cơ 
Stress 
Nguy cơ 
lo âu 
Nguy cơ 
trầm cảm 
Năng lực cảm 
xúc - xã hội -0,35** -0,38 ** -0,40** 
(**) có ý nghĩa với α = 0,01 
Phân tích tương quan Pearson cho thấy Năng lực 
cảm xúc – xã hội có tương quan nghịch với nguy cơ 
stress, lo âu và trầm cảm. 
Cụ thể, Năng lực cảm xúc – xã hội có tương quan 
nghịch với nguy cơ stress ở mức trung bình (α = 
0,01; r= -0,35). Có nghĩa là sinh viên có năng lực 
cảm xúc - xã hội càng cao thì nguy cơ stress càng 
thấp và ngược lại. Tương tự khi xét ở 2 cặp tương 
quan còn lại cũng cho thấy, năng lực cảm xúc – xã 
hội tương quan nghịch ở mức trung bình với nguy cơ 
lo âu (α = 0,01; r= -0,38) và nguy cơ trầm cảm (α = 
0,01; r= -0,40). Có nghĩa là sinh viên có năng lực 
cảm xúc - xã hội càng cao thì nguy cơ lo âu và trầm 
cảm càng thấp và ngược lại. 
3.4. Kết quả so sánh điểm trung bình nguy cơ 
rối loạn của sinh viên theo các nhóm mức độ 
năng lực cảm xúc - xã hội 
Bảng 6 cho thấy điểm số nguy cơ rối nhiễu tâm lý 
có xu hướng giảm dần từ nhóm mức độ năng lực cảm 
Võ Văn Ngọc Huy, Kiều Thị Thanh Trà 
160 
xúc - xã hội rất thấp đến nhóm có năng lực cảm xúc - xã 
hội cao. 
Bảng 6. Điểm số nguy cơ rối loạn tâm thần theo các 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
Mức độ năng 
lực cảm xúc - 
xã hội 
Nguy cơ 
stress 
Nguy cơ 
lo âu 
Nguy cơ 
trầm cảm 
Rất thấp 19,00 16,00 25,00 
Thấp 19,07 16,00 16,53 
Trung bình 19,52 14,85 12,68 
Khá 14,47 10,46 8,03 
Cao 12,79 8,42 7,58 
So sánh điểm trung bình nguy cơ stress theo các 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
Kết quả ở Bảng 6 cho thấy sinh viên thuộc nhóm 
năng lực cảm xúc - xã hội mức trung bình, mức thấp và 
mức rất thấp có điểm số nguy cơ stress gần như bằng 
nhau (~19). Trong đó, sinh viên thuộc nhóm năng lực 
cảm xúc - xã hội mức trung bình có điểm số nguy cơ 
stress cao nhất (19,52) và đây cũng là nhóm có điểm số 
cao nhất trong năm nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã 
hội. Sinh viên thuộc nhóm có năng lực cảm xúc - xã hội 
mức cao có điểm số nguy cơ stress thấp nhất (12,79), kế 
đến là sinh viên thuộc nhóm năng lực cảm xúc - xã hội 
mức khá (14,47). Đồng thời kết quả trên cho thấy sinh 
viên thuộc nhóm năng lực cảm xúc - xã hộI mức trung 
bình, thấp, và mức rất thấp có nguy cơ stress ở mức 
trung bình, sinh viên ở hai nhóm còn lại không có nguy 
cơ stress. 
Kiểm nghiệm Anova cho F = 12,723; sig = 0,00 
cho thấy sự chênh lệch điểm số trên có ý nghĩa về mặt 
thống kê. Hậu kiểm Scheffe tìm thấy sự khác biệt điểm 
số nguy cơ stress nằm ở hai cặp “năng lực cảm xúc - xã 
hội trung bình” và “năng lực cảm xúc - xã hội khá”, cặp 
“năng lực cảm xúc - xã hội trung bình” và “năng lực 
cảm xúc - xã hội cao”. 
So sánh điểm trung bình nguy cơ lo âu theo các 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
So sánh điểm trung bình nguy cơ lo âu theo các 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
cho thấy điểm trung bình nguy cơ lo âu giảm dần từ 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội rất thấp đến 
nhóm năng lực cảm xúc - xã hội cao. Điểm số trên cũng 
cho thấy sinh viên thuộc nhóm có năng lực cảm xúc - xã 
hội mức cao có nguy cơ lo âu thấp, sinh viên thuộc 
nhóm năng lực cảm xúc - xã hội mức trung bình và mức 
khá có nguy cơ lo âu mức trung bình, sinh viên có năng 
lực cảm xúc - xã hội mức thấp và rất thấp có nguy cơ lo 
âu cao. 
Kiểm nghiệm Anova cho thấy xu hướng giảm dần 
điểm trung bình nguy cơ lo âu từ nhóm mức độ năng lực 
cảm xúc - xã hội rất thấp đến nhóm năng lực cảm xúc - 
xã hội cao có ý nghĩa về mặt thống kê với F=14,796; sig 
= 0,00. Hậu kiểm Scheffe cho thấy sự khác biệt trên 
nằm ở các cặp “năng lực cảm xúc - xã hội thấp” và 
“năng lực cảm xúc - xã hội khá”, cặp “năng lực cảm xúc 
- xã hội thấp” và “năng lực cảm xúc - xã hội cao”, cặp 
“năng lực cảm xúc - xã hội trung bình” và “năng lực 
cảm xúc - xã hội khá”, cặp “năng lực cảm xúc - xã hội 
trung bình” và “năng lực cảm xúc - xã hội cao”. 
So sánh điểm trung bình nguy cơ trầm cảm theo các 
nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội của sinh viên 
Kết quả ở Bảng 6 cho thấy điểm trung bình nguy cơ 
trầm cảm giảm dần từ nhóm mức độ năng lực cảm xúc - 
xã hội rất thấp đến nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã 
hội cao. Bên cạnh đó điểm số trên cho biết sinh viên 
thuộc nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã hội mức khá 
và cao không có nguy cơ trầm cảm, sinh viên có năng 
lực cảm xúc - xã hội mức trung bình có nguy cơ trầm 
cảm thấp, sinh viên có năng lực cảm xúc - xã hội mức 
thấp có nguy cơ trầm cảm ở mức trung bình và sinh viên 
thuộc nhóm năng lực cảm xúc - xã hội mức rất thấp có 
nguy cơ trầm cảm cao. 
Kiểm định Welch cho kết quả sig = 0,004 cho thấy 
có sự khác biệt ý nghĩa giữa điểm trung bình nguy cơ 
trầm cảm ở các mức độ năng lực cảm xúc - xã hội. Hậu 
kiểm Scheffe thể hiện sự khác biệt ở các cặp “năng lực 
cảm xúc - xã hội rất thấp” và “năng lực cảm xúc - xã hội 
khá”, cặp “năng lực cảm xúc - xã hội rất thấp” và “năng 
lực cảm xúc - xã hội cao”, cặp “năng lực cảm xúc - xã 
hội thấp” và “năng lực cảm xúc - xã hội khá”, cặp “năng 
lực cảm xúc - xã hội thấp” và “năng lực cảm xúc - xã 
hội cao”, cặp “năng lực cảm xúc - xã hội trung bình” và 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 157-162 
 161 
“năng lực cảm xúc - xã hội khá”, cuối cùng là cặp “năng 
lực cảm xúc - xã hội trung bình” và “năng lực cảm xúc - 
xã hội cao”. 
Qua kết quả so sánh nguy cơ rối loạn tâm thần của 
sinh viên theo các nhóm mức độ năng lực cảm xúc - xã 
hội cho thấy điểm số nguy cơ rối loạn tâm thần có xu 
hướng giảm dần theo mức độ năng lực cảm xúc - xã hội 
từ rất thấp đến cao thể hiện mối liên hệ tương quan 
nghịch giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối 
loạn tâm thần của sinh viên. 
Xu hướng đối nghịch giữa năng lực cảm xúc - xã 
hội và nguy cơ rối loạn tâm thần của sinh viên thể hiện 
rõ qua Biểu đồ 1: 
Biểu đồ 1. Mối liên hệ giữa nguy cơ rối loạn tâm thần 
và năng lực cảm xúc - xã hội ở sinh viên 
Quan sát Biểu đồ 1 cho thấy đường biểu diễn nguy 
cơ rối loạn tâm thần của sinh viên theo các nhóm mức 
độ năng lực cảm xúc - xã hội có dạng là những đường 
chéo đi từ cao đến thấp thể hiện xu hướng đối nghịch 
giữa nguy cơ rối loạn tâm thần và năng lực cảm xúc - xã 
hội của sinh viên. Sinh viên có mức độ năng lực cảm 
xúc - xã hội càng cao, nguy cơ rối loạn tâm thần của 
sinh viên càng thấp; ngược lại sinh viên có năng lực 
cảm xúc - xã hội càng thấp, nguy cơ rối loạn tâm thần 
của sinh viên càng cao. Bên cạnh đó, xu hướng đối 
nghịch giữa năng lực cảm xúc - xã hội và nguy cơ rối 
loạn tâm thần thể hiện rõ nhất qua đường biểu diễn nguy 
cơ trầm cảm theo các nhóm mức độ năng lực cảm xúc - 
xã hội. Điều này cho thấy trong ba rối nhiễu được 
nghiên cứu, năng lực cảm xúc - xã hội đối nghịch nhiều 
nhất với nguy cơ trầm cảm của sinh viên. 
Tóm lại, kết quả so sánh điểm nguy cơ rối loạn tâm 
thần của sinh viên theo các nhóm mức độ năng lực cảm 
xúc - xã hội cho thấy năng lực cảm xúc - xã hội và nguy 
cơ rối loạn tâm thần của sinh viên có xu hướng đối 
nghịch nhau. Những sinh viên thuộc nhóm mức độ năng 
lực cảm xúc - xã hội khá và cao không có nguy cơ stress 
và nguy cơ trầm cảm. Đối với nguy cơ lo âu, sinh viên 
thuộc nhóm năng lực cảm xúc - xã hội cao có nguy cơ 
lo âu thấp, sinh viên có thể dễ dàng tự mình vượt qua 
tình huống gây lo âu mà không cần sự hỗ trợ tâm lý. 
Nguy cơ rối loạn tâm thần ở mức trung bình và cao xuất 
hiện ở những nhóm sinh viên có năng lực cảm xúc - xã 
hội từ mức trung bình trở xuống. Kết quả này đã được 
tìm thấy trong nghiên cứu về mối liên hệ giữa năng lực 
cảm xúc - xã hội và sức khỏe tâm thần của Joseph 
Ciarochi năm 2003. Ở nghiên cứu này cũng cho thấy 
trầm cảm, lo âu xuất hiện ở cá nhân có điểm năng lực 
cảm xúc - xã hội thấp (Ciarrochi et al., 2003). 
4. Kết luận 
Qua khảo sát và phân tích mối liên hệ giữa năng lực 
cảm xúc – xã hội và nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh 
viên có thể kết luận năng lực cảm xúc - xã hội và nguy 
cơ stress, lo âu, trầm cảm ở sinh viên tương quan nghịch 
mức trung bình Những sinh viên có năng lực cảm xúc 
xã hội mức khá và cao cho thấy không có nguy cơ 
stress, lo âu, trầm cảm hoặc có nguy cơ mức thấp, 
ngược lại những sinh viên có năng lực cảm xúc xã hội 
mức trung bình và thấp hơn cho thấy có nguy cơ stress, 
lo âu, trầm cảm từ mức trung bình cho đến nguy cơ cao. 
Từ kết quả nghiên cứu trên có thể gián tiếp giảm 
nguy cơ rối loạn tâm thần ở sinh viên thông qua việc 
nâng cao năng lực cảm xúc – xã hội. Các trường đại học 
nên có chương trình nâng cao năng lực cảm xúc – xã hội 
hoặc tích hợp nội dung này vào các học phần ở giảng 
đường đại học. Bên cạnh đó, nhà trường và bản thân 
sinh viên cần chủ động trang bị cách thức ứng phó với 
khó khăn tâm lý nhằm giảm thiểu nguy cơ rối loạn tâm 
thần góp phần nâng cao sức khỏe tâm thần. 
Tài liệu tham khảo 
Association, A. P. (1994). Diagnostic and Statistical 
Manual of Mental Disorders, 4th Edition. 
Ciarrochi, J., Scott, G., Deane, F. P., & Heaven, P. C. L. 
(2003). Relations between social and emotional 
competence and mental health: A construct 
validation study. Personality and Individual 
Võ Văn Ngọc Huy, Kiều Thị Thanh Trà 
162 
Differences, 35(8), 1947–1963. https://doi.org/10. 
1016/S0191-8869(03)00043-6 
Durlak, J. A., Weissberg, R. P., Dymnicki, A. B., 
Taylor, R. D., & Schellinger, K. B. (2011). The 
impact of enhancing students’ social and 
emotional learning: A meta-analysis of school-
based universal interventions. Child Development, 
82(1), 405–432. https://doi.org/10.1111/j.1467-
8624.2010.01564.x 
Durlak, J. A., & Wells, A. M. (1997). Primary 
Prevention Mental Health Programs: The Future is 
Exciting. American Journal of Community 
Psychology, 25(2), 233–243. https://doi.org/10. 
1023/A:1024674631189 
Goodman, A., Joshi, H., Nasim, B., & Tyler, C. (2015). 
Social and emotional skills in childhood and their 
long-term effects on adult life. University College 
London. 
McCuin, D. (2012). Teachers working with social 
emotional competence: Students’ perspectives on 
the positive effects [Dissertation]. Colorado State 
University. 
Tran, T. (2007). Mental disorder - Illness of the modern 
life (Rối nhiễu tâm trí - Bệnh thời hiện đại). 
Health and Life Newspaper, 26. 
World Health Organization. (2003). Investing in mental 
health. World Health Organization. 
THE RELATIONSHIP BETWEEN SOCIAL EMOTIONAL COMPETENCE AND RISK OF 
MENTAL DISORDER AMONG STUDENTS 
Vo Van Ngoc Huy, Kieu Thi Thanh Tra 
Ho Chi Minh City University of Education, Vietnam 
Author corresponding: Vo Van Ngoc Huy. Email: vovanngochuydl@gmail.com 
Article History: Received on 15th May 2021; Revised on 14th June 2021; Published on 17th June 2021 
Abstract: This research aims to identify the relationship between social-emotional competence and the risk of mental disorders 
among Students. The study was conducted with 400 students in Ho Chi Minh city, using the Social Emotional-Competence 
Questionnaire (SECQ) and the Depression Anxiety Stress Scale (DASS 21) as the main data collection tools. The results revealed a 
medium negative correlation between the social-emotional competence and the risk of mental disorder among the participating 
students. 
Key words: correlation; social-emotional competence; mental disorder; risk of mental disorder. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_he_giua_nang_luc_cam_xuc_xa_hoi_va_nguy_co_roi_loan.pdf