Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình sau can thiệp giáo dục sức khoẻ
Đánh giá thay đổi thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm sau chương trình giáo dục sức khoẻ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình sau can thiệp giáo dục sức khoẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình sau can thiệp giáo dục sức khoẻ
59 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 KẾT QUẢ THỰC HÀNH TỰ CHĂM SÓC BÀN CHÂN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THÁI BÌNH SAU CAN THIỆP GIÁO DỤC SỨC KHOẺ Ngô Huy Hoàng1, Lê Thị Hoa2 1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, 2Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình Người chịu trách nhiệm: Ngô Huy Hoàng Email: ngohoang64@ndun.edu.vn Ngày phản biện: 12/02/2020 Ngày duyệt bài: 26/02/2020 Ngày xuất bản: 16/3/2020 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá thay đổi thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm sau chương trình giáo dục sức khoẻ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Can thiệp có nhóm chứng và so sánh trước - sau được thực hiện trên 104 người bệnh đái tháo đường type 2, đang điều trị ngoại trú tại Phòng khám Nội tiết - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình từ 03/2019 đến 05/2019. Phân nhóm ngẫu nhiên 52 người bệnh vào nhóm nghiên cứu (nhận Chương trình giáo dục sức khoẻ) và 52 người bệnh vào nhóm chứng (nhận Hướng dẫn thông thường). Sử dụng cùng một bộ công cụ để đánh giá thực hành tự chăm sóc bàn chân ở các thời điểm trước can thiệp, ngay sau can thiệp và 1 tháng sau can thiệp cho cả 2 nhóm. Kết quả: Trước can thiệp, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng, với điểm trung bình thực hành tự chăm sóc bàn chân theo thứ tự là 11,92 ± 2,56 điểm so với 12,37 ± 2,72 điểm trên tổng 19 điểm của thang đo (p > 0,05). Có sự cải thiện rõ rệt về thực hành tự chăm sóc bàn chân ở nhóm nghiên cứu với điểm trung bình là 15,94 ± 1,81 điểm sau Chương trình giáo dục sức khoẻ 1 tháng so với 11,92 ± 2,56 điểm trước can thiệp (p < 0,001). Trong khi ở nhóm chứng, có sự tăng điểm sau 1 tháng đạt 13,02 ± 2,72 điểm so với 12,37 ± 2,72 điểm ở thời điểm trước can thiệp, mức tăng không đáng kể (p>0,05). Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ áp dụng trong nghiên cứu bước đầu cho thấy đã cải thiện rõ rệt thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 so với hướng dẫn thông thường. Từ khóa: đái tháo đường type 2, thực hành, tự chăm sóc bàn chân RESULTS IN FOOT SELF-CARE PRACTICE AMONG OUTPATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES MANAGED BY THAI BINH GENERAL HOSPITAL AFTER A HEALTH EDUCATIONAL INTERVENTION ABSTRACT Objective: To assess the foot self-care practice among outpatients with type 2 diabetes in Thai Binh General Hospital after completing a health education program. Method: The interventional study design used control group was conducted from March 2019 to May 2019 in 104 type 2 diabetic outpatients. The included patients were randomly allocated into two groups with 52 participants received the study’s educational program and 52 others received the common instruction as the control group. The same instrument was 60 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 used to assess foot self-care practice for both groups and time series with measure before the intervention and one month after completing the intervention. Results: Before the intervention, no significant differerence was seen in the foot self-care practice between the research group and the control group with the mean scores of 11.92 ± 2.56 points and 12.37 ± 2.72 points, respectively (p > 0,05). One month after completing the educational intervention, there was a significant improvement in the foot self-care practice in patients who received the study’s educational program with the mean scores of 15,94 ± 1,81 points in comparision with 11,92 ± 2,56 points before the intervention (p < 0,001). Meanwhile, no significant difference in the foot self-care practice in the patients of control group before and after the intervention showed with 13,02 ± 2,72 points and 12,37 ± 2,72 points, respectively (p > 0,05). Conclusion: The educational program applied in this study showed the significant improvement in the foot self-care pactice in patients with type 2 diabetes. Keywords: type 2 diabetes, practice, foot self-care 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là căn bệnh phổ biến và đang ngày một gia tăng ở cả những nước phát triển cũng như đang phát triển, chủ yếu là ĐTĐ type 2. Theo số liệu thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) năm 2017 cho thấy cứ 11 người trưởng thành (từ 20 đến 79 tuổi) lại có 1 người bị ĐTĐ, tương đương với 425 triệu người mắc toàn cầu [10], [11]. Tại Việt Nam, tỷ lệ người mắc đái tháo đường tăng nhanh với 3,5 triệu người trưởng thành mắc ĐTĐ vào năm 2015, tương đương với 6% dân số và dự kiến đến năm 2040 sẽ có 6,1 triệu người mắc [1], [2]. Người bệnh ĐTĐ phải đối mặt với nhiều biến chứng, như bệnh tim mạch, mù lòa, suy thận và cắt cụt chi [12]. Trong đó, có tới 0,03% đến 1,5% người bệnh phải cắt cụt chân hậu quả của biến chứng ở chân, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống của người bệnh [9]. Việc nhận thức đúng về chăm sóc bàn chân ở người bệnh ĐTĐ có vai trò quan trọng, giúp giảm thiểu các vấn đề về bàn chân ĐTĐ và cắt cụt chi [12]. Thái Bình là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, trong những năm gần đây, số lượng người dân mắc bệnh ĐTĐ trong tỉnh cũng gia tăng. Phòng khám Nội tiết – Bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh Thái Bình hiện nay đang quản lý hơn 1000 NB đái tháo đường điều trị ngoại trú, trong đó chủ yếu là người bệnh (NB) đái tháo đường type 2. Với đặc điểm là 1 tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp, phần lớn dân số sống ở nông thôn (chiếm 83,6%), do đặc thù công việc của nghề nông cũng như các công việc lao động thể lực khác với thói quen đi chân trần, rất dễ dẫn đến nguy cơ bị tổn thương bàn chân trong quá trình lao động. Các nghiên cứu được công bố chính thức về ĐTĐ trên địa bàn tỉnh hiện đang tập trung vào các vấn đề về chẩn đoán, điều t ... à nhóm đối chứng. 3.2. Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh tham gia nghiên cứu Bảng 3.1. Kết quả chung thực hành tự chăm sóc bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT Điểm thực hành Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) p (t-test) Trước CT Min 7 6 Max 17 17 = 0,431 Mean ± SD 11,92 ± 2,56 12,37 ± 2,72 Sau CT Min 10 6 Max 18 17 = 0,029 Mean ± SD 15,94 ± 1,81 13,02 ± 2,72 p (t-test) = 0,000 = 0,127 Trước can thiệp, điểm trung bình thực hành của nhóm NC là 11,92 ± 2,56 điểm và của nhóm ĐC là 12,37 ± 2,72 điểm trên tổng 19 điểm của thang đo, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Sau can thiệp, điểm trung bình thực hành ở nhóm NC đạt 15,94 ± 1,81 điểm, tăng có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp (p < 0,001) và cũng tăng có ý nghĩa thống kê so với nhóm ĐC (p < 0,05). Điểm thực hành ở nhóm ĐC cũng tăng nhẹ đạt 13,02 ± 2,72 điểm ở thời điểm sau 1 tháng so với 12,37 ± 2,72 điểm (p > 0,05). 63 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 Bảng 3.2. Mức độ thực hành tự chăm sóc bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT Mức độ thực hành Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) SL TL % SL TL % Trước CT Tốt (13 – 19 điểm) 31 59,6 33 63,5 Trung bình (10 - 12 điểm) 16 30,8 11 21,2 Kém (< 10 điểm) 5 9,6 8 15,4 Sau CT Tốt (13 – 19 điểm) 48 93,2 35 67,3 Trung bình (10 - 12 điểm) 4 7,7 13 25,0 Kém (< 10 điểm) 0 0,0 4 7,7 Sau can thiệp 1 tháng, tỷ lệ người bệnh thực hành chăm sóc bàn chân ở mức tốt của nhóm NC đạt 93,2% tăng so với 59,6% trước can thiệp, không còn người bệnh thực hành ở mức kém so với 5 người trước can thiệp. Xu hướng này cũng thấy ở nhóm ĐC nhưng tỷ lệ tăng mức thực hành tốt và giảm mức thực hành kém tương ứng ít hơn nhiều so với nhóm NC. Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân theo 4 nội dung của 2 nhóm NC và ĐC được thể hiện qua các Bảng 3.3 đến 3.6 dưới đây. Bảng 3.3. cho thấy, trước can thiệp, một số nội dung về kiểm tra bàn chân ở nhóm ĐC có số NB thực hiện nhiều hơn một chút so với nhóm NC. Sau 1 tháng, hầu hết các nội dung thực hành này đều được nhiều người bệnh thực hiện đúng ở nhóm NC hơn so với nhóm ĐC. Bảng 3.3. Thực hành kiểm tra bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT Nội dung thực hành Thực hành đúng Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) SL TL % SL TL % Thực hiện kiểm tra bàn chân hàng ngày Trước CT 37 71,2 42 80,8 Sau CT 52 100,0 52 100,0 Ngồi ở vị trí thuận tiện, có đủ ánh sáng Trước CT 34 65,4 40 76,9 Sau CT 52 100,0 49 94,2 Kiểm tra đầy đủ các vị trí của bàn chân Trước CT 28 53,8 34 65,4 Sau CT 48 92,3 35 67,3 Dùng gương soi để kiểm tra lòng bàn chân Trước CT 3 5,8 8 15,4 Sau CT 20 38,5 8 15,4 64 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 Bảng 3.4. Thực hành vệ sinh bàn chân hàng ngày của 2 nhóm trước và sau CT Nội dung thực hành Thực hành đúng Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) SL TL % SL TL % Rửa chân bằng nước ấm hàng ngày Trước CT 36 69,2 34 65,4 Sau CT 52 100,0 35 67,3 Kiểm tra nhiệt độ của nước khi pha nước tắm hoặc rửa chân Trước CT 44 84,6 46 88,5 Sau CT 52 100,0 47 90,4 Lau khô bàn chân sau khi rửa Trước CT 28 53,8 26 50,0 Sau CT 44 84,6 28 53,8 Bôi kem dưỡng ẩm cho bàn chân Trước CT 6 11,5 12 23,1 Sau CT 16 30,8 13 25,0 Cắt móng chân sau khi tắm hoặc rửa chân Trước CT 19 36,5 23 44,2 Sau CT 46 88,5 45 86,5 Không dùng dao lam cắt bỏ chai chân Trước CT 46 88,5 45 86,5 Sau CT 50 96,2 44 84,6 Bảng 3.4 cho thấy, trước can thiệp, một số nội dung về vệ sinh bàn chân ở nhóm ĐC có số NB thực hiện nhiều hơn một chút so với nhóm NC. Sau 1 tháng, xu hướng là tỷ lệ NB thực hành đúng các nội dung vệ sinh bàn chân ở nhóm NC (nhóm nhận chương trình GDSK) tăng lên và tăng cao hơn tương ứng so với ở nhóm ĐC (nhóm nhận hướng dẫn thông thường). Bảng 3.5. Thực hành bảo vệ bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT Nội dung thực hành Thực hành đúng Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) SL TL % SL TL % Không đi chân trần trong nhà Trước CT 21 40,4 19 36,5 Sau CT 41 78,8 29 55,8 Không đi chân trần ngoài nhà Trước CT 45 86,5 46 88,5 Sau CT 47 90,4 48 92,3 Kiểm tra giày hoặc dép trước khi mang Trước CT 42 80,8 41 78,8 Sau CT 49 94,2 41 78,8 Không chườm chân bằng chai nước nóng; hơ chân bếp lửa Trước CT 45 86,5 33 63,5 Sau CT 50 96,2 32 61,5 Bảng 3.5 cho thấy, ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK tỷ lệ người bệnh thực hành tất cả các nội dung về bảo vệ bàn chân đều cao hơn trước và cao hơn so với các tỷ 65 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 lệ này ở nhóm ĐC. Bảng 3.6. Thực hành tăng tuần hoàn cho bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT Nội dung thực hành Thực hành đúng Nhóm NC (n=52) Nhóm ĐC (n=52) SL TL % SL TL % Không đi tất chật Trước CT 49 94,2 48 92,3 Sau CT 49 94,2 49 94,2 Ngồi kê chân lên ghế Trước CT 16 30,8 26 50,0 Sau CT 30 57,7 28 53,8 Không ngồi vắt chéo chân Trước CT 35 67,3 40 76,9 Sau CT 45 86,5 41 78,8 Tập cử động ngón chân Trước CT 41 78,8 41 78,8 Sau CT 43 82,7 41 78,8 Đi bộ, đạp xe đạp Trước CT 41 78,8 46 88,5 Sau CT 50 96,2 47 90,4 Bảng 3.6 cho thấy thực hành tăng cường tuần hoàn cho bàn chân có xu hướng tương tự như thực hành bảo vệ bàn chân với nhiều nội dung có tỷ lệ người bệnh thực hiện nhiều hơn ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK và cao hơn so với các tỷ lệ ở các nội dung tương ứng của nhóm ĐC. 4. BÀN LUẬN Như đã đề cập ở mục 3.1, người bệnh ĐTĐ type 2 đã tham gia nghiên cứu thuộc nhóm người cao tuổi (64,1 ± 9,3 tuổi), độ tuổi trong nghiên cứu này tương tự với độ tuổi của người bệnh trong một số nghiên cứu khác gần đây ở Việt Nam như Nguyễn Thanh Sơn năm 2017 [5] là 64,19 ± 9,45 tuổi; Lê Thị Nhật Lệ năm 2018 [4] là 60,2 ± 9,8 tuổi; Hồ Phương Thúy năm 2018 [3] là 61,81 ± 8,38 tuổi. Mặc dù không phải là những nghiên cứu dịch tễ học song các con số này cũng phản ánh xu thế chung của bệnh ĐTĐ Type 2 là tăng lên theo tuổi. Thời gian có bệnh của người bệnh tham gia nghiên cứu khá dài trung bình là 9,5 ± 6,8 năm. Trong khi biến chứng loét bàn chân dễ xuất hiện ở những người bệnh có thời gian mắc bệnh lâu ngày [9] và loét bàn chân tăng theo thời gian mắc bệnh [8] cho thấy sự cần thiết phải trang bị cho người bệnh kiến thức và kỹ năng về chăm sóc bàn chân giúp người bệnh có thể tự chăm sóc bàn chân lâu dài khi ở nhà song song với các biện pháp tuân thủ điều trị khác. Trước can thiệp (Bảng 3.1), điểm thực hành tự chăm sóc bàn chân của NB ĐTĐ type 2 ở hai nhóm là tương đương với 11,92 ± 2,56 điểm trên tổng 19 điểm của thang đo ở nhóm NC và 12,36 ± 3,1 điểm trên tổng 19 điểm của thang đo ở nhóm ĐC (p > 0,05). Với kết quả về điểm thực hành này cho thấy trong quá trình được quản lý ngoại trú tại Bệnh viện, người bệnh đã tiếp thu và thực hiện những kiến thức và thực hành tự chăm sóc cho bản thân và không thể phủ nhận vai trò của tư vấn từ nhân viên y tế, từ các phương tiện truyền thông và từ chính ý thức của bản thân người bệnh. Tuy nhiên, điểm thực hành này còn thấp và cũng tương tự như kết quả này từ một số nghiên cứu khác: 5,6 ± 1,9 điểm trên thang điểm 10 của Nguyễn Thị Bích Đào [6]; 12,71 ± 3,62 trên tổng 21 điểm của Hồ 66 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 Phương Thúy [3]. Kết quả thực hành trước can thiệp chưa phải là lý tưởng và có thể lý giải là người bệnh ĐTĐ phải thực hiện cùng lúc nhiều nội dung tuân thủ và có lẽ chăm sóc bàn chân chưa thật sự được chú trọng trong quá trình người bệnh được khám và điều trị ngoại trú. Sau can thiệp 1 tháng, cả 2 nhóm đều có sự cải thiện điểm, tuy nhiên ở nhóm nghiên cứu (nhận chương trình GDSK về tự chăm sóc bàn chân) có sự cải thiện thực hành rõ ràng hơn với điểm trung bình đạt 15,94 ± 1,81 điểm so với 11,92 ± 2,56 điểm trước khi nhận chương trình GDSK về tự chăm sóc bàn chân (p < 0,001). Trong khi, ở nhóm chứng có sự tăng điểm sau 1 tháng đạt 13,02 ± 2,72 không đáng kể so với 12,36 ± 3,1 điểm trước đó (p > 0,05). Về phân loại mức độ thực hành, kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK về tự chăm sóc bàn chân, tỷ lệ người bệnh thực hành đạt mức tốt tăng lên 93,2% tăng so với 59,6% trước can thiệp và không còn người bệnh thực hành ở mức kém. Kết quả phân loại này tương đồng với kết quả này của Nguyễn Thị Bích Đào (26,4%) [6] và Nguyễn Tiến Dũng (29%) [7]. Trong khi, ở nhóm ĐC, sau 1 tháng tỷ lệ người bệnh thực hành đạt mức tốt tăng không đáng kể đạt 67,3% so với 63,5% trước đó. Các Bảng 4.3 đến 3.6 cho thấy, mặc dù không đồng đều về tỷ lệ thực hiện các nội dung về tự chăm sóc bàn chân, nhưng có bản ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK về tự chăm sóc bàn chân có nhiều người bệnh thực hành đúng hơn so với nhóm ĐC (nhận những hướng dẫn như thường lệ mỗi khi đến tái khám. Tổng hợp các thay đổi sau can thiệp ở cả hai nhóm cho thấy chương trình GDSK trọng tâm vào chăm sóc bàn chân đã có tác dụng tích cực qua cải thiện thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh ĐTĐ type 2 trong nghiên cứu này. Nghiên cứu cũng có một số hạn chế như chọn mẫu không xác suất không mang tính đại điện và không thể ngoại suy, thời gian đánh giá lại sau can thiệp ngắn, trong quá trình nghiên cứu có thể có các yếu tố khác tác động đến chăm sóc bàn chân của người bệnh ở cả 2 nhóm. 5. KẾT LUẬN Thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 sau khi nhận GDSK trọng tâm vào tự chăm sóc bàn chân được cải thiện rõ rệt với điểm trung bình thực hành là 15,94 ± 1,81 điểm tăng rõ rệt so với 11,92 ± 2,56 điểm của cùng thang đo có tổng là 19 điểm (p < 0,001). Cũng có sự tăng điểm thực hành ở nhóm đối chứng nhưng không đáng kể với 13,02 ± 2,72 điểm so với 12,36 ± 3,1 điểm (p > 0,05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2018). “Gánh nặng bệnh đái tháo đường tại Việt Nam”, truy cập từ: vn ngày truy cập 15/2/2019. 2. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2018). “Tình hình đái tháo đường”, truy cập từ: ngày truy cập 15/2/2019. 3. Hồ Phương Thúy (2018). Thay đổi kiến thức và thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh tuyên quang năm 2018, Luận văn Thạc sỹ Điều dưỡng, ĐH Điều dưỡng Nam Định. 4. Lê Thị Nhật Lệ (2018). Tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2017. Hội nghị khoa học kỹ thuật lần thứ 35, ĐH Y dược TP Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Thanh Sơn (2017). Chất lượng cuộc sống và hiệu quả giải pháp quản lý, chăm sóc người bệnh đái tháo đường type 2 tai nhà tỉnh Thái Bình, Luận án Tiến sỹ Y học, trường Đại học Y-Dược 67 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01 Thái Bình. 6. Nguyễn Thị Bích Đào và Vũ Thị Là (2011). Kiến thức, thái độ và hành vi tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 đến khám và điều trị tại Bệnh viện chợ Rẫy. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 16(2), tr.60-69. 7. Nguyễn Tiến Dũng và Phùng Văn Lợi (2011). Các yếu tố liên quan đến hành vi chăm sóc bàn chân ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Thái Nguyên Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 104(4), tr.55-60. 8. Bondor C.I., Ioan A. V., Bogdan F., et al. (2016). Epidemiology of Diabetic Foot Ulcers and Amputations in Romania: Results of a Cross-Sectional Quality of Life Questionnaire Based Survey. Journal of Diabetes Research, 2016, pp.1-7. 9. Boyko E. J., Ahroni J. H., Cohen V., et al. (2006). Prediction of diabetic foot ulcer occurrence using commonly available clinical information: the Seattle Diabetic Foot Study. Diabetes Care, 29(6), pp.1202-7. 10. International Diabetes Federation (2017), “IDF Clinical Practice Recommendations for managing Type 2 Diabetes in Primary Care”, International Diabetes Federation, pp.1-43. 11. International Diabetes Federation (2017), “IDF Clinical Practice Recommendations on the Diabetic Foot”, International Diabetes Federation, pp.1-70 12. World Health Organization. (2016). Global report on diabetes: ISBN 978 92 4 156525 7 (NLM classifcation: WK 810). THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TỔN THƯƠNG DO VẬT SẮC NHỌN CỦA ĐIỀU DƯỠNG: MỘT NGHIÊN CỨU DỰA TRÊN MÔ HÌNH NIỀM TIN SỨC KHỎE Đỗ Minh Sinh1, Hoàng Trung Tiến2 1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; 2Trường Đại học Yersin Đà Lạt TÓM TẮT Mục tiêu: nhằm mô tả thái độ của điều dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn dựa theo mô hình niềm tin sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện với 149 điều dưỡng viên chăm sóc người bệnh đang làm việc tại những khoa có tiếp xúc với vật sắc nhọn của Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng. Thu thập số liệu bằng hình thức phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: đa số điều dưỡng có thái độ tích cực đối với mức độ nghiêm trọng của tổn Người chịu trách nhiệm: Đỗ Minh Sinh Email: minhsinh82@gmail.com Ngày phản biện: 24/02/2020 Ngày duyệt bài: 02/3/2020 Ngày xuất bản: 16/3/2020 thương do vật sắc nhọn. Tỷ lệ điều dưỡng có thái độ tích cực với tính nhạy cảm của bệnh chiếm > 90% ở tất cả các nội dung. Nhìn chung niềm tin của điều dưỡng đối với các biện pháp dự phòng là khá cao chiếm > 75% ở tất cả các nội dung. Mặc dù vậy, ở một số nội dung tỷ lệ điều dưỡng có thái độ chưa tích cực chiếm trên 16% và một số yếu tố như quá tải công việc, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an toàn, thiếu kiến thức được cho là rào cản. Kết luận: đa phần điều dưỡng đã có thái độ tích cực về tổn thương do vật sắc nhọn, dựa trên học thuyết “mô hình niềm tin sức khoẻ” có khả năng cao các điều dưỡng trong nghiên cứu này sẽ thực hiện các biện pháp dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn. Từ khóa: Tổn thương do vật sắc nhọn, thái độ, điều dưỡng
File đính kèm:
- ket_qua_thuc_hanh_tu_cham_soc_ban_chan_cua_nguoi_benh_dai_th.pdf