Implementation of Tropical Cyclone Detection Scheme to CCAM Model for Seasonal Tropical Cyclone Prediction over the Vietnam East Sea
This study has selected a vortex tracking algorithm scheme for simulating the activity of
tropical cyclone in the Vietnam East Sea by CCAM model. The results show that the CCAM model
is able to simulate well the large scale in each month through a reasonable description of the
movement rules of the tropical cyclone in the study area. Then, this vortex tracking algorithm
scheme was applied to test the seasonal forecast with the outputs of the CCAM model with a
resolution of 20km for September 2018 and October 2018. The obtaining results are forecasted quite
closely in terms of both quantity and high potential occurrence areas of the tropical cyclone when
compared with reality. In particular, for October 2018, although the activity area of the tropical
cyclone - YUTU is significantly different from the multi-year average activity position, the seasonal
forecast results are obtained from the 120 members of the CCAM model captured this difference.
This suggests that it is possible to apply the CCAM model in combination with the selected vortex
tracking algorithm scheme for the seasonal forecast of the tropical cyclone over the Vietnam East
Sea region in the future
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Implementation of Tropical Cyclone Detection Scheme to CCAM Model for Seasonal Tropical Cyclone Prediction over the Vietnam East Sea
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 49 Original Article Implementation of Tropical Cyclone Detection Scheme to CCAM Model for Seasonal Tropical Cyclone Prediction over the Vietnam East Sea Pham Thanh Ha1, Hoang Danh Huy1, Pham Quang Nam1, Jack Katzfey2, John McGregor2, Nguyen Kim Chi2, Tran Quang Duc1, Nguyen Manh Linh3, Phan Van Tan1,* 1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2CSIRO, Australia, 107-121 Station St, Aspendale VIC 3195, Australia 3National Centre for Hydro-Meteorological Forecasting, Vietnam Meteorological Hydrological Administration, 62 Nguyen Chi Thanh, Hanoi, Vietnam Received 18 April 2019 Revised 06 June 2019; Accepted 17 July 2019 Abstract: This study has selected a vortex tracking algorithm scheme for simulating the activity of tropical cyclone in the Vietnam East Sea by CCAM model. The results show that the CCAM model is able to simulate well the large scale in each month through a reasonable description of the movement rules of the tropical cyclone in the study area. Then, this vortex tracking algorithm scheme was applied to test the seasonal forecast with the outputs of the CCAM model with a resolution of 20km for September 2018 and October 2018. The obtaining results are forecasted quite closely in terms of both quantity and high potential occurrence areas of the tropical cyclone when compared with reality. In particular, for October 2018, although the activity area of the tropical cyclone - YUTU is significantly different from the multi-year average activity position, the seasonal forecast results are obtained from the 120 members of the CCAM model captured this difference. This suggests that it is possible to apply the CCAM model in combination with the selected vortex tracking algorithm scheme for the seasonal forecast of the tropical cyclone over the Vietnam East Sea region in the future. Keywords: Vortex tracking algorithm scheme, Tropical storm, Tropical cyclone, The Vietnam East Sea. * ________ * Corresponding author. E-mail address: phanvantan@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4384 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 50 Thử nghiệm sơ đồ dò tìm xoáy cho mô hình CCAM để dự báo bão hạn mùa khu vực Biển Đông Phạm Thanh Hà1, Hoàng Danh Huy1, Phạm Quang Nam1, Jack Katzfey2, John McGregor2, Nguyễn Kim Chi2, Trần Quang Đức1, Nguyễn Mạnh Linh3, Phan Văn Tân1,* 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2CSIRO, Australia, 107-121 Station St, Aspendale VIC 3195, Australia 3Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia, Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, 62 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 18 tháng 4 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 06 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 7 năm 2019 Tóm tắt: Nghiên cứu này đã lựa chọn được một sơ đồ dò tìm xoáy phù hợp cho việc mô phỏng hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông bằng mô hình CCAM. Các kết quả thu được cho thấy mô hình CCAM có khả năng mô phỏng tốt các trường hoàn lưu trong từng tháng thông qua việc mô tả hợp lý quy luật dịch chuyển của XTNĐ trên khu vực đang nghiên cứu. Sau đó, sơ đồ dò tìm xoáy này được áp dụng thử nghiệm phụ vụ công tác dự báo hạn mùa với các kết quả đầu ra của mô hình CCAM với độ phân giải 20km cho tháng 9/2018 và tháng 10/2018. Các kết quả nhận được đã dự báo khá sát cả về số lượng lẫn vùng có khả năng cao xuất hiện hoạt động của XTNĐ khi so sánh với thực tế. Đặc biệt, đối với tháng 10/2018, mặc dù vùng hoạt động của XTNĐ – YUTU có phần khác biệt so với vị trí trung bình nhiều năm, nhưng các kết quả dự báo hạn mùa thu được từ 120 thành phần dự của mô hình CCAM kết hợp với sơ đồ dò tìm xoáy được lựa chọn đã nắm bắt được sự thay đổi này. Điều này, cho thấy khả năng có thể sử dụng mô hình CCAM kết hợp với bộ chỉ tiêu dò tìm xoáy đã lựa chọn đối với công tác dự báo hạn mùa hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông trong tương lai. Từ khoá: Sơ đồ dò tìm xoáy, bão, xoáy thuận nhiệt đới, Biển Đông. 1. Mở đầu Xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) là một trong những hiện tượng thời tiết nguy hiểm. Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển chạy dài trên 3000 ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phanvantan@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4384 km chạy theo hướng Bắc Nam, hàng năm chịu ảnh hưởng của khoảng 11.9 XTNĐ trên Biển Đông (Đinh Văn Ưu, 2009 [1]). Sự xuất hiện của XTNĐ thường kèm theo những hiện tượng thời tiết nguy hiểm như mưa lớn, gió mạnh, sóng to..., P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 51 gây nên thiệt hại đến đời sống xã hội và kinh tế đối với những khu vực XTNĐ đi qua. Đặc biệt, sự xuất hiện của XTNĐ trên biển là một mối nguy hiểm đe doạ trực tiếp tới tính mạng của ngư dân, nhất là trong trường hợp đánh bắt xa bờ. Ngoài ra, sự xuất hiện XTNĐ gây khó khăn trong với công tác tuần tra, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển cũng như hoạt động sinh sống, kinh tế tại các vùng hải đảo. Bởi vậy, những thông tin về dự báo và cảnh báo bão luôn là mối quan tâm của toàn xã hội. Bên cạnh bài toán dự báo bão thời tiết, hiện nay dự báo bão hạn mùa đang là một trong những vấn đề được đặc biệt chú trọng bởi tầm quan trọng trong ứng dụng thực tiễn. Dự báo bão hạn mùa có thể cung cấp thông tin về khả năng xuất hiện của bão trong tương lai với hạn đủ dài (thường là vài ba tháng tới dưới một năm) phục vụ phòng tránh thiên tai một cách chủ động. Dự báo bão hạn mùa có thể được tiếp cận bằng nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên có thể chia thành 3 cách chính: 1) hướng tiếp cận động lực dựa trên việc sử dụng các thông tin về sự hình thành và phát triển của XTNĐ từ các mô hình dự báo khí hậu; 2) hướng tiếp cận thống kê dựa trên mối quan hệ giữa một ... m xét vùng hoạt động của XTNĐ theo các tháng, nhưng SĐ1 vẫn chưa nắm bắt được chính xác về số lượng và biến trình hoạt động trong năm. Vì vậy, để đánh giá khả năng dự báo bão hạn mùa số lượng và vùng hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông bằng mô hình CCAM, ở đây sẽ thử nghiệm áp dụng SĐ2. 3.2. Thử nghiệm khả năng dò tìm XTNĐ trên khu vực Biển Đông bằng mô hình CCAM cho dự báo hạn mùa Trong mục này sẽ trình bày kết quả thử nghiệm dự báo cho tháng 09/2018, tháng 10/2018 với thời gian bắt đầu chạy dự báo từ tháng 08/2018 bằng mô hình CCAM độ phân giải 20km kết hợp sơ đồ dò tìm xoáy của SĐ2. Quan trắc SĐ1 SĐ2 Tháng 07 Tháng 08 P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 56 Tháng 09 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Hình 2. Mô tả vùng hoạt động trung bình của XTNĐ từ tháng 7 đến tháng 12 trên khu vực Biển Đông trong giai đoạn 1980-2014 dựa trên số lượng XTNĐ thu thập được từ trang web: weather.unisys.com (Quan trắc); và số lượng XTNĐ dò được bằng SĐ1 và SĐ2. P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 57 Trên thực tế, việc dự báo được số lượng XTNĐ cho một năm cụ thể nào đó nói chung không đơn giản. Bởi vậy, thông thường thay cho việc dự báo số lượng người ta chọn phương án dự báo pha. Dự báo pha không chỉ ra được số lượng bão cụ thể mà chỉ đưa ra thông tin về khả năng bão hoạt động nhiều hơn (trên chuẩn), ít hơn (dưới chuẩn) hay tương đương với trung bình nhiều năm (tương đương chuẩn) của từng tháng trong năm. Ngưỡng được sử dụng để xác định các pha trong trường hợp này là các phân vị 33% (q33) và 66% (q66) được tính từ bộ số liệu quan trắc số lượng XTNĐ giai đoạn 1980-2014 cho từng tháng. Thông tin về giá trị phân vị q33, q66 và trung bình của số lượng XTNĐ tương của tháng 9 và tháng 10 được cung cấp ở bảng 2. Từ đó, kết quả dự báo pha cho một tháng nào đó có số lượng XTNĐ dự báo (NTCDB) là trên chuẩn nếu NTCDB>q66, là dưới chuẩn nếu NTCDB≤q33, và tương đương chuẩn nếu q33<NTCDB≤q66. Ngoài ra, vùng bão hoạt động được dự báo dựa trên tần suất xuất hiện XTNĐ tính từ quỹ đạo dò tìm được nhờ SĐ2 đối với tất cả các thành phần dự báo. Bảng 2. Giá trị phân vị q33, trung bình và phân vị q66 của tháng 9 và tháng 10 q33 Trung bình q66 Tháng 09 3.0 4.1 5.0 Tháng 10 2.0 3.0 4.0 a) Kết quả dự báo XTNĐ trong tháng 09/2018 Kết quả dự báo về số lượng và vùng hoạt động của XTNĐ trong tháng 09/2018 được dựa trên các kết quả đầu ra của 60 thành phần dự báo kết hợp với sơ đồ dò tìm xoáy SĐ2. Bảng 3 cung cấp thông tin về tần suất dự báo số lượng XTNĐ theo các pha tương ứng. Có thể thấy rằng, có 96.4% tổng số thành phần dự báo (58/60 thành phần) cho kết quả NTCDB hoạt động trên khu vực Biển Đông ở mức dưới chuẩn, nghĩa là dưới 3 XTNĐ. Quỹ đạo dự báo vùng hoạt động của XTNĐ cho thấy có sự tương đồng về khu vực hoạt động chủ yếu của XTNĐ so với vùng hoạt động trung bình vào tháng 9 (hình 3) Trên thực tế, vào tháng 9/2018, khu vực Biển Đông có sự xuất hiện của 2 XTNĐ có tên gọi quốc tế là BARIJAT (08/09/2018-14/09/2018) và MANGKHUT (07/09/2018-17/09/2018. Quỹ đạo hoạt động của 2 XTNĐ này tuân theo quy luật hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông, với hướng đổ bộ lệch về phía khu vực phía Bắc. Như vậy, có thể thấy kết quả tổ hợp các dự báo từ 60 thành phần dự báo của mô hình CCAM cho dự báo mùa đã dự báo khá chính xác về pha của NTCDB vùng có khả năng hoạt động cao của XTNĐ vào tháng 09/2018 trên khu vực Biển Đông. Bảng 3. Tần suất xuất hiện số lượng XTNĐ hoạt động trên khu vực Biển Đông theo các pha dự báo cho tháng 9/2018 Pha Tần suất Dưới chuẩn 96.7% Tương đương chuẩn 3.3% Trên chuẩn 0% a) Trung bình khí hậu tháng 9 (1980-2014) b) Dự báo bằng CCAM 09/2018 c) Quỹ đạo bão quan trắc 09/2018 Hình 3. So sánh (a) kết quả dự báo vùng hoạt động của XTNĐ vào tháng 9/2018; (b) vùng hoạt động của XTNĐ trung bình nhiều năm trong tháng 9 của giai đoạn 1980-2014; (c) quỹ đạo bão quan trắc thực tế tháng 9/2018. ●● ●●● ●●● ●● ● ● ● ● ●● ● ● ● ● ● ● ● ● ●●● ● ●● ●● ●●●●●●●● ●● ●●● ● ● 0 10 20 30 100 110 120 130 140 MANGKHUT_BARIJAT P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 58 b) Kết quả dự báo XTNĐ trong tháng 10/2018 Các kết quả dự báo mùa số lượng XTNĐ hoạt động trên khu vực Biển Đông vào tháng 10/2018 thu được dựa trên kết quả đầu ra của 120 thành phần dự báo kết hợp với sơ đồ dò tìm xoáy SĐ2. Theo đó, 116/120 (tương ứng với 96.3%) thành phần cho kết quả dự báo NTCDB ở pha dưới chuẩn, nghĩa là có dưới 2 XTNĐ hoạt động trên Biển Đông vào 10/2018 (Bảng 4). Tuy nhiên, vùng hoạt động của XTNĐ được dự báo có xu hướng hoạt động ở vùng vĩ độ cao hơn so với vùng hoạt động trung bình của XTNĐ vào tháng 10 trong giai đoạn 1980-2014 (hình 4). So sánh với thực tế, vào tháng 10/2018, 1 XTNĐ có tên là YUTU đã hoạt động trên khu vực Biển Đông (21/10/2018-2/11/2018). Quỹ đạo hoạt động của XTNĐ này có xu hướng hoạt động ở vùng vĩ độ cao hơn (180N) so với vùng hoạt động với cường độ cao của XTNĐ trên khu vực Biển Đông vào tháng 10 (14oN-17oN). Như vậy, có thể thấy kết quả tổ hợp các dự báo từ 120 thành phần dự báo của mô hình CCAM cho dự báo mùa đã dự báo khá chính xác vùng có khả năng hoạt động cao của XTNĐ vào tháng 10/2018 trên khu vực Biển Đông mặc dù quỹ đạo hoạt động của XTNĐ này có phần khác biệt so với vùng hoạt động trung bình nhiều năm. a) Trung bình khí hậu tháng 10 (1980-2014) b) Dự báo bằng CCAM 10/2018 c) Quỹ đạo bão quan trắc 10/2018 Hình 4. So sánh (a) kết quả dự báo vùng hoạt động của XTNĐ vào tháng 10/2018; (b) vùng hoạt động của XTNĐ trung bình nhiều năm trong tháng 10 của giai đoạn 1980-2014; (c) quỹ đạo bão quan trắc tháng 10/2018. Bảng 4. Tần suất xuất hiện số lượng XTNĐ hoạt động trên khu vực Biển Đông dự báo cho tháng 10/2018 Pha Tần suất Dưới chuẩn 96.6% Tương đương chuẩn 0% Trên chuẩn 3.4% 4. Kết luận Bằng việc đánh giá khả năng mô phỏng hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông trong giai đoạn 1980-2014 từ hai bộ chỉ tiêu SĐ1 và SĐ2, có thể nhận thấy rằng việc lựa chọn các ngưỡng chỉ tiêu phù hợp với từng mô hình đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các sơ đồ dò xoáy khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau, thậm chí các kết quả thu được cho thấy sự khác biệt rõ rệt về số lượng, đặc biệt là biến trình hoạt động của XTNĐ trong một năm. Việc các sơ đồ dò tìm xoáy khác nhau cho kết quả về vùng hoạt động của XTNĐ khá tương đồng với thực tế quan trắc góp phần chứng minh khả năng mô phỏng tốt các ● ● ●● ●●●●●● ● ●●●●●● ●● ● ● ● ● ● ● ● ●●●● ● ● 0 10 20 30 100 110 120 130 140 YUTU P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 59 trường hoàn lưu trong từng tháng của mô hình CCAM. Với việc lựa chọn được sơ đồ dò tìm XTNĐ hoạt động trên khu vực Biển Đông phù hợp với mô hình CCAM (SĐ2) để áp dụng vào việc thử nghiệm dự báo bão hạn mùa cho hai tháng là tháng 09/2018 và tháng 10/2018 đã thu được những kết quả khá sát với quan trắc thực tế cả về số lượng lẫn vùng có khả năng cao xuất hiện hoạt động của XTNĐ. Đặc biệt, đối với tháng 10/2018, mặc dù vùng hoạt động của XTNĐ – YUTU có phần khác biệt so với vị trí trung bình nhiều năm, nhưng các kết quả dự báo hạn mùa thu được từ 120 thành phần dự báo của mô hình CCAM kết hợp với chỉ tiêu dò tìm xoáy SĐ2 đã nắm bắt được sự thay đổi này. Điều này, cho thấy khả năng có thể sử dụng mô hình CCAM kết hợp với bộ chỉ tiêu dò tìm xoáy SĐ2 vào việc dự báo hạn mùa hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông trong tương lai. Tuy nhiên, trước khi áp dụng vào công tác nghiệp vụ, ta cần thiết phải tiến hành đánh giá khả năng dự báo XTNĐ trong quá khứ. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được thực hiện và hoàn thành dưới sự hỗ trợ của Dự án FIRST mã số 17/FIRST/1a/VNU2. Nhân đây tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo [1] Đinh Văn Ưu, Đánh giá quy luật biến động dài hạn và xu thế biến đổi số lượng bão và áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Thái Bình Dương, Biển Đông và ven biển Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 25 3S (2009) 542-550. [2] J.C.L. Chan, J.E. Shi, K.S. Liu, Improvements in the seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the western North Pacific, Weather Forecast 16 (2001) 491-498. [3] S.J. Camargo, A.G. Barnston, Experimental seasonal dynamical forecasts of tropical cyclone activity at IRI, Weather Forecasting 24 (2009) 472-491. [4] P.J. Klotzbach, W.M. Gray, Twenty-five years of Atlantic basin seasonal hurricane forecasts (1984−2008), Geophys Res Lett. 36: L09711 (2009). https://doi.org/10.1029/2009GL037580. [5] G.A. Vecchi, M. Zhao, H. Wang, G. Villarini and others, Statistical-dynamical predictions of seasonal North Atlantic hurricane activity, Mon Weather Rev. 139 (2011) 1070-1082. [6] M.M. Lu, C.T. Lee, B. Wang, Seasonal prediction of accumulated tropical cyclone kinetic energy around Taiwan and the sources of the predictability, Int J Climatol. 33 (2013) 2846-285. [7] P.J. Klotzbach, Revised prediction of seasonal Atlantic basin tropical cyclone activity from 1 August, Weather Forecast 22 (2007) 937-949. [8] F. Vitart, A. Leroy, M.C. Wheeler, A comparison of dynamical and statistical predictions of weekly tropical cyclone activity in the Southern Hemisphere, Mon Weather Rev. 138 (2010) 3671- 3682. [9] A.Y. Yeung, J.C. Chan, Potential use of a regional climate model in seasonal tropical cyclone activity predictions in the western North Pacific, Clim Dyn. 39 (2012) 783-794. [10] S.J. Camargo SJ, A.G. Barnston, P.J. Klotzbach, C.W. Landsea, Seasonal tropical cyclone forecasts, WMO Bull. 56 (2007) 297-309. [11] J.C.L. Chan, J.E. Shi, C.M. Lam, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the western North Pacific and the South China Sea, Wea Forecast. 13 (1998) 997-1004. [12] F. Vitart, T.N. Stockdale, Seasonal forecasting of tropical storms using coupled GCM integrations, Mon Weather Rev. 129 (2001) 2521-253. [13] F. Vitart, J.L. Anderson, W.F. Stern, Simulation of interannual variability of tropical storm frequency in an ensemble of GCM integrations, J Clim. 10 (1997) 745-76. [14] S. Yokoi, Y.N. Takayabu, J.C.L Chan, Tropical cyclone genesis frequency over the western North Pacific simulated in mediumresolution coupled general circulation models, Clim Dyn. 33 (2009) 665-683. [15] W.A. Landman, A. Seth, S.J. Camargo, The effect of regional climate model domain choice on the simulation of tropical cyclone-like vortices in the Southwestern Indian Ocean, J Clim. 18 (2005) 1263-1274. [16] Bengtsson, L.H. Bottger, M. Kanamitsu, Simulation of hurricane-type vortices in a general circulation model, Tellus. 34 (1982) 440-457. P.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 49-60 60 [17] Bengtsson, M. Botzet, M. Esch, Hurricane-type vortices in a general circulation model, Tellus. 47A (1995) 175-196. [18] K. Walsh, Objective Detection of Tropical Cyclones in High-Resolution Analyses, Mon. Wea. Rev. 125 (1997) 1767-1779. [19] K. Walsh, I.G. Watterson, Tropical Cyclone-like Vortices in a Limited Area Model: Comparison with Observed Climatology, J. Climate. 10 (1997) 2204-2259. [20] K.C. Nguyen, K.J.E. Walsh, Interannual, decadal, and transient greenhouse simulation of tropical cyclone-like vortices in a regional climate model of the South Pacific, J Clim 14 (2001) 3043-3054. [21] S.J. Camargo, S. E. Zebiak, Improving the Detection and Tracking of Tropical Cyclones in Atmospheric General Circulation Models, Wea. Forecasting 17 (2002) 1152-1162. [22] J.L. McGregor, C-CAM: Geometric aspects and dynamical formulation. CSIRO Atmospheric Research Technical Paper, No. 70 (2005). [23] J.L. McGregor, M.R. Dix, The CSIRO conformal- cubic atmospheric GCM. In: Hodnett PF (ed) IUTAM symposium on advances in mathematical modelling of atmosphere and ocean dynamics. Kluwer, Dordrecht (2001) 197-202. [24] J.L. McGregor, M.R. Dix, An updated description of the Conformal-Cubic Atmospheric Model. In: Hamilton K, Ohfuchi W(eds) High resolution simulation of the atmosphere and ocean, Springer, New York, (2008) 51-76. [25] M.D. Schwarzkopf, V. Ramaswamy, Radiative effects of CH4, N2O, halocarbons and the foreign- broadened H2O continuum: a GCM experiment, J Geophys Res. 104 (1999) 9467-9488. [26] L.D. Rotstayn, A physically based scheme for the treatment of stratiform clouds and precipitation in large-scale models. I: description and evaluation of the microphysical processes, Q J R Meteorol Soc. 123 (1997) 1227-1282. [27] L.D. Rotstayn, U. Lohmann, Simulation of the tropospheric sulfur cycle in a global model with a physically based cloud scheme, J Geo Res. 27 (2002). [28] J.L. McGregor, H.B. Gordon, I.G. Watterson, M.R. Dix, L.D. Rotstayn, The CSIRO 9-level atmospheric general circulation model. CSIRO Division of Atmospheric Research Technical Paper, No. 26 (1993). [29] J.L. McGregor, A new convection scheme using a simple clo-sure. In: current issues in the parameterization of convection, BMRC Res Rep. 93 (2003) 33-36. [30] F. Schmidt, Variable fine mesh in spectral global model, Beitraege zur Physik der Atmosphaere. 50 (1977) 211-217. [31] P.V. Tan, T.T. Long, B.H. Hai, C. Kieu, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity in the coastal region of Vietnam using RegCM4.2, Clim. Res. 62 (2015) 115-129. https://doi.org/10. 3354/cr01267.
File đính kèm:
- implementation_of_tropical_cyclone_detection_scheme_to_ccam.pdf