Khả năng cải thiện độ chính xác định vị điểm khi kết hợp GPS và SBAS
Các vệ tinh địa tĩnh thuộc hệ thống tăng cường SBAS không những truyền số cải chính mà còn cung cấp cả mã C/A và bản lịch vệ tinh địa tĩnh trên tần số L1. Lúc này, vệ tinh địa tĩnh SBAS giống như vệ tinh GPS cung cấp trị đo giả cự ly đến người dùng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng cải thiện độ chính xác định vị điểm khi kết hợp GPS và SBAS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng cải thiện độ chính xác định vị điểm khi kết hợp GPS và SBAS
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol. 19, No. K4-2016 Trang 36 Khả năng cải thiện độ chính xác định vị điểm khi kết hợp GPS và SBAS Đỗ Công Hữu 1 Nguyễn Ngọc Lâu 2 1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Tp. HCM 2 Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM (Bản thảo nhận ngày 28 tháng 06 năm 2016, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 06 tháng 08 năm 2016) TÓM TẮT Các vệ tinh địa tĩnh thuộc hệ thống tăng cường SBAS không những truyền số cải chính mà còn cung cấp cả mã C/A và bản lịch vệ tinh địa tĩnh trên tần số L1. Lúc này, vệ tinh địa tĩnh SBAS giống như vệ tinh GPS cung cấp trị đo giả cự ly đến người dùng. Đặc điểm của trị đo này là nó luôn thường trực vì các vệ tinh địa tĩnh không di chuyển. Hiện nay, số lượng vệ tinh địa tĩnh của hệ thống SBAS đã gia tăng đáng kể. Đây có thể là nguồn bổ sung trị đo giả cự ly cho hệ thống GPS. Bài báo trình bày các khảo sát nhằm đánh giá khả năng cải thiện độ chính xác trong định vị điểm khi xử lý kết hợp trị đo của các vệ tinh địa tĩnh thuộc hệ thống SBAS và vệ tinh GPS. Việc khảo sát chỉ thực hiện trên nội dung đánh giá sự đóng góp của các vệ tinh địa tĩnh vào cấu hình định vị. Kết quả cho thấy chỉ số PDOP có thể cải thiện từ 1.2 đến 1.7 lần khi xử lý kết hợp.. Từ khóa: GPS, SBAS, định vị kết hợp, cải thiện độ chính xác 1. GIỚI THIỆU SBAS (Satellite Based Augmentation System) là hệ thống định vị tăng cường dựa trên cơ sở vệ tinh. Nói cách khác, đây là hệ thống định vị GPS vi phân diện rộng được phát triển và đưa vào sử dụng từ khoảng năm 2003. Hệ thống SBAS bao gồm mạng lưới các trạm tham chiếu và hệ thống phát tín hiệu cải chính trên diện rộng thông qua các vệ tinh viễn thông địa tĩnh. Các vệ tinh địa tĩnh trong hệ thống SBAS không chỉ phát các tín hiệu cải chính mà còn cung cấp trị đo giả cự ly tương tự như các vệ tinh GPS. Nếu chúng ta khảo sát đánh giá được độ tin cậy của các trị đo này. Đây sẽ là tiền đề tạo nên cơ sở lý thuyết cho việc định vị kết hợp giữa các trị đo của vệ tinh GPS và trị đo vệ tinh địa tĩnh của SBAS. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện độ chính xác định vị khi số lượng trị đo được bổ sung đáng kể. Trong bài báo này, chúng tôi tập trung vào việc chứng minh khả năng cải thiện độ chính xác khi kết hợp GPS và SBAS dựa vào chỉ số DOP và giả sử chất lượng trị đo SBAS và GPS là như nhau. Việc khảo sát độ chính xác của trị đo SBAS sẽ được trình bày trong một bài báo khác. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Tín hiệu L1 của vệ tinh SBAS TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ K4-2016 Trang 37 Các vệ tinh địa tĩnh của SBAS không những phát tín hiệu cải chính mà còn phát cả lịch vệ tinh địa tĩnh và C/A-code trên tần số L1(của GPS). Vì tần số phát giống như tần số của vệ tinh GPS cho nên máy thu GPS của người sử dụng có thể thu và giải mã, cung cấp trị đo giả cự ly từ vệ tinh SBAS đến máy thu [1], [3]. Lúc này vệ tinh địa tĩnh trở thành một vệ tinh định vị tương tự như vệ tinh GPS cung cấp bổ sung một nguồn trị đo khoảng cách giả từ máy thu đến vệ tinh địa tĩnh. Các vệ tinh địa tĩnh không di chuyển như các vệ tinh GPS nên trị đo này luôn thường trực trong khu vực đo. Với đồ hình phân bố của hệ thống SBAS hiện nay, số lượng vệ tinh địa tĩnh hoạt động trên quỹ đạo xích đạo đã lên tới khoảng 13 vệ tinh (số lượng này sẽ tăng khi các hệ thống khác được hoàn thiện) và được phân bố bao phủ toàn cầu (Hình 1). Tại một điểm bất kỳ sẽ thu nhận được ít nhất từ 2-3 trị đo của vệ tinh địa tĩnh. Điều này làm gia tăng đáng kể số lượng trị đo thu được tại trạm thu. 2.2 Trị đo vệ tinh SBAS Giống như vệ tinh GPS, mỗi vệ tinh địa tĩnh của hệ thống SBAS được gán một mã giả ngẫu nhiên theo thứ tự (Pseudo Random Noise – PRN). Vì thế, số hiệu vệ tinh cũng được ký hiệu kèm PRN (ví dụ: PRN127, PRN139). Việc thu và giải mã các tín hiệu đều dùng các kỹ thuật tương tự như đối với tín hiệu GPS. Đối với các máy thu GNSS có khả năng thu tín hiệu SBAS thì file trị đo có được từ quá trình thu bao gồm file trị đo (observation) chứa cả trị đo của các vệ tinh GPS và SBAS (Hình 2), file bản lịch vệ tinh GPS (navigation) chứa các thông số quỹ đạo vệ tinh GPS, file bản lịch vệ tinh SBAS (SBAS Navigation) chứa thông số về tọa độ các vệ tinh địa tĩnh SBAS (Hình 3). Hình 1. Đồ hình phân bố các vệ tinh địa tĩnh SBAS 2015 08 04 00 01 30.0000000 0 32 G01 22973424.062 7 120726159.06707 2601.349 7 S27 39894329.029 5 209646105.30705 -5.168 5 G03 23670440.304 5 124389000.67605 2341.878 5 G31 24935174.980 6 131035235.34306 2456.501 6 S37 37533496.127 7 197239856.52107 3.049 7 Hình 2. Cấu trúc file Observation_Rinex_v3.01 chứa trị đo SBAS SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol. 19, No. K4-2016 Trang 38 S37 2015 08 04 00 01 04 6.891787052155E-08-1.818989403546E-12 1.728400000000E+05 -3.451267336000E+04-5.418750000000E-04-1.000000000000E-07 3.100000000000E+01 2.419934632000E+04-1.921875000000E-03-5.000000000000E-08 1.600000000000E+01 -1.114800000000E+00-1.024000000000E-03 0.000000000000E+00 1.500000000000E+02 Hình 3. Cấu trúc Navigation_SBAS_Rinex_v3.01chứa tham số tọa độ vệ tinh SBAS 2.3 Tọa độ vệ tinh Tọa độ vệ tinh GPS được tính từ tập tham số quỹ đạo vệ tinh cho trong bản lịch phát tín. Các công thức, các thuật toán tính toán và các vấn đề về sai số được tham khảo đầy đủ theo tài liệu [4], [5]. Khác với hệ thống định vị GPS, lịch vệ tinh địa tĩnh của hệ thống SBAS lại cung cấp các vector trạng thái gồm tọa độ, vận tốc và gia tốc vệ tinh tại thời điểm lịch (giống GLONASS). Trên cơ sở đó cần phải tính tọa độ vệ tinh tại thời điểm quan sát (t) [6]. Để tính tọa độ vệ tinh tại thời điểm quan sát (t), người ta sử dụng phương pháp Runge – Kutta. Bài báo sử dụng công thức Runge – Kutta bậc 4 để đảm bảo độ chính xác xác định tọa độ vệ tinh SBAS. Công thức Runge – Kutta bậc 4 có dạng: (1) Trong đó ký hiệu đạo hàm bậc nhất: (2) Và (3)
File đính kèm:
- kha_nang_cai_thien_do_chinh_xac_dinh_vi_diem_khi_ket_hop_gps.pdf