Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol

Trong nghiên cứu này, để đánh giá khả năng hấp phụ của vật liệu graphen oxit (GO) trên nền polyme

polyvinyl alcohol (PVA), chất màu xanh metylen (MB) được lựa chọn làm đối tượng khảo sát. Các kết quả

chỉ ra rằng, sau 93 phút quá trình đạt cân bằng và khoảng 86% MB đã bị hấp phụ. Khảo sát các thông số

ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ như nhiệt độ, pH.cho thấy pH tối ưu cho quá trình hấp phụ là 7 và ở điều

kiện kiềm độ hấp phụ của vật liệu là rất nhỏ (<0,15 mg/g). Quá trình hấp phụ được tiến hành lặp lại 3 lần để

đánh giá khả năng tái sử dụng của vật liệu tổng hợp được. Sau 3 vòng tái sinh, gần 80% MB vẫn tiếp tục bị

hấp phụ trên vật liệu. Do vậy, vật liệu hứa hẹn cho khả năng hấp phụ chất màu tốt và có khả năng tái sinh,

tái sử dụng cao góp phần làm giảm giá thành của vật liệu, giảm ô nhiễm môi trường.

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol trang 1

Trang 1

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol trang 2

Trang 2

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol trang 3

Trang 3

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol trang 4

Trang 4

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol trang 5

Trang 5

pdf 5 trang viethung 4220
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol

Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 028-032 
28 
Khảo sát khả năng hấp phụ xanh metylen 
của vật liệu màng graphen oxit/polyvinyl alcohol 
Study on the Adsorption of Methylene Blue on Graphene Oxide/ Polyvinyl Alcohol Composite Film 
Lê Diệu Thư*, Trần Vĩnh Hoàng 
Viện Kỹ thuật Hóa học, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam 
*Email: thu.ledieu@hust.edu.vn 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, để đánh giá khả năng hấp phụ của vật liệu graphen oxit (GO) trên nền polyme 
polyvinyl alcohol (PVA), chất màu xanh metylen (MB) được lựa chọn làm đối tượng khảo sát. Các kết quả 
chỉ ra rằng, sau 93 phút quá trình đạt cân bằng và khoảng 86% MB đã bị hấp phụ. Khảo sát các thông số 
ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ như nhiệt độ, pH...cho thấy pH tối ưu cho quá trình hấp phụ là 7 và ở điều 
kiện kiềm độ hấp phụ của vật liệu là rất nhỏ (<0,15 mg/g). Quá trình hấp phụ được tiến hành lặp lại 3 lần để 
đánh giá khả năng tái sử dụng của vật liệu tổng hợp được. Sau 3 vòng tái sinh, gần 80% MB vẫn tiếp tục bị 
hấp phụ trên vật liệu. Do vậy, vật liệu hứa hẹn cho khả năng hấp phụ chất màu tốt và có khả năng tái sinh, 
tái sử dụng cao góp phần làm giảm giá thành của vật liệu, giảm ô nhiễm môi trường. 
Từ khóa: graphene oxide, PVA, hấp phụ, tái sử dụng. 
Abstract 
With the aim of investigating the adsorption capacity of graphene oxide/polyvinyl alcohol (GO/PVA) polymer 
(the adsorbent), methylene blue is selected as an object to assess the adsorption capacity. The results 
showed that, after 93 minutes, the adsorption gets the equilibrium state and 86% of methylene blue is 
adsorbed. Temperature, pH are also studied to find the optimum conditions for the adsorption whereby pH 7 
has the highest adsorption capacity and in the base environment, the obtained adsorption capacity is very 
low (<0,15 mg/g). After repeating this process triple times on the same adsorbent (the adsorbent is treated 
after using each time), there is still 80% of methylene blue is adsorbed. This saves money and protects the 
environment, so this material promises to be a suitable alternate for adsorbents. 
Keywords: graphene oxide, PVA, adsorption, reused. 
1. Giới thiệu 
 Graphen,*được biết đến là một tấm phẳng dày 
bằng một nguyên tử cacbon với các liên kết sp2, trong 
những năm gần đây được ứng dụng rộng rãi trong các 
ngành công nghiệp điện tử như làm pin năng lượng 
mặt trời, biosensor, quang xúc tác... do các đặc tính 
quang, nhiệt, điện và cơ lý tuyệt với của nó. Graphen 
oxit (GO) với diện tích bề mặt lý thuyết đạt gần 3000 
m2/g cùng rất nhiều các nhóm chức như hydroxyl-
OH, carboxyl C=O, epoxyl... là ứng cử viên tuyệt vời 
cho quá trình hấp phụ chất màu hữu cơ, các ion kim 
loại nặng trong dung dịch nước. Đã có rất nhiều 
nghiên cứu sử dụng GO như một chất hấp phụ cho 
quá trình xử lý nước thải trong những năm gần đây 
[1,2]. Nhược điểm của chúng là kích thước bé nên 
khả năng thu hồi, tái sử dụng còn hạn chế. Để giải 
quyết vấn đề này, một số nhóm nghiên cứu đã hướng 
tới tạo vật liệu composite kết hợp GO với các 
polymer dạng màng để dễ dàng tách vật liệu khỏi 
dung dịch [3-5]. Polyme polyvinyl alcohol (PVA) là 
một polyme tổng hợp hòa tan trong nước, không độc 
ISSN: 2734-9381 
https://doi.org/10.51316/jst.148.etsd.2021.1.1.6 
Received: August 24, 2020; accepted: December 01, 2020 
hại và thường được ứng dụng trong y học do có độ 
tương thích sinh học cao. Tuy nhiên, tính chất cơ học 
của PVA chưa thực sự tốt và có tính giữ nước do có 
đầu ưa nước làm hạn chế phần nào các ứng dụng của 
polyme này. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi kết 
hợp GO/PVA, độ bền kéo đã tăng lên 132% và cường 
độ nén được cải thiện hơn 36% chỉ với 0,8% GO 
được bổ sung [6]. Piming Ma và cộng sự [6] chỉ ra, 
khi sử dụng vật liệu PVA/GO/Chitosan để hấp phụ 
ion Cu2+, dung lượng hấp phụ có thể đạt 162 mg/g, 
cao hơn hẳn so với vật liệu PVA/Chitosan. Khi tiến 
hành tổng hợp và khảo sát khả năng hấp phụ của xanh 
metylen trên vật liệu GO/PVA, Ning Wang và cộng 
sự [7] đã sử dụng công nghệ làm đông hỗn hợp ở 
-10 oC và ngâm vật liệu trong dung dịch cồn 3 lần, 
mỗi lần 2 giờ, trong đó, hàm lượng polymer PVA sử 
dụng khá thấp (tác giả chỉ sử dụng 
0,045g PVA/ 0,136 g GO cho mẫu vật liệu); các kết 
quả chỉ ra rằng dung lượng hấp phụ cực đại của vật 
liệu có thể đạt đến 571,4 mg/g, không những vậy, vật 
liệu còn có khả năng hấp phụ cồn và dầu đậu nành 
cao hơn hẳn so với vật liệu khử GO... Do vậy, đây 
hứa hẹn là một vật liệu có khả năng hấp phụ chất màu 
trong dung dịch nước tốt. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi đã tổng hợp vật liệu GO/PVA bằng phương 
pháp trộn dung dịch trực tiếp rồi đem sấy trong tủ 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 028-032 
29 
sấy. Lượng polymer sử dụng cao hơn rất nhiều so với 
lượng GO. Nghiên cứu sẽ tập trung vào quá trình 
khảo sát khả năng hấp phụ của vật liệu GO/PVA tự 
tổng hợp trên chất màu MB. 
2. Phương pháp 
2.1. Nguyên liệu 
Axit sulfuric (H2SO4 98%), natri nitrat 
(NaNO3), kali pemanganat (KMnO4), hydro peroxit 
(H2O2 - 30%), FeCl3.6H2O, FeSO4.4H2O, axit 
axetic (CH3COOH - 30%) được đặt mua từ hãng 
Sigma. NaOH và HCl được đặt mua từ công ty hóa 
chất Đức Giang. MB, Graphit, Polyvinyl alcohol là 
các hóa chất tinh khiết dạng AR được sử dụng ngay 
mà không cần qua bất cứ khâu xử lý nào. 
2.2. Thực nghiệm 
 Graphen oxid được tổng hợp từ graphit theo 
phương pháp Hummer [8]. Sau khi tổng hợp, 0,05 g 
GO được đem đi phân tán trong dung dịch nước bằng 
bể siêu âm. Polyme PVA (5g) được hòa tan trong 
nước cất cho đến khi tan hoàn toàn rồi được tiến hành 
trộn lẫn với dung dịch GO phía trên. Hỗn hợp sau 
trộn lẫn được tiến hành sấy ở 50 oC và đem đi sử 
dụng cho quá trình hấp phụ. 
 Dung dịch gốc xanh metylen được pha với 
nồng độ MB 10 mg/L. 
Để khảo sát khả năng hấp phụ của vật liệu, 0,1 g 
mẫu GO/PVA được cho vào bình chứa 20 ml dung 
dịch MB 10 mg/L, bọc kín bình phản ứng bằng giấy 
bạc để tránh ảnh hưởng của ánh sáng đến quá trình 
hấp phụ MB. Sau những khoảng thời gian nhất định, 
1 ml mẫu được lấy ra và tiến hành đo phổ UV- vis 
liên tục tại bước sóng 660 nm. Các thí nghiệm được 
tiến hành lặp lại ít nhất hai lần để đánh giá độ chính 
xác của phép đo. Nồng độ dung dịch MB không bị 
hấp phụ được tính toán dựa vào đường chuẩn về quan 
hệ giữa độ hấp thụ A và nồng độ dung dịch MB. 
Đường chuẩn được xây dựng như sau: chuẩn bị một 
loạt các dung dịch MB với nồng độ từ 1; 2.5; 5, 7.5 
và 10 mg/L; đo phổ UV-vis các dung dịch với nồng 
độ khác nhau ta sẽ thu được các giá trị độ hấp thụ A 
tương ứng. Thiết lập phương trình quan hệ giữa độ 
hấp thụ A và nồng độ dung dịch MB. Kết quả được 
chỉ ra như sau: 
 Phương trình đường chuẩn có dạng 
A = 0,0611xC – 0,0633 với hệ số R2 = 0.992 chứng 
tỏ đường chuẩn có độ chính xác cao (Hình 1). 
Độ hấp phụ q (mg/g) được xác định theo công 
thức: 
( ) . oC Ce Vq
m
−
= (1) 
trong đó: Co là nồng độ ban đầu của dung dịch MB 
(mg/L); Ce là nồng độ dung dịch MB sau hấp phụ tại 
thời điểm t (mg/L); V là thể tích dung dịch MB đem 
sử dụng (L) và m là khối lượng chất hấp phụ sử dụng 
(g). 
Hiệu suất hấp phụ (H) được xác định theo công 
thức: 
0 .100% e
o
C C
H
C
−
= (2) 
Vật liệu sau khi hấp phụ sẽ được khảo sát để 
đánh giá khả năng tái sử dụng của vật liệu. Đầu tiên 
chất hấp phụ sẽ được rửa sạch với nước cất sau đó 
ngâm trong dung dịch HCl 0,01M trong vòng 1 ngày. 
Sau 24 giờ, chất hấp phụ được lấy ra và rửa sạch bằng 
nước cất nhiều lần, tiến hành sấy vật liệu ở 40 oC 
trong vòng 24 giờ và đem tái hấp phụ lại dung dịch. 
0 5 10
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
Ab
s,
 u
.i.
Concentration, mg/L 
Hình 1. Đường chuẩn độ hấp thụ dung dịch MB với 
các nồng độ khác nhau khi đo UV - Vis tại bước sóng 
660 nm 
20 40 60 80 100 120
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
A
t (min) 
Hình 2. Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc đến độ hấp 
phụ của vật liệu. Điều kiện thí nghiệm: T = 35 oC, 
m chất hấp phụ = 0,1 g, pH = 7 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Khảo sát thời gian tiếp xúc 
Để xác định thời điểm quá trình đạt cân bằng, 
thí nghiệm được tiến hành ở nhiệt độ 35 oC, lượng 
chất hấp phụ 0,1 g trong các khoảng thời gian khác 
nhau. Kết quả được chỉ ra trên Hình 2. Theo đó, độ 
hấp thụ A giảm dần theo thời gian và đạt bão hòa sau 
93 phút. Điều này chứng tỏ dung dịch MB đã bị vật 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 028-032 
30 
liệu GO/PVA hấp phụ và sau 93 phút thì quá trình đạt 
bão hòa với hiệu suất quá trình là 86%, độ hấp phụ 
q = 1,73 mg/g. 
3.2. Ảnh hưởng của pH 
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
đến khả năng hấp phụ MB của vật liệu polyme 
GO/PVA là pH trong dung dịch. Để khảo sát ảnh 
hưởng của pH đến quá trình hấp phụ, quá trình sẽ 
được tiến hành đo độ hấp phụ trong khoảng pH từ 5 
đến 9 dùng dung dịch HCl 0,1M và NaOH 0,1M để 
điều chỉnh. Các kết quả được chỉ ra trên Hình 3. Theo 
đó, cùng với sự tăng pH, dung lượng hấp phụ cũng 
tăng dần và đạt cao nhất ở pH = 7. Điều này có thể 
được giải thích là do trong môi trường axit tồn tại 
nhiều ion H+ dẫn đến có sự cạnh tranh giữa các phân 
tử MB và ion H+ trong việc hình thành các lực hút 
tĩnh điện với các nhóm chức trái dấu trên vật liệu GO 
và PVA dẫn tới dung lượng hấp phụ ở môi trường pH 
thấp là không cao. Ở pH = 9, các giá trị về dung 
lượng hấp phụ theo thời gian thu được rất nhỏ 
(< 0,15 mg/g), điều này có thể được giải thích là do 
trong môi trường kiềm, xanh metylen có thể đã bị 
thay đổi cấu trúc do quá trình demetyl hóa từng bước 
[9]. Như vậy, pH = 7 là pH tối ưu cho quá trình hấp 
phụ MB trên vật liệu GO/PVA ở nhiệt độ T = 308 K. 
20 40 60 80 100 120
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
q(
m
g/
g)
time (min.)
 pH 5
 pH7
Hình 3. Ảnh hưởng của pH đến quá trình hấp phụ MB 
trên GO/PVA (Co = 10 mg/L, T = 308K) 
20 30 40 50 60 70 80 90 100 110
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
q,
 m
g/
g
time (min.)
 T = 308K
 T = 313K
 T = 318K
Hình 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình hấp 
phụ MB trên GO/PVA (Co = 10 mg/L, m = 0,1g, 
pH = 7) 
3.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ 
Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hấp 
phụ vật liệu trong dung dịch. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi đã sử dụng bình điều nhiệt để khống chế 
nhiệt độ bình phản ứng ở các nhiệt độ từ 35oC đến 
45oC và khảo sát sự thay đổi của dung lượng hấp phụ 
theo các giá trị nhiệt độ này. Kết quả được chỉ ra trên 
Hình 4. 
Từ Hình 4 ta thấy, nhiệt độ càng cao thì độ hấp 
phụ q càng giảm. Điều này có thể được giải thích là 
do ở nhiệt độ cao lực hút tĩnh điện bị suy giảm đi làm 
giảm khả năng hấp phụ của vật liệu [7]. Hơn nữa, 
nhiệt độ cao là điều kiện không thuận lợi cho polyme 
PVA. Như vậy ta có thể dự đoán là quá trình hấp phụ 
MB trên GO/PVA là quá trình thích hợp ở nhiệt độ 
thấp. Các dữ liệu nhiệt động học như hằng số cân 
bằng K, nhiệt phản ứng ΔHo (kJ/mol), entropy của 
quá trình ΔSo (J/mol.K) và năng lượng tự do Gibbs 
ΔGo (kJ/mol) được tính sử dụng các công thức sau: 
ΔGo = ΔHo – T. ΔSo (3) 
ΔGo = -RTln e
e
q
C
 (4) 
1
 . 
o o
e
e
q H S
lnK ln
C R T R
−∆ ∆
= = + (5) 
trong đó R là hằng số khí (R = 8,314 J/mol. K), T là 
nhiệt độ Kelvin, qe: độ hấp phụ tại thời điểm cân 
bằng (mg/g). Giá trị -ΔHo/R tính được từ độ dốc của 
phương trình lnK - 1/T (Hình 5) từ đó tính được các 
giá trị ΔHo và ΔSo (Bảng 1). ΔGo tính theo công thức 
(3) có kết quả âm chứng tỏ quá trình hấp phụ MB trên 
vật liệu là quá trình tự diễn biến. Các giá trị âm của 
ΔHo và ΔSo tương ứng chỉ ra quá trình trên là tỏa 
nhiệt và tăng độ hỗn loạn của hệ. Kết quả này phù 
hợp với các dự đoán nêu trên. 
Bảng 1. Các thông số nhiệt động của quá trình hấp 
phụ MB trên vật liệu màng GO/PVA 
ΔGo (kJ/mol) ΔHo 
(kJ/mol) 
ΔSo 
(J/mol.K) 
308K 313K 318K 
-65.36 -210 
-15,27 -14,97 -13,64 
Quá trình hấp phụ ở 35 oC được mô tả bởi mô 
hình động học biểu kiến bậc 1 có dạng như sau: 
( ) log log 2.303e t e
k
q q q t− = − (3) 
trong đó qt (mg/g) là lượng chất hấp phụ tại thời điểm 
t bất kỳ, k (min-1) là hằng số tốc độ của phản ứng 
bậc 1. Các giá trị k và qe có thể thu được từ đồ thị log 
(qe - qt) theo t (Hình 6a). Theo đó phương trình có 
dạng y = 0,7665 – 0,03183x với hệ số R2 = 0,975, 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 028-032 
31 
hằng số tốc độ k = 0,0733 min-1 chứng tỏ rằng quá 
trình hấp phụ phù hợp với mô hình động học bậc 1. 
0.00314 0.00316 0.00318 0.00320 0.00322 0.00324 0.00326
-0.6
-0.4
-0.2
0.0
0.2
0.4
ln
K
1/T (1/K)
y = 7861.616x - 25.2633
R2 = 0.846
Hình 5. Đồ thị lnK – 1/T 
20 25 30 35 40 45 50 55 60 65
-0.6
-0.4
-0.2
0.0
0.2
lo
g(
qe
-q
t)
t (min)
y = - 0.03183x + 0.76649
R2 = 0.9749 
(a) 
0 10 20 30 40 50 60
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
qe
 (
m
g/
g)
Ce (mg/L)
(b) 
Hình 6. a. Mô hình động học biểu kiến bậc 1; 
 b. Đường đẳng nhiệt hấp phụ MB trên 
GO/PVA, T = 308K, m = 0,1g 
Đường đẳng nhiệt hấp phụ của quá trình hấp 
phụ MB trên vật liệu màng GO/PVA được chỉ ra trên 
Hình 6b. 
Theo đó, độ hấp phụ qe cao nhất là 3,5 mg/g. So 
với các kết quả nghiên cứu về độ hấp phụ MB trên 
các vật liệu composite như graphene/calci alginat 
(181.81mg/g) [9], chitosan/bentonit (95,24mg/g ở 
298K) [10]... thì độ hấp phụ này tương đối nhỏ. Điều 
này có thể được giải thích như sau: (i) lượng GO đem 
sử dụng tạo vật liệu composite rất nhỏ, nhỏ hơn rất 
nhiều polymer PVA (chỉ chiếm ∼1% tổng khối lượng 
vật liệu composite), lượng polymer lớn có khả năng 
đã che đi phần nào các tâm/ nhóm chức hoạt động 
trên vật liệu GO, (ii) vật liệu GO tổng hợp có thể cần 
được cải tiến thêm. 
3.4 Khảo sát khả năng tái hấp phụ của vật liệu 
Các kết quả về hiệu suất hấp phụ sau các lần tái 
sử dụng được chỉ ra như trên Hình 7 cho thấy, sau 3 
lần tái sử dụng, gần 80% MB vẫn tiếp tục bị hấp phụ 
trên vật liệu chứng tỏ vật liệu có khả năng tái sử dụng 
nhiều lần. Điều này góp phần làm giảm giá thành của 
vật liệu và khả năng ứng dụng thực tiễn cao. 
1 2 3
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
H
(%
)
Lan
85.87% 81.37% 78.67%
Hình 7. Hiệu suất quá trình hấp phụ sau 3 vòng tái 
sinh 
IV - Kết luận 
 Vật liệu GO/PVA đã thể hiện khả năng hấp phụ 
chất màu MB với thời gian tiếp xúc là 93 phút thì quá 
trình đạt cân bằng, pH tối ưu cho quá trình hấp phụ là 
7 và quá trình hấp phụ MB này thích hợp ở điều kiện 
nhiệt độ thấp. Vật liệu dễ dàng thu hổi và tái sinh sau 
hấp phụ. Các kết quả tái sử dụng chỉ ra gần 80% MB 
vẫn tiếp tục bị hấp phụ trên vật liệu sau 3 lần sử dụng. 
Lời cảm ơn 
Bài báo được thực hiện dưới sự hỗ trợ của đề tài 
cấp Trường mã số T2018-PC-232. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Fuan He, Jintu Fan, Dong Ma, Liming Zhang,, 
Chiwah Leung, Helen Laiwa Chan, Journal of 
Carbon, vol 48(11), 2010, pp. 3139 - 3144 
[2] Ali Ammar Abdullah, Mal-Enizi, Mariam AlAli Al 
Maadeed, Alamgir Karim, Arabian Journal of 
Chemistry, vol 9(2), 2016, pp. 274-286 
[3] Shuai Jiang, Zhenglong He, Qifeng Li, Junwei Wang,
 Gangping Wu, Yuhua Zhao, Maoqing Kang, 
Polymer Composites, Wiley Online Library, 2018 
[4] Chenlu Bao, Lei Song, Weiyi Xing, Bihe Yuan, 
Charles Wikie, Jianliu Huang, Yuqiang Gua, Yuan 
Hu, Journal of Materials Chemistry, vol.22 (13), 
2012, pp. 6088-6096. 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 028-032 
32 
[5] Lu Zhang, Zhipeng Wang, Chen Xu, Yi Li, Jianping 
Gao, Wei Wang, Yu Liu, Journal of Materials 
Chemistry, Issue 28, 2011, pp.10399 - 10406. 
[6] Piming Ma, Luzhong Li, Zhu Wang, Huiyu Bai, 
Journal of Polymer Research, vol.22(8), 2015, pp.1 –
 10. 
[7] Ning Wang, Peter Chang, Pengwu Zheng, Xiaofeng 
Ma, Applied Surface Science, Vol. 314, 2014, pp. 
815 – 821. 
[8] Hoang V. Tran, Lieu T Bui, Thuy T Dinh, Dang H 
Le, Chinh D Huynh, Anh X Trinh.,. Materials 
Research Express, 2017. 4(3): p. 035701. 
[9] Yanhui Li, Qiuju Du, Tonghao Liu, Jiankun Sun, 
Yonghao Wang, Shaoling Wu, Zonghua Wang, 
Yanzhi Xia, Linhua Xia, Carbohydrate Polymers, 
Vol. 95, 2013, pp. 501–507. 
[10] Yasemin Bulut, Hatice Karaer, Journal of Dispersion 
Science and Technology, vol. 36(1), 2015, pp.61-67. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_kha_nang_hap_phu_xanh_metylen_cua_vat_lieu_mang_gra.pdf