Kiểm định sự hiện diện của bong bóng trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ 2006 đến 2019
Hiện tượng bong bóng xảy ra trên thị trường tài chính thường dẫn đến một hệ lụy nghiêm
trọng về nguy cơ sụp đổ thị trường gây ra nhiều biến động cho nền kinh tế. Vì vậy, nhận diện sự
tồn tại bong bóng trên thị trường là một trong những chủ đề nghiên cứu được quan tâm. Bài viết
này sử dụng số liệu về giá đóng cửa hàng ngày của chỉ số VN-Index và HNX-Index từ năm 2006
đến cuối 2019 để kiểm định sự hiện diện của bong bong chứng khoán trên cả hai thị trường chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Kết quả áp dụng kiểm định tính dừng phía phải bằng
thống kê (SADF - sup augmented Dickey–Fuller test) và kiểm định tính dừng phía phải tổng quát
(GSADF - generalized sup Augmented Dickey-Fuller) trên dữ liệu của cả hai thị trường không
những cho thấy sự xuất hiện của bong bóng ở hai nơi, mà còn phát hiện được thời gian xảy ra bong
bóng trong từng giai đoạn 2006 – 2012 và 2013 – 2019. Kết quả phân tích của bài viết cũng cho
thấy sự tương đồng trong hiện tượng bong bóng của hai chỉ số VN-Index và HNX-Index, mặc dù
có sự chênh lệch về thời gian, nhưng sự chênh lệch này không đáng kể.

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm định sự hiện diện của bong bóng trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ 2006 đến 2019
28 Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37
KIỂM ĐỊNH SỰ HIỆN DIỆN CỦA BONG BÓNG TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2006 ĐẾN 2019
CHÂU ĐỖ NHẬT HẠ1 và TRẦN THỊ TUẤN ANH1,*
1Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
*Email: anhttt@ueh.edu.vn
(Ngày nhận: 05/10/2019; Ngày nhận lại: 04/11/2019; Ngày duyệt đăng: 15/11/2019)
TÓM TẮT
Hiện tượng bong bóng xảy ra trên thị trường tài chính thường dẫn đến một hệ lụy nghiêm
trọng về nguy cơ sụp đổ thị trường gây ra nhiều biến động cho nền kinh tế. Vì vậy, nhận diện sự
tồn tại bong bóng trên thị trường là một trong những chủ đề nghiên cứu được quan tâm. Bài viết
này sử dụng số liệu về giá đóng cửa hàng ngày của chỉ số VN-Index và HNX-Index từ năm 2006
đến cuối 2019 để kiểm định sự hiện diện của bong bong chứng khoán trên cả hai thị trường chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Kết quả áp dụng kiểm định tính dừng phía phải bằng
thống kê (SADF - sup augmented Dickey–Fuller test) và kiểm định tính dừng phía phải tổng quát
(GSADF - generalized sup Augmented Dickey-Fuller) trên dữ liệu của cả hai thị trường không
những cho thấy sự xuất hiện của bong bóng ở hai nơi, mà còn phát hiện được thời gian xảy ra bong
bóng trong từng giai đoạn 2006 – 2012 và 2013 – 2019. Kết quả phân tích của bài viết cũng cho
thấy sự tương đồng trong hiện tượng bong bóng của hai chỉ số VN-Index và HNX-Index, mặc dù
có sự chênh lệch về thời gian, nhưng sự chênh lệch này không đáng kể.
Từ khóa: Bong bóng chứng khoán; Kiểm định GSADF; Kiểm định SADF; Thị trường chứng
khoán Việt Nam
Investigating the bubbles in Vietnam stock market during the period from 2006 to 2019
ABSTRACT
The bubbles in the financial market often lead to the possibility of market collapse and harmful
effects on national economy. Therefore, identifying the existence of bubbles in the market is one
of the most interested research topics in finance. This article employs data of the daily closing
prices of VN-Index and HNX-Index from 2006 to 2019 to investigate the presence of bubbles in
both Ho Chi Minh and Hanoi Stock Exchanges. Analyzing both market data using the bubble-
detection approaches of sup augmented Dickey–Fuller test (SADF) and generalized sup
Augmented Dickey-Fuller test (GSADF), the study not only demonstrates the presence of bubbles
but also detects the time of bubbles occurring in periods 2006 - 2012 and 2013 - 2019. This reveals
the similarity in the bubble phenomenon of the VN-Index and HNX-Index regardless of some
minor differences of the time.
Keywords: Stock bubbles; Generalized Augmented Dickey-Fuller test; Sup Augmented
Dickey-Fuller test; Vietnam Stock Market
Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37 29
1. Giới thiệu
Thuật ngữ bong bóng kinh tế đã xuất hiện
từ rất lâu trên thị trường tài chính. Bong bóng
kinh tế thường được xem là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng khủng hoảng thị trường
và dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh
tế. Vì vậy, việc nhận ra sự hiện diện của bong
bóng trên thị trường đóng vai trò rất quan trọng
trong nghiên cứu kinh tế.
Reza (2010) giải thích về thuật ngữ bong
bóng giá, thuật ngữ này thường được dùng để
mô tả tình trạng thị trường liên tục ở trong trạng
thái định giá quá cao một tài sản nào đó so với
giá trị cơ sở hoặc giá trị thực của tài sản đó.
Jones (2014) nhận định rằng bong bóng trên
giá của một tài sản có thể phát sinh khi thị
trường tiếp tục định giá tăng cho một tài sản vì
tài sản này đã có một thời gian tăng giá trị trước
đó. Khi giao dịch, các nhà đầu tư tin rằng vì giá
trị của tài sản đã tăng lên trước đó, nên họ kỳ
vọng giá sẽ tăng thêm trong một khoảng thời
gian ngắn nữa và sẽ thu lợi nếu nắm giữ tài sản
trong khoảng thời gian ngắn nữa; do đó nhà đầu
tư quyết định mua tài sản với giá cao hơn so
với giá trước đó. Điều này nói chung sẽ dẫn đến
sự gia tăng hơn nữa giá tài sản khi nhu cầu về
nó tăng lên. Sự tăng giá nối tiếp tăng giá làm
hiện tượng bong bóng ngày càng trầm trọng và
nguy cơ vỡ bong bóng cũng tăng lên cùng với
nguy cơ sụp đổ của thị trường.
Với những lý thuyết thú vị về bong bóng
thị trường nói chung và bong bóng chứng
khoán nói riêng, bài viết này tiến hành kiểm
định sự tồn tại của bong bóng trên thị trường
chứng khoán Việt Nam từ năm 2006 đến 2019
với dữ liệu của chỉ số chứng khoán theo ngày
trên thị trường. Phần còn lại của bài viết được
tổ chức như sau: Mục 2 trình bày tóm tắt một
số nghiên cứu về bong bóng trên thị trường
trong nước và thế giới; Mục 3 đề cập phương
pháp nghiên cứu; Mục 4 phân tích số liệu và
thảo luận kết quả nghiên cứu; Mục 5 kết luận
những kết quả nghiên cứu chính của đề tài.
2. Tổng quan lý thuyết
Hiện tượng bong bóng trên thị trường đã
thu hút được nhiều sự quan tâm của các nghiên
cứu. Rất nhiều các phương pháp đã được đề
xuất nhằm kiểm định sự hiện diện của bong
bóng trên thị trường. Một trong những phương
pháp được sử dụng phổ biến đó là kiểm định
Johansen (1988) để kiểm định đồng liên kết
giữa giá và cổ tức của cổ phiếu. Nếu có mối
liên hệ đồng liên kết xảy ra giữa giá và cổ tức
thì việc tăng giá cổ phiếu gắn liền với việc tăng
cổ tức và do đó, tăng giá trong trường hợp này
không gây ra hiện tượng bong bóng.
Flood và Garber (1980) đã công bố mô
hình kỳ vọng hợp lý (The Completed Rational
Expectations Model) để thử nghiệm sự tồn tại
đầu tiên của bong bóng. Mô hình kỳ vọng hợp
lý trở thành cơ sở lý thuyết, nền tảng để đo
lường bong bóng thị trường. Shiller (1981) đề
xuất một thử nghiệm mới là kiểm định đường
biên phương sai (Variance Bounds Tests) và
tác giả tiến hành kiểm định trên dữ liệu mẫu
của chỉ số giá S&P từ năm 1871 đến 1979, đã
đưa đến kết luận: “Bác bỏ giả thuyết null về
không có bong bóng”. Nhiều nghiên cứu khác
sau đó cũng áp dụng phương pháp của Shiller
... 2019 của chỉ số
VN-Index và HNX-Index của sàn giao dịch
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Việc bác
bỏ giả thuyết không trong kiểm định này được
xem như là bằng chứng thực nghiệm cho sự
hiện diện của bong bóng giá tài sản tài chính.
Giá trị tới hạn của các kiểm định này được tính
toán thông qua phương pháp mô phỏng Monte
Carlo và thông qua kết quả kiểm định cũng
giúp xác định ngày bắt đầu và ngày kết thúc
của bong bóng.
Cũng tương tự như trường hợp kiểm định
tính dừng bằng Dickey-Fuller mở rộng, các kiểm
định tính dừng phía phải SADF và GSADF xem
xét phương trình hồi quy dạng sai phân
1
1
p
y y y e
t ti t it
i
(1)
Trong đó
yt : giá cổ phiếu tại thời điểm t.
: hệ số chặn
p : độ trễ tối đa
i với 1i . . . p là hệ số hồi quy ứng với
các độ trễ khác nhau
te : sai số.
Khác với các kiểm định tính dừng thông
32 Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37
thường, trong trường hợp cần kiểm tra sự hiện
diện của bong bóng, giả thuyết H0 ứng với
trường hợp chuỗi có nghiệm đơn vị được xem
xét với giả thuyết đối phía; nghĩa là, cần thực
hiện kiểm định:
0
1
: 1
: 1
H
H
Nếu giả thuyết H0 trong kiểm định này bị
bác bỏ, nghĩa là có bằng chứng thống kê cho
thấy hiện tượng bùng nổ trong chuỗi giá. Nếu
hiện tượng này kéo dài trong một khoảng thời
gian nhất định thì bằng chứng về hiện tượng
bong bóng càng được củng cố thêm. Khi thực
hiện kiểm định, PWY giả sử khoảng thời gian
mẫu là [0, 1]. Ký hiệu
1 2,r r
và
1 2,r r
ADF là hệ số
ước lượng được theo phương trình (1) và kiểm
định ADF tương ứng trong khung cửa sổ dữ
liệu 1 2[ , ]r r . Nếu ký hiệu wr là kích thước cửa
sổ, ta có w 2 1r r r . Sự khác biệt giữa các kiểm
định liên quan đến cách thiết lập 1r và 2r .
Thông thường khi tiến hành kiểm định nghiệm
đơn vị, 1r và 2r được cố định cho các quan sát
đầu tiên và cuối cùng, tương ứng là của toàn bộ
mẫu, lúc này 0 1wr r . Tuy nhiên, trong kiểm
định SADF, được đề xuất bởi PWY, với điểm
bắt đầu cố định và kích thước ban đầu của cửa
sổ được chọn bởi người dùng; sau đó được mở
rộng dần. Quy trình ước lượng như sau: Quan
sát đầu tiên trong mẫu được đặt làm điểm bắt
đầu của cửa sổ ước tính, 1r , tức là, 1 0r . Tiếp
theo, điểm kết thúc của cửa sổ ước tính ban
đầu, 2r , được đặt theo 0r , sao cho kích thước
cửa sổ ban đầu là w 2r r . Cuối cùng, khi tăng
kích thước cửa sổ thì 2 0[ ,1]r r trong mỗi lần
quan sát. Mỗi ước tính mang lại một thống kê
ADF được ký hiệu là
2r
ADF . Lưu ý rằng trong
bước cuối cùng, ước tính sẽ dựa trên toàn bộ
mẫu (tức là, 2 1r và thống kê sẽ là 1ADF ).
Thống kê SADF được định nghĩa là giá trị nhỏ
nhất (supremum) của chuỗi
2r
ADF đối với các
2 0[ ,1]r r :
2
2 0
0
[ ,1]
( ) sup { }r
r r
SADF r ADF
(2)
Trong kiểm định GSADF được đề xuất bởi
PSY, các bước thực hiện tương tự như kiểm
định SADF của PWY nhưng tổng quát hơn, thể
hiện ở việc kiểm định GSADF cho phép các
điểm bắt đầu, 1r , cũng được phép thay đổi
trong phạm vi 2 0[0, ]r r . Thống kê GSADF
được định nghĩa là:
2
1
2 0
[0, ]1 2 0
0
[ ,1]
( ) sup {ADF }
r r r
r
r
r r
GSADF r
(3)
PWY đề xuất so sánh từng yếu tố của
chuỗi
2r
ADF ước tính được với các giá trị tới
hạn tương ứng với kiểm định phía phải của
thống kê ADF chuẩn để xác định bong bóng bắt
đầu tại thời điểm 2Tr . Điểm bắt đầu ước tính
của bong bóng là quan sát thời gian đầu tiên,
ký hiệu là eTr , trong đó 2rADF vượt qua giá
trị tới hạn tương ứng từ bên dưới, trong khi
điểm kết thúc ước tính là quan sát theo thời
gian đầu tiên sau eTr , được biểu thị bởi fTr
trong đó
2r
ADF vượt qua tới hạn giá trị phía
phải. Từ đó, các ước tính của thời kỳ bong bóng
được xác định bởi:
2 2
2 0
2[ ,1]
inf { : }Te r rr r
r r ADF cv
(4)
2 2
2
2[ ,1]
inf { : }T
e
r rf r r
r r ADF cv
(5)
Trong đó:
2
T
rcv
là giá trị tới hạn
100(1 )%T của thống kê ADF chuẩn dựa
trên các quan sát 2[ ]Tr .
Tương tự, các ước tính về thời kỳ bong
bóng dựa trên GSADF được đưa ra bởi:
2
2 2
2 0
2 0[ ,1]
inf { : ( ) }
Tr
e r r
r r
r r BSADF r cv
(6)
2
2 2
2
2 0[ ,1]
inf { : ( ) }
Tr
e
r rf r r
r r BSADF r cv
(7)
Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37 33
Trong đó:
2
T
rcv
là giá trị tới hạn
100(1 )%T của thống kê SADF dựa trên các
quan sát 2[ ]Tr . 0( )BSADF r với 2 0[ ,1]r r , là
thống kê SADF trễ liên quan đến thống kê
GSADF theo mối quan hệ sau:
2
2 0
0 0
[ ,1]
GSADF( ) sup { ( )}r
r r
r BSADF r
(8)
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thống kê mô tả
Hình 1. Biểu đồ chỉ số VN -Index từ 2006 đến 2019
Bảng 1
Mô tả chỉ số VN - Index và HNX-Index qua các năm
Năm VN-Index HNX-Index
2006 505,91 186,55
2007 1007,17 327,03
2008 494,66 162,23
2009 431,29 144,09
2010 486,05 146,03
2011 434,60 78,31
2012 412,83 64,96
2013 490,11 62,35
2014 579,95 82.16
2015 579,88 82,41
2016 625,91 81,40
2017 780,17 98,13
2018 1008,22 115,19
2019 958,90 105,54
34 Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37
Bảng 1 là kết quả thống kê mô tả giá trị
trung bình của chỉ số VN-Index và HNX-Index
từ năm 2006 đến năm 2019. Năm 2007 và năm
2018 là hai năm mà chỉ số VN-Index đạt giá trị
vượt trội hơn cả, rõ ràng giá trị của VN-Index
trong quá khứ đã tăng trưởng rất nhanh tính đến
thời điểm hiện tại (6/2019) là 958,90. Vào thời
điểm năm 2007 là năm đánh dấu sự xuất hiện
của bong bóng trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, khi đó giá của VN-Index đạt mức đỉnh
điểm là 1170,67. Nhưng cho đến năm 2018, cột
mốc này đã bị phá vỡ, điều này dẫn đến một hoài
nghi về bong bóng xuất hiện trên thị trường.
Cột 3 mô tả giá trị trung bình chỉ số
HNX-Index từ giai đoạn 2006 đến 2019 của
Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội. So với
VN-Index đã xuất hiện từ năm 2000 thì HNX
lại xuất phát trễ hơn 6 năm (2006), do đó thị
trường chứng khoán ở Hà Nội vẫn chưa thể
bắt kịp nhịp độ sôi động của thị trường Thành
phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vào năm 2007,
HNX-Index có sự tương đồng với VN-Index
khi đây là năm mà giá của HNX chạm mốc
cao nhất (459, 40) chỉ sau một năm thành lập.
4.2. Kết quả nghiên cứu
Trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2
Kết quả SADF và GSADF của VN-Index giai đoạn 2006-2019
Giai đoạn Kết quả Kiểm định SADF Kiểm định GSADF
2006 - 2012 Thống kê kiểm định 3,0418*** 4,7894***
99% level 2,0873 2,9979
95% level 1,5559 2,4834
90% level 1,3260 2,1722
2013-2019 Thống kê kiểm định 3,5074*** 4,9664***
99% level 2,0278 2,4877
95% level 1,5551 2,1747
90% level 1,2738 2,0834
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy giá trị thống kê
SADF và GSADF đều lớn hơn nhiều so với các
giá trị tới hạn ở mức tin cậy 90%, 95% và 99;
qua đó cho thấy bằng chứng thống kê về sự
hiện diện của bong bóng chứng khoán trên sàn
giao dịch TP.HCM trong cả hai giai đoạn 2006
– 2012 và 2013 – 2019.
Trong Hình 2, đường trên cùng là giá
chứng khoán VN-Index thực tế theo ngày vào
giai đoạn 2006 - 2012, trong khi đường ở
dưới biểu thị cho kiểm định SADF và đường
ở giữa là giá trị tới hạn 95%. Ngày bắt đầu
của bong bóng có thể được kiểm tra dễ dàng
bằng mắt, khi đường biểu thị cho kiểm định
SADF vượt qua đường giá trị tới hạn 95% từ
bên dưới, tương ứng với sự tăng giá của VN-
Index. Ngược lại, thời điểm kết thúc của bong
bóng được xác định, khi đường biểu thị cho
kiểm định SADF vượt qua đường giá trị tới
hạn 95% từ phía trên. Trong Hình 2, kiểm
định SADF đã giúp phát hiện một đợt bong
bóng của VN-Index vào giai đoạn 2006 –
2012, cụ thể là cuối năm 2006 cho đến tháng
5 năm 2007.
Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37 35
(a) SADF - Giai đoạn 2006 - 2012
(b) SADF - Giai đoạn 2013 - 2019
(c) GSADF - Giai đoạn 2006 - 2012
(d) GSADF - Giai đoạn 2013 - 2019
Hình 2. Biểu đồ kết quả SADF và GSADF của VN - Index giai đoạn 2006-2019
Trên thị trường chứng khoán Hà Nội
Tương tự VN-Index, đề tài đã thực hiện
kiểm định SADF và GSADF để kiểm tra sự tồn
tại của bong bóng cho chỉ số HNX, với kích
thước cửa sổ tối thiểu 91 làm kích thước cửa sổ
ban đầu (initial window size), các giá trị tới hạn
được lấy thông qua 100 lần lặp mô phỏng MC.
Dữ liệu mẫu giai đoạn 2006 đến 2012 gồm
1697 quan sát; và dữ liệu mẫu giai đoạn 2013-
1019 gồm 1615 quan sát.
Bảng 3
Kết quả kiểm định SADF và GSADF của HNX – Index
Giai đoạn Kiểm định SADF Kiểm định GSADF
2006 - 2012 Thống kê kiểm định 2,3762*** 4,3964***
99% level 2,3103 2,9883
95% level 1,6367 2,5720
90% level 1,3425 2,2607
2013-2019 Thống kê kiểm định 3,7617*** 5,6784***
99% level 2,0620 2,9553
95% level 1,5465 2,4578
90% level 1,2977 2,2607
36 Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37
Ở Bảng 3, kết quả kiểm định SADF và
GSADF từ dữ liệu mẫu trong cả hai giai
đoạn 2006 – 2012 và 2013- 2019 đều lớn
hơn giá trị tới hạn có mức ý nghĩa 10%, 5%
và 1%; vì vậy bác bỏ giả thuyết không có
bong bóng. Đây là bằng chứng cho sự hiện
diện của bong bóng trên sàn giao dịch Hà
Nội trong cả hai giai đoạn dữ liệu được phân
tích. Hình 3 thể hiện kết quả kiểm định bằng
biểu đồ cho thấy rõ sự tồn tại của một bong
bóng trong giai đoạn 2006 đến 2012, cụ thể
là tháng 1/2007 đến tháng 3/2007; và một
bong bóng khác trong thời gian từ 6/2017
đến 5/2018.
(a) SADF - Giai đoạn 2006 - 2012
(b) SADF - Giai đoạn 2013 - 2019
(c) GSADF - Giai đoạn 2006 - 2012
(d) GSADF - Giai đoạn 2013 - 2019
Hình 3. Biểu đồ kết quả SADF và GSADF của VN -Index giai đoạn 2006-2019
5. Kết luận
Bài viết sử dụng số liệu về giá đóng cửa
hàng ngày của chỉ số VN-Index và HNX-Index
ở hai giai đoạn; giai đoạn thứ nhất là từ năm
2006 đến cuối 2012, giai đoạn tiếp theo từ 2013
đến cuối tháng 6 năm 2019. Hai chỉ số này đại
diện cho hai sàn giao dịch chứng khoán lớn
nhất ở Việt Nam; VN-Index đại diện cho Sàn
giao dịch HOSE (miền Nam), thì HNX-Index
đại diện cho sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
(miền Bắc). Khi áp dụng kiểm định SADF và
kiểm định GSADF cho hai tập dữ liệu của cả
hai thị trường không những cho thấy sự xuất
hiện của bong bóng “tích cực” ở hai chỉ số, mà
còn phát hiện được thời gian xảy ra bong bóng
trong giai đoạn khủng hoảng (2007 đến 2008).
Kết quả phân tích của bài viết cũng cho thấy sự
tương đồng trong hiện tượng bong bóng của hai
chỉ số VN-Index và HNX-Index, mặc dù có sự
chênh lệch về thời gian, nhưng vấn đề này
không đáng kể.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, thị trường
chứng khoán Việt Nam tuy gặp nhiều biến động,
thử thách và khó khăn nhưng vẫn ngày một phát
triển. Những nhà đầu tư chứng khoán thận trọng
khi đầu tư và rút ra bài học cho bản thân từ
Châu Đ. N. Hạ và Trần T. T. Anh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 28-37 37
những biến cố bong bóng dẫn đến thị trường sụp
đổ trong lịch sử của thị trường chứng khoán thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Hai kiểm
định này chỉ có thể xác định được bong bóng
bằng dữ liệu có sẵn trong quá khứ, qua đó cung
cấp một công cụ kiểm định mang tính chất dự
báo, giúp cảnh báo cho nhà đầu tư về sự xuất
hiện của bong bóng ở tương lai
Tài liệu tham khảo
Abhyankar, A., Copeland, L. S., & Wong, W. (1997). Uncovering nonlinear structure in real-time
stock-market indexes: the S&P 500, the DAX, the Nikkei 225, and the FTSE-100. Journal
of Business & Economic Statistics, 15(1), 1-14.
Blanchard, O. J. & Watson, M. W. (1982). Bubbles, rational expectations and financial markets.
NBER Working Paper Series No. 945, Cambridge, Mass.: National Bureau of Economic
Research.
Flood, R. P. and Garber, P. M. (1980), Market fundamentals versus price-level bubbles: The first
tests. Journal of Political Economy, 88(4), 745-770.
Herrera, S. & Perry, G. E. (2003): Tropical bubbles: asset prices in Latin America, 1980- 2001. In
W.C. Hunter, G.G. Kaufman and M. Pomerleano (Eds.), Asset Price Bubbles: The
Implications for Monetary, Regulatory, and International Policies (Ch. 9, pp. 127-162). MIT
Press, Cambridge.
Homm, U. & Breitung, J. (2012). Testing for Speculative Bubbles in Stock Markets: A
Comparison of Alternative Methods. Journal of Financial Econometrics, 10(1), 198-231.
Johansen, S. (1988). Statistical analysis of cointegration vectors. Journal of Economic Dynamics
and Control, 12(2-3), 231-254
Jones B. (2014). Identifying speculative bubbles: A two-pillar surveillance framework. IMF
working paper, WP/14/208.
Phillips, P.C.B., & Yu, J., (2009). Limit theory for dating the origination and collapse of mildly
explosive periods in time series data (Unpublished manuscript). Singapore Management
University.
Phillips, P. C. B., Wu., Y. & Yu., J. (2011). Explosive Behavior in the 1990s Nasdaq: When Did
Exuberance Escalate Asset Values? International Economic Review. 52(1), 201-226.
Phillips, P. C. B., Shi, S. P. & Yu, J. (2013). Testing for multiple bubbles: Historical episodes of
exuberance and collapse in the S&P 500, Economics & Statistics. Working Paper Series No.
4, July, Singapore: Singapore Management University.
Reza, B.S-M. (2010). Literatures about asset price bubbles and monetary policies. Proceedings of
International Conference on Applied Economics, 695-703.
Shiller, R. J. (1981). Do stock prices move too much to be justified by subsequent changes in
dividends? American Economic Review, 71(3), 421-436.
West, K. D. (1987). A specification test for speculative bubbles. The Quarterly Journal of
Economics, 102(3), 553-580.
Wu., Y. (1997), Rational Bubbles in the Stock Market: Accounting for the U.S. Stock-Price
Volatility. Economic Inquiry, 35(2), 309-319.
File đính kèm:
kiem_dinh_su_hien_dien_cua_bong_bong_tren_thi_truong_chung_k.pdf

