Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy
Là một hệ sinh thái ở vị trí tiên phong, nơi tiếp giáp biển-lục địa nhiệt đới, nên rừng
ngập mặn luôn phải đối diện nhiều nguy cơ đến từ biển, đặc biệt là do tác động của biến đổi khí
hậu và nước biển dâng. Lún là vấn đề địa phương có thể làm trầm trọng thêm tác động của các tai
biến này. Bài báo trình bày kết quả quan trắc lún nông được thực hiện bằng kỹ thuật bàn xoay
(SET-MH) do Cục Địa chất Hoa Kỳ phát triển, tại vùng lõi VQG Xuân Thủy. Kết quả đo cho thấy
từ thời điểm 30/12/2012 tốc độ sa bồi trung bình là 2,9 cm/năm và tốc độ lún là -3,4 cm/năm.
Phương pháp quan trắc lún này vốn đơn giản và chi phí thấp cung cấp thêm nhiều thông tin bổ ích
giúp xác định rõ xu hướng chung của vùng ven biển đồng bằng sông Hồng và giúp hoạch định
việc bảo vệ khu dự trữ sinh quyển ở ven biển đồng bằng này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 1 Lún nền - thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy Lê Xuân Thuyên1,*, Phạm Vũ Ánh2, Phạm Văn Cự3, Nguyễn Viết Cách2, Lê Đình Anh Vũ1 1 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh 2 Vườn Quốc Gia Xuân Thủy, Giao Thuỷ, Nam Định, Việt Nam 3 Đại học Quốc Gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 13 tháng 12 năm 2017 Chỉnh sửa ngày 24 tháng 6 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 9 năm 2018 m Là một hệ sinh thái ở vị trí tiên phong, nơi tiếp giáp biển-lục địa nhiệt đới, nên rừng ngập mặn luôn phải đối diện nhiều nguy cơ đến từ biển, đặc biệt là do tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Lún là vấn đề địa phương có thể làm trầm trọng thêm tác động của các tai biến này. Bài báo trình bày kết quả quan trắc lún nông được thực hiện bằng kỹ thuật bàn xoay (SET-MH) do Cục Địa chất Hoa Kỳ phát triển, tại vùng lõi VQG Xuân Thủy. Kết quả đo cho thấy từ thời điểm 30/12/2012 tốc độ sa bồi trung bình là 2,9 cm/năm và tốc độ lún là -3,4 cm/năm. Phương pháp quan trắc lún này vốn đơn giản và chi phí thấp cung cấp thêm nhiều thông tin bổ ích giúp xác định rõ xu hướng chung của vùng ven biển đồng bằng sông Hồng và giúp hoạch định việc bảo vệ khu dự trữ sinh quyển ở ven biển đồng bằng này. Từ khóa: Rừng ngập mặn, lún nông, kỹ thuật SET-MH. 1. Mở đầu Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái trên vùng gian triều ở ven biển nhiệt đới thường có chế độ năng lượng thấp [1, 2]. Đây là hệ sinh thái có vai trò quan trọng trong chu trình vật chất tự nhiên, có năng suất sinh học cao dẫn đầu trên toàn cầu [3], là nơi sinh sản của nhiều loài thủy sinh, thủy sản. RNM còn được quan _______ Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-907475341. Email: lxthuyen@hcmus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4221 tâm chú ý do hạn chế tác động của bão biển, nước dâng tràn [4] như đã được kiểm chứng qua các tai biến: động đất-sóng thần xảy ra ở Acer (Indonesia) vào năm 2004 và siêu bão Haiyan quét qua Phillipine, 11/2013. RNM còn là hệ sinh thái có khả năng tích lũy cacbon cao [5] giúp giảm thiểu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính. Tóm lại, RNM có giá trị về nhiều mặt, dịch vụ hệ sinh thái của RNM có giá trị tăng nhanh nhất trong số các hệ sinh thái trên toàn cầu, từ 13.786 lên 193.843 USD/ha, tương ứng giá tính vào năm 1997 và 2011 [6]. L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 2 Tuy là là những cây tiên phong, đối diện với tác động của sóng gió biển, bởi ngập và nước mặn thường xuyên, nhưng khả năng chống chịu của rừng ngập mặn cũng có giới hạn nhất định [1]. Trên thực tế thì RNM Xuân Thủy phân bố ở trong khu vực có nguy cơ cao và lâu dài bởi cả do bão và nước biển dâng [7]. Báo cáo của Ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu – IPCC [8] cũng như nhiều nghiên cứu khác thì đều nhấn mạnh tới nguy cơ chìm ngập của các vùng đất thấp ven biển [9], đặc biệt là đối với các châu thổ là những nơi có nền đất yếu [10, 11]. Một mặt thì nước biển dâng lên, nhưng nền đất còn bị lún xuống ở nơi có nền đất yếu, sẽ gây ra tình trạng chìm ngập thực tế trở nên nhanh hơn và nghiêm trọng hơn rất nhiều [10]. Lún là tiến trình biến dạng tự nhiên của khối đất đá dưới tác dụng của trọng lực bản thân hay có sự gia tải áp lên trên. Ở đây người ta phân biệt lún sâu và lún nông. Lún sâu thường xảy ra do liên quan tới việc xẹp các vỉa nước ngầm hay dầu ở dưới sâu hàng chục, hàng trăm mét do bị bơm rút khai thác, kể cả do chuyển động kiến tạo [10]. Quy mô lún do khai thác nước ngầm có thể tính toán kiểm soát được [10], có thể làm chậm hoặc ngưng lại bằng việc bù dung tích chất lỏng đã bị lấy đi. Còn lún nông thì liên quan tới quá trình cố kết và thoát nước tự nhiên của khối trầm tích trẻ vốn có bề dày vài chục mét và luôn diễn ra với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với lún sâu trong nền trầm tích cổ bên dưới [12, 13] và hầu như ở ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Vì vậy, chỉ có thể tiến hành quan trắc để xác định xu thế biến đổi lâu dài bề mặt địa hình. Có nhiều giải pháp đo, quan trắc lún, từ trắc đạc địa hình định kỳ theo mốc đã định, tới kỹ thuật xây dựng giếng quan trắc hay sử dụng kỹ thuật viễn thám [14]. Mỗi giải pháp đều có thế mạnh và hạn chế riêng. Hiện tại, kỹ thuật đo lún SET-MH được xem là đơn giản và có chi phí thấp nên được áp dụng có hiệu quả ở châu thổ sông Mississippi [15] và trong RNM ở nhiều nơi [12, 16-18]. Khi tích hợp kỹ thuật đo lún từ từng vị trí này với GIS và viễn thám thì ta có thể mô hình hóa phạm vi lún và dự báo diễn biến bề mặt địa hình trên phạm vi rộng có độ tin cậy cao và rất hiệu quả [15]. Trong bài này chúng tôi trình bày kết quả sơ bộ quan trắc lún nông dưới thảm rừng ngập mặn tại VQG Xuân Thủy, vùng lõi chính của Khu Dự trữ sinh quyển Châu thổ Sông Hồng. 2. Đối ượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu Vườn Quốc gia Xuân Thủy rộng khoảng 15 ngàn hecta, nằm ở phía Nam cửa Ba Lạt, phần Đông Nam của huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Đây là vùng đất trẻ, phần lớn diện tích do phù sa sông Hồng bồi đắp nên từ khoảng 1930 trở lại đây với tốc độ lấn biển khá nhanh, vào khoảng 100 m/năm [19]. Rừng ngập mặn ở đây có 7 loài chính và một số loài cây rừng ngập mặn được đưa từ nơi khác về trồng [20]. Địa hình khu vực nghiên cứu khá thấp và bằng phẳng, phủ bởi bùn sét chảy nhão với cấp hạt mịn là sét và bột chiếm ưu thế [21], rìa ngoài phía biển là dải các bãi cát. Toàn bộ khu vực là vùng bán ngập, chịu ảnh hưởng chế độ nhật triều đều với biên độ triều cao nhất 185 cm [22]. 2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Tại VQG Xuân Thủy chúng tôi sử dụng kỹ thuật đo lún SET-MH (Surface Elevation Table – Marker Horizon) tạm dịch là kỹ thuật bàn xoay, là ... và làm gãy đổ hoàn toàn một khoảng rừng thành vùng đất trống rộng khoảng 8 hecta. Việc quan trắc lún bằng SET- MH bắt đầu sau sự kiện này, tại 2 vị trí cách nhau chỉ khoảng 150 mét, ở nơi có rừng từ 6/2010 và từ 6/2011 tại khu đất trống nêu trên và kết quả cho thấy tốc độ lún nền diễn ra có khác biệt lớn (Hình 6) giữa nền đất trống do RNM bị gãy đổ (chuỗi điểm màu đỏ) sau bão và nơi RNM còn nguyên vẹn (chuỗi điểm màu xanh lơ). Tốc độ lún dưới nền đất rừng thì rõ ràng là thấp hơn so với ở nơi đất trống và có khuynh hướng chậm lại theo thời gian. Từ kết quả ban đầu trình bày trong bài viết này ta thấy lún là nguy cơ lớn gây chìm ngập mất đất ở địa điểm nghiên cứu. Tuy vậy, quy mô vùng chìm ngập thực tế đối với cả phạm vi VQG Xuân Thủy thì vẫn là câu hỏi lớn. Để hiểu rõ nguy cơ này cho các vùng bờ thì cần phải có thêm thông tin chi tiết, từ nhiều vị trí cụ thể và có thời gian quan trắc đủ dài khi muốn đánh giá đúng tác động của nước biển dâng [44]. Vì vậy, kết quả quan trắc lún tại một vị trí (với 3 mốc đo) chưa cho phép ta xây dựng hoàn chỉnh bức tranh về bồi và lún cũng như nguy cơ lâu dài đối với toàn VQG này, hay rộng hơn là khu dự trữ sinh quyển sông Hồng. Nếu xây dựng mạng lưới nhiều điểm thì kết hợp với công nghệ GIS- viễn thám xác định đặc trưng dòng bùn cát ven bờ, đặc trưng thảm phủ... ta có thể phân tích ra nhiều thông tin rất bổ ích và sống động về tương lai của khu vực, như qua ví dụ dưới đây. Hiệu quả sử dụng mạng lưới đo lún bằng SET-MH đã được kiểm chứng với mạng lưới hàng ngàn điểm bố trí trên toàn cầu [18, 23, 24]. Số liệu đo lún bằng SET-MH từ hơn 20 năm qua ở vùng ven biển bang Louisiana và châu thổ sông Mississippi đã giúp xây dựng được sơ đồ phân bố tốc độ lún ở đây (hình 7) để hoạch định chương trình tổng thể bảo vệ vùng bờ [36]. Đây là mô hình hữu ích cho chúng ta học tập, áp dụng để bảo vệ các vùng đất thấp ven biển. Hình 6. Khác biệt về tốc độ lún nền dưới nơi có rừng Đước (hơn 30 năm tuổi) và nơi bị mất rừng (đất trống) do bão Durian (12/2006), ở RNM Cần Giờ. L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 9 Hình 7. Quy mô lún (lún nông) ở vùng ven biển bang Louisiana và châu thổ sông Mississippi (Hoa Kỳ), các điểm đen là hơn 4 trăm vị trí quan trắc lún nông bằng kỹ thật SET-MH được thiết lập từ hơn 20 năm qua [15A]. 5. Kế luận Cho đến nay, lún nền là vấn đề còn ít được quan tâm, đặc biệt là đối với vùng đất thấp ven biển vốn có nguy cơ bị chìm ngập do nước biển dâng. Số liệu lún sẽ giúp ta đánh giá đúng tốc độ nước biển dâng thực tế tại mỗi vùng bờ biển và số liệu tính toán tại điểm quan trắc cho thấy tốc độ này cao hơn 3 lần so với tốc độ nước dâng được công bố đối với khu vực. Quan trắc lún và bồi bằng kỹ thuật SET-MH dưới RNM tại Xuân Thủy cho thấy,ngoài nước biển dâng thì lún và thiếu hụt bùn cát bồi đắp là nguy cơ lớn nhất ở tầm khu vực đe dọa tới tương lai của RNM tại đây. RNM là hệ sinh thái có giá trị cao nếu được bảo vệ đểphát triển tốt, đặc biệt không cản trở dòng bùn cát đi tới bồi đắp, thì cây rừng sẽ lớn mạnh hơn và tạo thêm sinh khối ngầm giúp nâng cao trình nền đất để giảm bớt nguy cơ chìm ngập của chính RNM ở vùng ven biển. Mặt khác, SET-MH là giải pháp quan trắc lún nông đơn giản và rẻ tiền, có độ tin cây tốt nên có thể triển khai rộng rãi trong khu vực. Việc mở rộng mạng lưới đo đạc, quan trắc lún/bồi tích phù sa ở VQG Xuân Thủy nói riêng và toàn phạm vi khu dự dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng là việc làm cần thiết để hoạch định lâu dài quy mô lún chìm/ngập và các giải pháp bảo tồn các hệ sinh thái ở đây. Lời cảm ơn Các tác giả cảm ơn sự hỗ trợ hiệu quả từ VQG Xuân Thủy, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh cho nhiệm vụ quan trắc lún đầu tiên này được thực hiện ở đồng bằng sông Hồng, và đặc biệt là lời cám ơn tới Cục Địa chất Hoa Kỳ (USGS) vì đã hỗ trợ kỹ thuật quan trắc lún bằng kỹ thuật SET-MH. Các tác giả cũng cảm ơn những ý kiến đóng góp của người phản biện đã giúp hoàn thiện nội dung bài báo này. ài liệu ham khảo [1] J.C. Ellison, Vulnerability assessment of mangroves to climate change and sea-level rise impacts, Wetlands Ecology and Management 23 (2015) 115. [2] J. C. Ellison,Geomorphology and sedimentology of mangrove. In Coastal wetlands: An integrated ecosystem approach, Elservier, 2009. [3] LOICZ report 25, 1993. [4] IPCC, Working Group II: Impacts, Adaptation and Vulnerability, 2014. [5] D.C. Donato, J. B. Kauffman, D. Murdiyarso, K. Sofyan, Melanie Stidham, Markku Kanninen, Mangroves among the most carbon-rich forests in the tropics, Nature Geoscience 4 (2011) 293. [6] R. Costanza, R. Groot, P. Sutton, Sander van der Ploeg, S.J. Anderson, Ida Kubiszewski, S. Farber, R. K. Turner, Changes in the global value of Tốc độ lún chìm (mm/năm) Châu thổ Mississippi Tp. Houston L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 10 ecosystem services, Global Environmental Change 26 (2014) 152. [7] T.C. Jennerjahn, E. Gilman, K.W. Krauss, L.D. Lacerda, I. Nordhaus, E. Wolanski, Mangrove Ecosystems: A Global Biogeographic Perspective, Springer, 2017. [8] P.V. Hieu, L.V. Dung, N.T. Tue, K. Omori, Will restored mangrove forests enhance sediment organic carbon and ecosystem carbon storage? Regional Studies in Marine Science 14 (2017) 43. [9] R.J. Nicholls, A. Cazenave, Sea-Level Rise and Its Impact on Coastal Zones, Science 328 (2010) 1517. [10] J.P. Ericson, C.J. VÖrÖsmarty, S.L. Dingman, L. G. Ward, M. Meybeck, Effective sea-level rise and deltas: causes of change and human dimension implications, Global and planetary change 50 (2006)63. [11] J.P.M. Syvitski, Deltas at risk,Sustainability Science 3 (2008) 23. [12] N.V. Kỳ, L.X. Thuyên, Đ.H. Hải, Đ.V. Lĩnh, Lún mặt đất tại đồng bằng sông Cửu Long: phải chăng do khai thác nước dưới đất? Tạp chí Địa Chất, số 352-354 (2015). [13] T.E. Törnqvist, D.J. Wallace, J.E.A. Storms, J. Wallinga, R.L. van Dam, M. Blaauw, M.S. Derksen, C.J. W. Klerks, C. Meijneken, E.M.A. Snijders, Mississippi Delta subsidence primarily caused by compaction of Holocene strata, Nature Geoscience 1 (2008) 173. [14] L.E. Erban, S.M. Gorelick, H.A. Zebker, S. Fendorf, Release of arsenic to deep groundwater in the Mekong Delta, Vietnam, linked to pumping-induced land subsidence, PNAS, 110 (2013) 13751. [15] H.J. Nienhuis, T.E. Törnqvist, K.L. Jankowski, A.M. Fernandes, M.E. Keogh, A New Subsidence Map for Coastal Louisiana, GSA Today, 2017. [16] D. R Cahoon, J.C. Lynch, Vertical accretion and shallow subsidence in a mangrove forest of southwestern Florida, USA, Mangroves and Salt Marshes 1 (1997) 173. [17] K.W. Krauss, K. L. McKee., C.E. Lovelock, D.R. Cahoon, N. Saintilan, R. Reef, C. Luzhen, How mangrove forests adjust to rising sea level, New Phytologist 202 (2014) 19. [18] C.E. Lovelock, D.R. Cahoon, D. A. Friess, G.R. Guntenspergen, K.W. Krauss, R. Reef, K. Rogers, M. L. Saunders, F. Sidik, A. Swales, N. Saintilan, L.X. Thuyen, T. Triet, The vulnerability of Indo- Pacific mangrove forest to sea-level rise, Nature 526 (2015) 559. [19] D.M.Duc, M.T. Nhuan, C.V. Ngoi, An analysis of coastal erosion in the tropical rapid accretion delta of the Red River, Vietnam,Journal of Asian Earth Sciences 43 (2002) 98. [20] H.T. Hải, H.T.T. Nhàn, Hiện trạng đa dạng sinh học của vườn quốc gia Xuân Thủy, NXB Hồng Đức, 2015. [21] N.T. Tue, N.T. Ngoc, T.D. Quy, H. Hamaoka, M. T. Nhuan, K. Omori, A cross-system analysis of sedimentary organic carbon in the mangrove ecosystems of Xuan Thuy National Park, Vietnam, Journal of Sea Research 67 (2012) 69. [22] Kịch bản dự báo biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016. [23] J.C. Lynch, P. Hensel, D.R. Cahoon, The surface elevation table and marker horizon technique: A protocol for monitoring wetland elevation dynamics. National Park Service, Fort Collins, Colorado, 2015. [24] Lower Mekong Monitoring Network: Assessing the Impacts of Dams and Climate Change on Mekong Wetlands. [25] P. Van Santen, P.G.E.F. Augustinus, B.M. Janssen-Stelder, S. Quartel, N.H. Tri, Sedimentation in an estuarine mangrove system, Journal of Asian Earth Sciences 29 (2007) 566. [26] D.M. Alongi, The Impact of Climate Change on Mangrove Forests, Current Climate Change Reports 1 (2015) 30. [27] R. Rietbroek, S-E. Brunnabend, J. Kusche, J. Schröter,C. Dahle, Revisiting the contemporary sea-level budget on global and regional scales, PNAS 113 (2016) 1504. [28] P. Q. Sơn, N. Đ. Anh, Diễn biến xói lở-bồi tụ ven biển Hải Hậu (Nam Định) và vùng lân cận trong hơn 100 năm qua trên cơ sở phân tích tài liệu bản đồ địa hình và tư liệu viễn thám đa thời gian, Tạp chí Các khoa học về Trái đất 38 (2016) 118. [29] N.T. Tue, T.D. Quy, A. Amano, H. Hamaoka, S. Tanabe, M.T. Nhuan, K. Omori. Historical profiles of trace element concentrations in mangrove sediments from the Ba Lat Estuary, Red River, Vietnam, Water, Air, & Soil Pollution, 223 (2012) 1315. [30] Liviu Giosan, J. Syvitski, S. Constantinescu, J. Day, Protect the world’s deltas, Nature 516 (2014) 31. [31] P.T.X. Binh, L.T.P. Quynh, L.N. Da, D.T. Thuy, Recent change (2000-2015) of total suspended solid flux of the Red river: Impact of dam/reservoir impoundment in the upstream river basin,Proceeding of the Third International L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 11 Conference on Estuarine Coastal and Shelf Study – ECSS, 2017, HCMC 7 Nov. 2017. [32] V.D. Vinh, S. Ouillon, T.D. Thanh, L.V. Chu, Impact of the Hoa Binh dam (Vietnam) on water and sediment budgets in the Red River basin and delta, Hydrology and Earth System Sciences, 18 (2014) 3987. [33] B.R. Couvillion, J.A. Barras, G.D. Steyer, W. Sleavin, M. Fischer, H. Beck, N. Trahan., Griffin B., Heckman D., Land area change in coastal Louisiana from 1932 to 2010: USGS- Scientific Investigations Map 3164, scale 1:265,000, (2011), 12 p. [34] D.J. Stanley, A.G. Warrne, Nile delta in its destruction phase,Journal of Coastal Research, 14 (1998) 794. [35] R. E. Turner, The mineral sediment loading of the modern Mississippi River Delta: what is the restoration baseline? Journal of Coastal Conservation 21 (2017) 867. [36] Louisiana’s 2012 Coastal Master Plan. coastal-master-plan/ [37] T. Hiroshi, Design Considerations of Artificial Mangrove Embankments for Mitigating Coastal Floods – Adapting to Sea-level Rise and Long- term Subsidence, Nat. Hazards Earth Syst. Sci. Discuss., doi:10.5194/nhess-2017-61. [38] T. Hiroshi, M. Takahito, F. Daisuke, E. Miguel, K. Shota, Mangrove forest against dyke-break- induced tsunami on rapidly subsiding coasts, Nat. Hazards Earth Syst. Sci., 16, (2016) 1629. [39] Bas W. Borsje, Bregje K. van Wesenbeeck, Frank Dekker, Peter Paalvast, Tjeerd J. Bouma, Marieke M. van Katwijk, Mindert B. de Vries, How ecological engineering can serve in coastal protection, Ecological Engineering 37 (2011) 113. [40] Ariana E. Sutton-Grier, Kateryna Wowk, Holly Bamford, Future of our coasts: The potential for natural and hybrid infrastructure to enhance the resilience of our coastal communities, economies and ecosystems, Environmental Science and Policy 51 (2015) 137. [41] T.J. Wells, M.J. Coleman, Periodic mudflat progradation, northeastern coast of South America: a hypothesis, Journal of Sedimentary Research 51 (1981)1069. [42] K.W Krauss, C.N. Cormier, M.J. Osland, M.L. Kirwan, S.L. Camille, A. Janet. Nestlerode, R.J. Marc, F.S. Andrew, C.S. Amanda, D.D. Darrin, J. E. Harvey, Alejandro E. Almario, Created mangrove wetlands store belowground carbon and surface elevation change enables them to adjust to sea-level rise, Scientific Reports (2017). DOI:10.1038/s41598-017-01224-2. [43] H.T. Hien, C. Marchand, J. Aime, D.H. Nhon, P. N. Hong, N.X. Tung, N.T.K. Cuc, Belowground carbon sequestration in a mature planted mangroves (Northern Viet Nam), Forest Ecology and Management 407 (2018) 191. [44] National Academy of Engineering, Responding to the Threat of Sea Level Rise: Proceedings of a Forum, Washington- National Academies Press, 2017. doi: https://doi.org/10.17226/24847. Challenge to Mangrove in the Xuan Thuy National Park Le Xuan Thuyen1, Pham Vu Anh2, Pham Van Cu3, Nguyen Viet Cach2, Le Dinh Anh Vu1 1 University of Science, Vietnam National University, Ho Chi Minh City, Vietnam 2 National Park Xuan Thuy, Giao Thuy, Nam Dinh, Vietnam 3 Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: As a pioneer ecosystem located at land–water interface in the tropic, there exist always many risks from the seasideto mangroves, especially due to impacts of climate change and sea level rise. Land subsidence is a local problem that can exacerbate the impacts of these geo-hazards. This L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 12 contribution presents a result of shallow subsidence carried out by using SET-MH technique (developed by the United States Geological Survey) in the core zone of the National Park. The measurement shows the average sedimentation rate of 2.9 cm /yr and the sinking rate of -3.4 cm / yr, since Dec. 30 th 2012. As a simple and low cost method could provide more useful information to help identify the generally sinking trend of coastal areas in the Red River Delta and also to protect its own biosphere reserve. Keywords: Mangrove, shallow subsidence, SET-MH technique.
File đính kèm:
- lun_nen_thach_thuc_lau_dai_doi_voi_rung_ngap_man_tai_vuon_qu.pdf