Kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn sau giáo dục sức khỏe tại bệnh viện đa khoa hợp lực tỉnh Thanh Hóa
Đánh giá thay đổi kiến thức
và thực hành tự chăm sóc của người bệnh
suy tim mạn sau giáo dục sức khỏe của
điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Hợp
Lực Thanh Hóa năm 2020. Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh
trước sau được thực hiện cho 86 người
bệnh suy tim mạn điều trị tại Bệnh viện đa
khoa Hợp Lực Thanh Hóa trong thời gian từ
tháng 12 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020.
Kết quả: Về kiến thức, trước can thiệp
điểm trung bình đạt 10,0 ± 2,89 điểm trên
tổng điểm 22, sau can thiệp 1 tuần đã có
sự cải thiện rõ rệt với điểm trung bình kiến
thức đạt 19,6 ± 3,01 điểm và duy trì ở mức
cao sau can thiệp 1 tháng với 18,6 ± 4,00
điểm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001. Về thực hành, điểm trung bình
thực hành tự chăm sóc của người bệnh
suy tim mạn trên tổng điểm 100 theo 3 lĩnh
vực Duy trì chăm sóc; Quản lý chăm sóc;
Tự tin chăm sóc tại 3 thời điểm trước can
thiêp, sau can thiệp 1 tuần và sau can thiệp
1 tháng lần lượt là: 35,1 ± 17,5 điểm, 54,9 ±
12,4 điểm và 57,6 ± 12,2 điểm; 47,2 ± 14,63
điểm, 64,5 ± 13,3 điểm và 68,4 ± 13,4 điểm;
41,3 ± 15,39 điểm, 57,6 ± 15,2 và 62,5 ±
16,6 điểm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0,01. Kết luận: Giáo dục sức khỏe
của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể kiến
thức và thực hành tự chăm sóc của người
bệnh suy tim mạn và cần được thực hiện
thường xuyên cho người bệnh suy tim mạn
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn sau giáo dục sức khỏe tại bệnh viện đa khoa hợp lực tỉnh Thanh Hóa
56 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH TỰ CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH SUY TIM MẠN SAU GIÁO DỤC SỨC KHỎE TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HỢP LỰC TỈNH THANH HÓA Vũ Văn Thành1 , Lê Thị Liễu2 1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 2Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực Thanh Hóa TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá thay đổi kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn sau giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực Thanh Hóa năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh trước sau được thực hiện cho 86 người bệnh suy tim mạn điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hợp Lực Thanh Hóa trong thời gian từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020. Kết quả: Về kiến thức, trước can thiệp điểm trung bình đạt 10,0 ± 2,89 điểm trên tổng điểm 22, sau can thiệp 1 tuần đã có sự cải thiện rõ rệt với điểm trung bình kiến thức đạt 19,6 ± 3,01 điểm và duy trì ở mức cao sau can thiệp 1 tháng với 18,6 ± 4,00 điểm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Về thực hành, điểm trung bình thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn trên tổng điểm 100 theo 3 lĩnh vực Duy trì chăm sóc; Quản lý chăm sóc; Tự tin chăm sóc tại 3 thời điểm trước can thiêp, sau can thiệp 1 tuần và sau can thiệp 1 tháng lần lượt là: 35,1 ± 17,5 điểm, 54,9 ± 12,4 điểm và 57,6 ± 12,2 điểm; 47,2 ± 14,63 điểm, 64,5 ± 13,3 điểm và 68,4 ± 13,4 điểm; 41,3 ± 15,39 điểm, 57,6 ± 15,2 và 62,5 ± 16,6 điểm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết luận: Giáo dục sức khỏe của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn và cần được thực hiện thường xuyên cho người bệnh suy tim mạn. Từ khóa: Tự chăm sóc, suy tim mạn, Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực Thanh Hóa. SELF-CARE KNOWLEDGE AND PRACTICE OF CHRONIC HEART FAILURE PATIENTS AFTER HEALTH EDUCATION IN HOP LUC GENERAL HOSPITAL THANH HOA PROVINCE ABSTRACT Objective: To evaluate changes in the self-care knowledge and practice of patients with chronic heart failure after a health educational program in Hop Luc general hospital Thanh Hoa province in 2020. Method: A before and after research design was conducted in one group of 86 patients with chronic heart failure managed by Hop Luc General Hospital from December, 2019 to August, 2020. Results: In terms of knowledge before intervention, the mean score was 10.0 ± 2.89 points out of the total score of 22, after one week intervention there was a clear improvement in the average score of knowledge with 19.6. ± 3.01 and maintained at a high level after one month intervention reached 18.6 ± 4.00 out of the total score of 22; the differences Người chịu trách nhiệm: Vũ Văn Thành Email: vuthanhdhdd@gmail.com Ngày phản biện: 18/5/2021 Ngày duyệt bài: 25/5/2021 Ngày xuất bản: 28/6/2021 57 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 were statistically significant with p < 0.001. In terms of practice, the mean score of self- care practice of patients with chronic heart failure out of the total score of 100 based on three domains as Maintenance Care; Care Management; Self-care Confidence at 3 points of time before intervention, 1 week after intervention and 1 month after intervention, respectively were: 35.1 ± 17.5 points, 54.9 ± 12.4 points and 57.6 ± 12 respectively , 2 points; 47.2 ± 14.63 points, 64.5 ± 13.3 points and 68.4 ± 13.4 points; 41.3 ± 15.39 points, 57.6 ± 15.2 and 62.5 ± 16.6 points (p values of 0.01). Conclusion: The health educational program implemented by nurses in this study improved significantly the self-care knowledge and practice of patients with chronic heart failure therefore, this work should be regularly delivered for patients with chronic heart failure. Keywords: Self-care, chronic heart failure, Hop Luc general hospital Thanh Hoa province. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Suy tim là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tỷ lệ tử vong ngày càng tăng ở các nước phát triển. Theo thống kê, có khoảng 26 triệu người trên toàn thế giới mắc bệnh suy tim và dự đoán tỷ lệ mắc này sẽ tăng lên 25% đến năm 2030 [1]. Tại Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế năm 2014 tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh tim mạch là 21,79% và 10,46%; trong đó, suy tim là một trong năm nhóm bệnh lý tim mạch nhập viện nhiều nhất [2]. Suy tim thực sự đã trở thành gánh nặng cho người bệnh, gia đình và toàn xã hội bởi chi phí dành cho khám và điều trị suy tim tương đối lớn. Các nước phát triển dành 1-2% chi phí chăm sóc sức khoẻ cho khám và điều trị suy tim. Suy tim đã, đang và sẽ trở thành vấn đề sức khỏe cho toàn nhân loại, với tỷ lệ tái nhập viện trong 30 ngày sau xuất viện khoảng 25% và tỷ lệ tử vong trong vòng 5 năm sau mắc bệnh lên tới khoảng 50% [3]. Trên thực tế, hơn một nửa số trường hợp suy tim mạn tái nhập viện là do bệnh trầm trọng và là kết quả trực tiếp của việc tự chăm sóc kém. Tự chăm sóc kém như thiếu tuân thủ điều trị thuốc, không tuân thủ chế độ ăn hạn chế muối, hạn chế chất lỏng, không tự theo dõi cân nặng hàng ngày, trì hoãn thời gian nhập viện khi có triệu chứng của bệnh [4]. Giáo dục sức khỏe là nhiệm vụ hàng đầu của điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh tại bệnh viện [5]. Khuyến khích tự chăm sóc là một trong những mục đích chính của các can thiệp giáo dục cho người bệnh bị suy tim mạn. Các nghiên cứu cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa sau khi can thiệp kiến thức ở nhóm người bệnh suy tim mạn, so với nhóm không được can thiệp [6]. Tại Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực Thanh Hóa theo thống kê của phòng kế hoạch tổng hợp, thời gian gần đây người bệnh suy tim điều trị nội trú tăng cao và thường tái nhập viện nhiều lần. Thực trạng cho thấy người bệnh suy tim mạn điều trị tại Khoa Nội Tim - Thận - Khớp có kiến thức tự chăm sóc còn hạn chế về cách dùng thuốc, chế độ ăn ... i bệnh thực hành đạt điều trị theo đơn, tuân thủ các lời khuyên về điều trị và nhận ra được những thay đổi về sức khỏe tăng lên đáng kể so với trước can thiệp. 63 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 Bảng 7. Điểm kiến thức và thực hành tự chăm sóc NB suy tim mạn trước và sau can thiệp GDSK (n=86) Nội dung Thời điểmđánh giá Điểm đạt p Giá trị nhỏ nhất (Min) Giá trị lớn nhất (Max) Giá trị trung bình ( X ± SD) T2 vs T1 T3 vs T1 Kiến thức T1 2 17 10,0 ± 2,89 <0,001 <0,001T2 4 22 19,6 ± 3,01 T3 4 22 18,6 ± 4,00 Thực hành Duy trì chăm sóc T1 7 80 35,1 ± 17,5 <0,01 <0,01T2 24 90 54,9 ± 12,4 T3 30 97 57,6 ± 12,2 Thực hành Quản lý chăm sóc T1 22 83 47,2 ± 14,63 <0,01 <0,01T2 34 95 64,5 ±13,3 T3 39 100 68,4 ± 13,4 Thực hành Tự tin chăm sóc T1 11 85 41,3 ± 15,39 <0,01 <0,01T2 34 100 57,6 ± 15,2 T3 37 100 62,5 ± 16,6 Kết quả bảng 7 cho thấy có sự thay đổi rõ rệt điểm kiến thức và thực hành của người bệnh trước và sau can thiệp: Về kiến thức tự chăm sóc, sau can thiệp một tuần điểm trung bình tăng lên 19,6 ± 3,01 điểm và duy trì ở mức khá cao sau can thiệp một tháng là 18,6 ± 4,00 điểm, điểm cao nhất sau can thiệp là 22 và thấp nhất là 4. Sự khác biệt giữa trước với sau can thiệp một tuần và trước với sau can thiệp một tháng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Về thực hành tự chăm sóc sau can thiệp đã có sự thay đổi rõ rệt, điểm thực hành tự chăm sóc của người bệnh theo 3 lĩnh vực: “Duy trì chăm sóc” điểm trung bình sau can thiệp một tuần và sau can thiệp một tháng đã tăng lên 54,9 ± 12,4 và 57,6 ± 12,2 trên tổng điểm 100; điểm trung bình “Quản lý chăm sóc sau can thiệp một tuần và sau can thiệp một tháng tăng lần lượt là 64,5 ± 13,3 và 68,4 ± 13,4; điểm thực hành “Tự tin chăm sóc” sau can thiệp một tuần tăng lên 57,6 ± 15,2 và sau can thiệp một tháng đạt 62,5 ± 16,6 trên tổng điểm 100. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. 4. BÀN LUẬN Trong số 86 người bệnh tham gia nghiên cứu, phần lớn người bệnh có trình độ trung học cơ sở (37,3%), kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Anh [7] và Nguyễn Ngọc Huyền [12]. Hầu hết người bệnh sống cùng gia đình, duy nhất chỉ có một người bệnh sống một mình do con cháu đi làm ăn xa. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13]. 4.1. Về kiến thức tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn * Thay đổi kiến thức về bệnh suy tim Trước can thiệp đa số người bệnh chưa có kiến thức đúng về bệnh suy tim, nhưng sau khi can thiệp GDSK đã có sự thay đổi một cách rõ rệt. Kiến thức đúng của người bệnh suy tim về tình trạng bệnh lý suy tim trước can thiệp chỉ đạt 41,9% sau can 64 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 thiệp một tuần tăng lên 93%, sau can thiệp một tháng đạt 83,7%. Người bệnh có kiến thức đúng về bệnh suy tim có khả năng kiểm soát được trước can thiệp là 30,2% sau can thiệp một tuần tăng lên 87,2% và sau can thiệp một tháng là 86%. Trước can thiệp người bệnh có kiến thức đúng về tiêm chủng đầy đủ và khám định kỳ chiếm 37,2%, sau can thiệp một tuần tăng lên 93% và sau một tháng là 75,6%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13] ngay sau khi nhận được GDSK của nhóm nghiên cứu, tỷ lệ NB hiểu đúng về bệnh tăng gấp đôi từ 41,1% lên 86,7% và vẫn duy trì sau 1 tháng can thiệp là 75,6%. * Thay đổi kiến thức về sử dụng thuốc Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trước can thiệp đa số người bệnh sử dụng thuốc một cách bị động, thực hiện theo đơn của bác sĩ chứ không tìm hiểu tác dụng, cũng như cách uống thuốc như thế nào để đạt hiệu quả nhất. Tuy nhiên, sau khi được tư vấn GDSK, người bệnh có kiến thức rất tốt về tác dụng của thuốc lợi tiểu, về việc khi sử dụng thuốc lợi tiểu phải bổ sung thêm Kali và khi quên uống thuốc cần uống thuốc ngay khi nhớ ra sau can thiệp một tuần lần lượt là 83,7%; 90,7%; 93% và sau một tháng tỷ lệ này giảm hơn một chút còn 76,7%; 84,9%; 81,4%. Kết quả này tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13] ngay sau khi được cung cấp kiến thức tỷ lệ người bệnh hiểu đúng về tác dụng của thuốc lợi tiểu đã tăng từ 37,8% lên 74,4% và vẫn duy trì sau 1 tháng can thiệp là 64,4%. Đáng chú ý là tỷ lệ người bệnh trả lời đúng khi sử dụng thuốc lợi tiểu phải bổ sung thêm Kali đã tăng gấp 4 lần so với thời điểm ban đầu (tăng từ 20% lên 84,4% ngay sau can thiệp) và vẫn duy trì sau 1 tháng can thiệp đạt 77,8%. * Thay đổi kiến thức về chế độ ăn uống Trước can thiệp kiến thức đúng về chế độ ăn uống của người bệnh còn hạn chế, sau can thiệp đã tăng lên đáng kể. Về loại thức ăn có chứa nhiều muối, phân loại các chất lỏng tỷ lệ người bệnh có kiến thức đúng trước can thiệp thấp chỉ có 32,6% và 38,4%; sau can thiệp một tuần đã tăng lên 91,9%; 94,2% và sau một tháng, tỷ lệ này giảm hơn chút còn 84,9%; 87,2%; việc nhai kẹo cao su hoặc ăn kẹo cứng để giảm cơn khát trước can thiệp người bệnh có kiến thức đúng chỉ chiếm 20,9% nhưng sau can thiệp một tuần và sau can thiệp một tháng người bệnh có kiến thức đúng chiếm 79,1% và 69,8%. Người bệnh có kiến thức đúng về loại thực phẩm chứa ít muối nhất là rau củ tươi sau can thiệp chiếm đa số là 97,7%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13]. * Thay đổi kiến thức về chế độ luyện tập Trước can thiệp rất ít người bệnh có kiến thức đúng về tập thể dục hàng ngày, nhưng khi được giải thích về vai trò, cách thức luyện tập phù hợp với tình trạng bệnh của người bệnh suy tim mạn, người bệnh thay đổi kiến thức một cách rõ rệt: Kiến thức đúng sau can thiệp một tuần chiếm tỷ lệ 76,6% và sau can thiệp một tháng chiếm tỷ lệ 70,9%. Đa số người bệnh đã có kiến thức đúng phải ngừng tập thể dục ngay khi thấy dấu hiệu đau ngực, khó thở và chóng mặt chiếm 95,3%. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hương và Phạm Thị Hồng Nhung [11], [13] sau khi tiếp nhận GDSK của nhóm nghiên cứu, kiến thức về chế độ luyện tập được nâng cao rõ rệt với 100% NB trả lời đúng về việc khi nào thì cần ngừng tập thể dục. * Thay đổi kiến thức về một số phương pháp tự điều trị Người bệnh suy tim sau khi được cung cấp kiến thức về một số phương pháp tự điều trị suy tim đã có sự thay đổi giữa trước với sau can thiệp một tuần và sau can thiệp một tháng. Tỷ lệ người bệnh ăn hạn chế ăn muối, hạn chế uống nhiều nước, không bỏ thuốc suy tim khi thấy bệnh khỏe hơn 65 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 sau can thiệp một tuần lần lượt là 79,1%; 86%, 76,7% và sau can thiệp một tháng tỷ lệ này là 77,9%; 81,4%; 70,9%. Sau khi được GDSK gần như tất cả người bệnh có kiến thức đúng về không hút thuốc lá, không uống rượu bia hàng ngày và khi có triệu chứng suy tim sẽ đi khám hoặc gọi cho NVYT. Kết quả nghiên cứu này tương đồng với kết quả của Nguyễn Ngọc Huyền và Phạm Thị Hồng Nhung [12], [13]: Ngay sau can thiệp giáo dục và sau can thiệp giáo dục 1 tháng, kiến thức của đối tượng nghiên cứu được nâng cao hơn, bằng chứng là tất cả đối tượng nghiên cứu đều có kiến thức đúng về “hạn chế ăn muối”, “hạn chế uống nước” và “không hút thuốc lá” là “có lợi” cho người bệnh suy tim. 4.2. Về thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn * Thay đổi thực hành “Duy trì chăm sóc” Sau khi can thiệp GDSK có sự thay đổi rõ rệt về thực hành duy trì chăm sóc của người bệnh suy tim mạn so với trước can thiệp GDSK: Tỷ lệ người bệnh thực hành đạt về theo dõi cân nặng; về theo dõi phù chân; về chế độ ăn giảm muối và lưu ý giảm muối khi ăn ở nhà hàng; về dự phòng bệnh đều tăng lên sau can thiệp một tuần và sau can thiệp một tháng người bệnh duy trì thực hành tốt hơn. Về hoạt động thể lực và tập thể dục 30 phút trước can thiệp còn thấp nhưng sau can thiệp đã tăng lên; bởi chúng tôi đã phối hợp với các điều dưỡng chăm sóc tại khoa giúp người bệnh thực hiện các hoạt động thể lực hàng ngày phù hợp với tình hình sức khỏe của mỗi người bệnh. Chúng tôi cũng hướng dẫn các biện pháp ghi chú để nhắc nhở uống thuốc và dặn dò gia đình hỗ trợ người bệnh uống thuốc nên sau can thiệp người bệnh tuân thủ uống thuốc theo đơn đạt 100%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13]. * Thay đổi thực hành “Quản lý chăm sóc” Trong suy tim, việc tự chăm sóc đòi hỏi người bệnh phải nhận ra được sự thay đổi như có dấu hiệu phù tăng lên, khó thở; biết cách xử lý như ăn hạn chế muối, giảm chất lỏng đưa vào, uống thêm viên lợi tiểu, gọi điện cho bác sỹ để được tư vấn hoặc đến cơ sở y tế khám bệnh và đánh giá hiệu quả của cách xử lý đó [8]. Vì vậy, người bệnh và người chăm sóc phải chú ý đến bất kỳ thay đổi nào trong các biểu hiện và phải có cách xử lý phù hợp. Việc trì hoãn nhập viện khi có triệu chứng tăng nặng sẽ làm nặng thêm tình trạng bệnh, tăng nguy cơ tử vong ở người bệnh. Trước khi can thiệp tỷ lệ người bệnh thực hành đạt các nội dung quản lý chăm sóc còn thấp, nhưng khi được GDSK tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể. Kết quả tương tự nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13]: Trước can thiệp chỉ có ít người bệnh (24,7%) nhận ra phù/khó thở là biểu hiện của bệnh suy tim. Sau can thiệp 1 tháng, đã có sự thay đổi đáng kể khi tỷ lệ NB nhận ra “phù/khó thở là biểu hiện của bệnh suy tim ” tăng lên gấp đôi (50%). Về các cách xử lý khi gặp phù/khó thở ở người bệnh suy tim trước và sau can thiệp đã có sự cải thiện, thể hiện ở tỷ lệ người bệnh có thực hiện ăn giảm muối tăng từ 24,7% lên 62,5% sau can thiệp 1 tháng. Tỷ lệ người bệnh có thực hiện giảm lượng nước uống vào tăng từ 16% lên 65,6%. * Thay đổi thực hành “Tự tin chăm sóc” Trước can thiệp đa số người bệnh thực hành không đạt các vấn đề tự chăm sóc, nhưng sau khi được giáo dục sức khỏe người bệnh đã thực hành tốt các nội dung tự chăm sóc. Nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Nhung [13]: Trước can thiệp số người bệnh lựa chọn “Tự tin” trong tự chăm sóc còn hạn chế, sau can thiệp đã có sự thay đổi thể hiện bằng tăng tỷ lệ người bệnh tự tin trong tự chăm sóc. Người bệnh tự tin trong tự giữ gìn để suy tim không nặng lên tăng từ 50,6% lên 65,6%; Tự tin điều trị theo 66 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02 đơn tăng từ 55,6% lên 65,6%; người bệnh tự tin trong việc nhận ra thay đổi sức khỏe tăng từ 37,0% lên 46,7%. Tự tin là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn, GDSK đầy đủ và thường xuyên các lĩnh vực về tự chăm sóc sẽ giúp người bệnh tăng sự tự tin [8]. 5. KẾT LUẬN Kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn được cải thiện đáng kể sau giáo dục sức khỏe. Cụ thể: Trên thang đo kiến thức 22 điểm, tăng điểm trung bình kiến thức sau can thiệp một tuần là 19,6 ± 3,01 điểm và duy trì ở 18,6 ± 4,00 điểm sau can thiệp một tháng so với 10,0 ± 2,89 điểm trước can thiệp (p < 0,001). Trên thang đo thực hành 100 điểm, tăng điểm trung bình thực hành sau can thiệp 1 tuần, sau can thiệp 1 tháng so với trước can thiệp, theo 3 lĩnh vực thực hành là: - Duy trì chăm sóc: 54,9 ± 12,4 điểm và 57,6 ± 12,2 điểm so với 35,1 ± 17,5 điểm. - Quản lý chăm sóc: 64,5 ± 13,3 điểm và 68,4 ± 13,4 điểm so với 47,2 ± 14,63 điểm. - Tự tin tự chăm sóc: 57,6 ± 15,2 điểm và 62,5 ± 16,6 điểm so với 41,3 ± 15,39 điểm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Nguyễn Vinh và các cộng sự (2008). Khuyến cáo 2008 về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa, Khuyến cáo 2008 của Hội tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán, điều trị suy tim, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 438-450. 2. Bộ Y tế (2014), Niên giám thống kê y tế 2014. 3. Benjamin E. J, Blaha M. J, Chiuve S. E et al (2017), Heart Disease and Stroke Statistics-2017 Update: A Report From the American Heart Association, Circulation, pp. e146-e603. 4. Lainscak M, Cleland J. G, Lenzen M. J et al (2007). Nonpharmacologic measures and drug compliance in patients with heart failure: data from the EuroHeart Failure Survey. Am J Cardiol, 99(6B), pp. 31D-37D. 5. Bộ Y tế (2011). Hướng dẫn công tác Điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện, Thông tư số 07/2011/TT-BYT ngày 26 tháng 01 năm 2011 của Bộ Y tế. 6. Van Der Wal MHL, Jaarsma T, Moser DK, et al (2006). Compliance in heart failure patients: The importance of knowledge and beliefs. Eur Heart J, 27:434–440. 7. Trần Thị Ngọc Anh (2016). Kiến thức và thực hành tự chăm sóc ở nhà của người bệnh suy tim mạn tính tại viện Tim Mạch Việt Nam, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 8. White M. F, Kirschner J, Hamilton M. A (2014). Self-care guide for the heart failure patient. Circulation, 129(3), pp. e293-294. 9. Reilly C. M, Higgins M, Smith A et al (2009). Development, psychometric testing, and revision of the Atlanta Heart Failure Knowledge Test. J Cardiovasc Nurs, 24(6), pp. 500-509. 10. Riegel B, Driscoll A, Suwanno J et al (2009). Heart failure self-care in developed and developing countries. J Card Fail, 15(6),pp.508-516. 11. Phạm Thị Thu Hương và các cộng sự (2018). Những khó khăn trong tự chăm sóc ở người bệnh suy tim tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 01(01), tr. 53-60. 12. Nguyễn Ngọc Huyền và Nguyễn Tiến Dũng (2013). Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của người già suy tim tại bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Tạp chí Tim Mạch học Việt Nam, 64(88), tr. 26-33. 13. Phạm Thị Hồng Nhung (2018). Đánh giá thay đổi kiến thức và thực hành tự chăm sóc của người bệnh suy tim mạn tại khoa Nội tim mạch - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2018. Luận văn thạc sỹ Điều dưỡng, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định.
File đính kèm:
- kien_thuc_va_thuc_hanh_tu_cham_soc_cua_nguoi_benh_suy_tim_ma.pdf