Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng

Kết quả xác định và nghiên cứu các sưu tập mẫu vi cổ sinh trong trầm tích “Đệ tứ” ở vùng biển Tư Chính -

Vũng Mây (1) và các đảo, bãi cạn của quần đảo Trường Sa, Việt Nam (2) đã phát hiện được trên 300 loài

Benthic foraminifera (viết tắt B. Foram - trùng lỗ sống đáy), trong đó 291 loài đã được nghiên cứu chi tiết,

thuộc 112 giống, 43 họ, 5 bộ và 3 lớp của ngành Foram. Trong đó có 19 loài mới, 3 phụ loài mới và 3 giống

mới. Riêng ở khu vực thứ nhất có 195 loài và khu vực thứ hai có 121 loài (kể cả 25 loài chung cho cả hai

vùng). Chúng có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu địa tầng-sinh địa tầng, cổ sinh thái, cổ địa lý,

thạch học trầm tích, Về địa tầng: Đặc trưng cho Pleistocen là sự xuất hiện của 4 giống là Baculogypsina,

Cymbaloporetta, Parasorites, Schlumbergerella và cho Holocen là sự xuất hiện của các giống:

Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, Gyroidina,

Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, Sahulia,

Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia và Truongsaia. Các hóa thạch này là cơ sở

đề xác định tuổi trầm tích và phân chia, liên hệ địa tầng trầm tích Đệ tứ. Về cổ sinh thái: Foram sống đáy ở

vùng biển (1) đặc trưng cho môi trường biển nông xa bờ của thềm lục địa, nơi có độ muối cao và ổn định,

động lực môi trường tương đối mạnh, một số nơi có các quần thể Foram rạn san hô; ở khu vực (2) đặc trưng

cho môi trường hệ sinh thái san hô tạo rạn của các vùng biển nông, ấm áp thuộc vành đai khí hậu nhiệt đớicận nhiệt đới của Trái đất, nơi có độ muối cao và ổn định, độ trong của nước cao, động lực môi trường tương

đối mạnh đến mạnh, Ngoài ra, bài báo còn đề cập đến một số vấn đề khác như cổ địa lý (giao động mực

biển), giá trị tạo trầm tích, quan trắc và đánh giá tác động môi trường biển (đối với Foram hiện đại).

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 1

Trang 1

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 2

Trang 2

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 3

Trang 3

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 4

Trang 4

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 5

Trang 5

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 6

Trang 6

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 7

Trang 7

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 8

Trang 8

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 9

Trang 9

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang viethung 9120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng

Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng
 137 
Vietnam Journal of Marine Science and Technology; Vol. 19, No. 3B; 2019: 137–147 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14521 
https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst 
Quaternary benthic Foraminifera in the Tu Chinh - Vung May marine 
areas (continental shelf of Vietnam) and island, coral reef regions of the 
Truong Sa archipelago, Vietnam and their significance 
Nguyen Ngoc
1,*
, Bui Thi Luan
2
, Nguyen Thi Hong Nhung
3 
1
Vietnam National Museum of Nature, VAST, Vietnam 
2
University of Science, Viet Nam National University Ho Chi Minh city, Vietnam 
3
Vietnam Institute of Geoscience and Mineral Resources, MNRE, Vietnam 
*
E-mail: ngoc.cdbk@gmail.com 
Received: 25 July 2019; Accepted: 6 October 2019 
©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST) 
Abstract 
The results of identifying and studying micropaleontological samples from the Quaternary sediments in the 
Tu Chinh - Vung May marine areas (1) and some coral reef islands of Truong Sa archipelago (2) have found 
more than 300 species of Benthic foraminifera, in which 291 species have been studied and described in 
detail, belonging to 112 genera, 43 families, 5 orders and 3 classes of the phylum Foraminifera. Among 
them, there are 19 new species, 3 new subspecies and 3 new genera. In the first region there are 195 species 
and the second one - 121 species (including 25 common species for both regions). They have important 
significations in the stratigraphic-biostratigraphic, ecological, paleogeographic studies, in sedimentary 
lithology... Regarding stratigraphy, the characteristic of Pleistocene is the first emergence of four genera: 
Baculogypsina, Cymbaloporetta, Parasorites, and Schlumbergerella; for Holocene - the appearance of the 
following genera: Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, 
Gyroidina, Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, 
Sahulia, Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia and Truongsaia. These fossils are 
the basis for dating sediment age, Quaternary stratigraphic division and correlation. In terms of 
paleoecology, benthic Foraminifera in the region (1) characterize the shallow offshore environment of the 
continental shelf, where there are the high and stable salinity, and the relatively strong environmental 
dynamics; in some places there are coral reef Foraminifera populations. In the region (2), they characterize 
the coral reef ecosystem of shallow and warm sea areas in the belt of tropical-subtropical climate of the 
Earth, where the salinity is high and stable, the transparency of water is high, and the environmental 
dynamics is relatively strong to strong... In addition, the paper also mentioned some other issues such as 
paleogeography (sea-level fluctuation), value of creating sediments of Foraminifera, environmental 
monitoring (for modern Foraminifera). 
Keywords: Benthic foraminifera, taxonomic composition, stratigraphy, paleoecology, paleogeography, 
Quaternary, Tu Chinh - Vung May marine areas, Truong Sa archipelago, Vietnam. 
Citation: Nguyen Ngoc, Bui Thi Luan, Nguyen Thi Hong Nhung, 2019. Quaternary benthic Foraminifera in the Tu 
Chinh - Vung May marine areas (continental shelf of Vietnam) and island, coral reef regions of the Truong Sa 
archipelago, Vietnam and their significance. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 19(3B), 137–147. 
 138 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, Tập 19, Số 3B; 2019: 137–147 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14521 
https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst 
Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tƣ 
Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn 
thuộc quần đảo Trƣờng Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng 
Nguyễn Ngọc1,*, Bùi Thị Luận2, Nguyễn Thị Hồng Nhung3 
1
Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam 
2Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
3
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam 
*
E-mail: ngoc.cdbk@gmail.com 
Nhận bài: 25-7-2019; Chấp nhận đăng: 6-10-2019 
Tóm tắt 
Kết quả xác định và nghiên cứu các sưu tập mẫu vi cổ sinh trong trầm tích “Đệ tứ” ở vùng biển Tư Chính - 
Vũng Mây (1) và các đảo, bãi cạn của quần đảo Trường Sa, Việt Nam (2) đã phát hiện được trên 300 loài 
Benthic foraminifera (viết tắt B. Foram - trùng lỗ sống đáy), trong đó 291 loài đã được nghiên cứu chi tiết, 
thuộc 112 giống, 43 họ, 5 bộ và 3 lớp của ngành Foram. Trong đó có 19 loài mới, 3 phụ loài mới và 3 giống 
mới. Riêng ở khu vực thứ nhất có 195 loài và khu vực thứ hai có 121 loài (kể cả 25 loài chung cho cả hai 
vùng). Chúng có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu địa tầng-sinh địa tầng, cổ sinh thái, cổ địa lý, 
thạch học trầm tích, Về địa tầng: Đặc trưng cho Pleistocen là sự xuất hiện của 4 giống là Baculogypsina, 
Cymbaloporetta, Parasorites, Schlumbergerella và cho Holocen là sự xuất hiện của các giống: 
Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, Gyroidina, 
Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, Sahulia, 
Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia và Truongsaia. Các hóa thạch này là cơ sở 
đề xác định tuổi trầm tích và phân chia, liên hệ địa tầng trầm tích Đệ tứ. Về cổ sinh thái: Foram sống đáy ở 
vùng biển (1) đặc trưng cho môi trường biển nông xa bờ của thềm lục địa, nơi có độ muối cao và ổn định, 
động lực môi trường tương đối mạnh, một số nơi có các quần thể Foram rạn san hô; ở khu vực (2) đặc trưng 
cho môi trường hệ sinh thái san hô tạo rạn của các vùng biển nông, ấm áp thuộc vành đai khí hậu nhiệt đới- 
cận nhiệt đới của Trái đất, nơi có độ muối cao và ổn định, độ trong của nước cao, động lực môi trường tương 
đối mạnh đến mạnh, Ngoài ra, bài báo còn đề ... c địa hình nổi 
cao và các rạn san hô ở thềm lục địa cũng 
như ở ngoài khơi xa giữa Biển Đông lộ ra 
trên bề mặt địa hình và bị tác động của điều 
kiện khí hậu nhiệt đới, của các quá trình bào 
mòn, xâm thực tạo nên bề mặt phong hóa 
laterit thể hiện rõ trong các mặt cắt địa chất ở 
các khu vực nghiên cứu [24]. Trong điều kiện 
tự nhiên khắc nghiệt của môi trường ở 
khoảng địa tầng tương ứng này hóa thạch 
Foram nghèo nàn và đơn điệu. Nhưng từ 
Holocen, mực nước biển dâng lên làm chìm 
ngập các địa hình thấp tạo nên hệ thống đảo ở 
thềm lục địa và ở quần đảo Trường Sa, Việt 
Nam. Trong điều kiện môi trường sống mới 
của thời kỳ biến tiến Holocen, hệ động vật 
Foram phát triển mạnh, phong phú và đa 
dạng, nhiều giống loài mới xuất hiện, khác 
hẳn về thành phần phân loại so với khoảng 
địa tầng Pleistocen (bảng 1). 
Về giá trị tạo đá trầm tích 
Các nghiên cứu về vai trò tạo trầm tích của 
Foram cho thấy nhiều giống loài của các sinh 
vật này là các sinh vật sản xuất vật liệu trầm 
tích cacbonat. Đặc biệt ở các hệ sinh thái rạn 
san hô, nhóm Foram kích thước lớn là những 
sinh vật sống nội cộng sinh với các loại tảo đơn 
bào có năng xuất sinh học với sản lượng khá 
cao. Nghiên cứu của Langer (2008) [18] cho 
biết: Tổng sản lượng CaCO3 của Foram sống 
đáy và sống trôi nổi ở các biển và đại dương 
thế giới hàng năm ước tính là khoảng 1,4 tỷ tấn 
(chiếm gần 25% tổng sản lượng cacbonat của 
các đại dương hiện nay. Riêng các Foram kích 
thước lớn sản xuất ước tính ít nhất là 130 triệu 
tấn/năm, chiếm khoảng 2,5% CaCO3 của tất cả 
đại dương (hình 1) [18]. Số liệu này nói lên vai 
trò quan trọng của Foram trong việc thành tạo 
trầm tích cacbonat nguồn gốc hữu cơ [18]. 
Trong công trình “Địa chất biển” của mình, tác 
giả Kennet (1982) [26] cũng khẳng định: Vỏ 
Foram là một trong các nguồn CaCO3 quan 
trọng ở các biển và đại dương thế giới. 
Nghiên cứu các đảo-rạn san hô ở Thái Bình 
Dương của Hallock (1981) [17], ở Châu Úc của 
Yamano, Miyajima and Koike (2000) [27] và 
Dawson, Hua and Smithers (2012) [28] cho 
thấy Foram kích thước lớn góp phần quan 
trọng vào khối lượng trầm tích của các thể địa 
chất này (có thể chiếm khoảng 30% tổng lượng 
trầm tích). Ở Việt Nam, theo cách tính đơn 
giản nhất, trong 1 g trầm tích là cát vụn sinh vật 
bãi biển đảo Nam Yết có từ 300–600 vỏ Foram 
sống đáy, hay ở bãi Thuyền Chài, con số này là 
khoảng 1.000 vỏ/1 g trầm tích cát vụn sinh vật 
[13]; trong trầm tích đáy ở một số nơi của vùng 
biển Nam Trung Bộ ở cấp hạt 1–2 mm có tới 
90% số hạt cát là vỏ của các giống 
Baculogypsina, Baculogypsinoides, 
Alveolinella, Calcarina, Schlumbergerella, 
Qua trên ta thấy: Foram có ý nghĩa quan trọng 
trong việc sản xuất vật liệu trầm tích cacbonat, 
góp phần vào quá trình hình thành và phát triển 
của các đảo - rạn san hô. 
Nguyễn Ngọc và nnk. 
144 
Về quan trắc và đánh giá tác động môi 
trƣờng 
Trong bối cảnh môi trường biển đang bị ô 
nhiễm ở các mức độ khác nhau bởi các hoạt 
động kinh tế xã hội (giao thông vận tải biển, 
khai thác dầu khí, phá rừng ngập mặn nuôi 
trồng hải sản,) bởi sự biến đổi khí hậu có 
tính toàn cầu, trên thế giới đã và đang sử dụng 
nhóm sinh vật Foram sống đáy như là một 
trong các chỉ thị sinh học (Bioindicators) 
trong việc quan trắc và đánh giá tác động môi 
trường [16, 17]. Bởi vì chúng là các vi sinh 
vật đơn bào, có đời sống tương đối ngắn (từ 
vài tháng đến vài năm), rất nhậy cảm đối với 
sự biến động của của môi trường sống và sự 
phản ứng của chúng với các biến động này 
nhanh hơn nhiều so với các sinh vật lớn (như 
san hô chẳng hạn). Cụ thể, bệnh bạc trắng có 
ở cả san hô và Foram, nhưng hiện tượng này 
xảy ra ở Foram sớm hơn nhiều so với ở san 
hô. Do đó, trong quá trình quan trắc, nếu phát 
hiện Foram mắc bệnh bạc trắng thì vẫn còn đủ 
thời gian để tìm cách cách phòng tránh bệnh 
cho san hô (hình 2) [29]. 
Đối với môi trường biển nói chung, khi bị 
ô nhiễm bởi các chất độc hại (như kim loại 
nặng, hóa chất độc hại, dầu mỡ, ), những 
chất độc hại này tác động trực tiếp lên sinh 
vật làm cho hình dáng và khung xương của 
chúng phát triển không bình thường (dị 
dạng). Đặc điểm cấu tạo hình thái của các 
sinh vật dị dạng này nói riêng và sự thay đổi 
cấu trúc (thành phần phân loại) của các quần 
thể sinh vật nói chung phản ánh mức độ ô 
nhiễm của môi trường. Đó là một trong các 
cơ sở để đánh giá tác động môi trường 
(hình 3) [30]. Các hướng nghiên cứu này ở 
nhiều nơi trên thế giới đã và đang được sử 
dụng, nhưng ở Việt Nam, vì các lý do khác 
nhau, hầu như chưa được nghiên cứu và áp 
dụng rộng rãi, mới chỉ có 2 công trình nghiên 
cứu có tính chất thử nghiệm và chủ yếu do 
các chuyên gia nước ngoài thực hiện (trong 
đó, một công trình ở đới triều cửa sông Hồng 
của Weiss, Tobschall (2005) [31] và một 
công trình khác ở đới triều đông bằng sông 
Cửu Long của Debenay, Bui Thi Luan 
(2006) [32]. Việt Nam có vùng biển rộng 
khoảng một triệu km2 (gấp khoảng 3 lần diện 
tích đất liền) và có nhiều rạn san hô, nên 
trong tương lai đây sẽ là một trong các hướng 
nghiên cứu ứng dụng được các nhà môi 
trường quan tâm. 
Hình 2. Hình ảnh foram kích thước lớn thuộc loài Amphistegina radiata (Fichtel et Moll) bình 
thường (B) và bị bệnh bạc trắng do mất tảo cộng sinh (C) do Prazeres (2018) quan trắc thu thập ở 
rạn san hô Great Barrier (Australia) tháng 1 (B) và tháng 4/2016 (C) ở độ sâu 6 m [30] 
Hóa thạch Foraminifera 
145 
Hình 3. Hình ảnh sự phản ứng của Foraminifera sống đáy đối với sự cố tràn dầu năm 2011 ở biển 
Bột Hải, Trung Quốc (các vỏ Forams bình thường và không bình thường) [30] 
Ghi chú: 7. Cribroelphidium magellanicum (Heron-Allen and Earland, 1932): Vỏ bình thường (a–b) và vỏ 
không bình thường (c–f); 8. Buccella frigida (Cushman, 1922) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình 
thường (d–f); 9. Ammonia inflata (Seguenza, 1862) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d–f); 10. 
Ammonia tepida (Cushman, 1926) vỏ bình thường (a và b) và vỏ không bình thường (c–e); 11. Rotalidium 
annectens (Parker et Jones, 1865) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d và e); 12. Rotalinoides 
compressiusculus (Brady) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d–e) [30]; Thước tỷ lệ nằm thẳng 
đứng ở sát lề bên trái bản ảnh. 
KẾT LUẬN 
Từ những nội dung trình bày ở trên, có thể 
rút ra một số kết luận sau: 
Về thành phần phân loại: Hóa thạch Foram 
sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng 
Mây và khu vực các đảo, bãi cạn của quần đảo 
Nguyễn Ngọc và nnk. 
146 
Trường Sa, Việt Nam khá phong phú và đa 
dạng, có ít nhất trên 300 loài, trong đó 291 loài 
được nghiên cứu chi tiết. Riêng ở khu vực (1) có 
195 loài và khu vực (2) có 121 loài (kể cả 25 
loài chung cho cả hai khu vực nghiên cứu. 
Về địa tầng: Các hóa thạch Foram nói trên 
có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các 
vấn đề về tuổi và địa tầng khu vực nghiên cứu. 
Cơ sở sinh địa tầng Đệ tứ ở vùng biển Tư 
Chính -Vũng Mây và khu vực các đảo, bãi cạn 
của quần đảo Trường Sa hiện nay chủ yếu dựa 
trên hóa thạch Foram. Đó là sự xuất hiện các 
giống loài mới ở các mức địa tầng khác nhau 
tạo nên các tập hợp hóa thạch đặc trưng tuổi và 
chỉ định địa tầng. 
Về mặt cổ sinh thái: Các hoá thạch nghiên 
cứu là các sinh vật đơn bào sống ở biển, thuộc 
nhóm sống đáy, là các sinh vật biển nông xa bờ 
của các vùng biển nhiệt đới-cận nhiệt đới. 
Ý nghĩa khác: Ngoài ra, các hóa thạch 
Foram còn có ý nghĩa quan trọng các nghiên 
cứu cổ địa lý, môi trường trầm tích, chúng là 
một trong các nhóm sinh vật tạo trầm tích 
cacbonat. Foram hiện đại hiện nay nhiều nơi 
trên thế giới đã và đang được sử dụng như các 
chỉ thị sinh học, là công cụ trong quan trắc và 
đánh giá tác động môi trường biển. Ở Việt 
Nam, các hướng này mới chỉ có 2 nghiên cứu 
có tính chất thử nghiệm. Bài viết này giới thiệu 
chúng để những ai quan tâm có thể tìm hiểu 
tham khảo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phùng Văn Phách (chủ biên), Nguyễn 
Như Trung, Nguyễn Tiến Hải và nnk., 
2014. Cấu trúc kiến tạo và địa mạo khu 
vực quần đảo Trường Sa và Tư Chính - 
Vũng May. Nxb. Khoa học tự nhiên và 
Công nghệ, Hà Nội. 246 tr. 
[2] Mai Văn Khiêm, Trần Thục, Lã Thị Tuyết 
và nnk., 2014. Một số nhận định về đặc 
điểm khí hậu Biển Đông. Tạp chí Biển 
Việt Nam, số tháng 8+9. Tr. 17–22. 
[3] Võ Văn Lành, Tống Phước Hoàng Sơn, 
2001. Các xoáy địa chuyển cơ bản của 
vùng khơi Biển Đông và các đặc trưng 
nhiệt muội trong chu kỳ năm. Tạp chí 
Khoa học và Công nghệ biển, 1(2), 27–38. 
[4] Brady, H. B., 1884. Report on the 
foraminifera dredged by HMS Challenger 
during the years 1873–1876. Report on 
the scientific results of the voyage of the 
HMS Challenger during the years 1873–
1876, Zoology, 9, 1–814. 
[5] Cushman, J. A., 1932, 1933. The 
foraminifera of the tropical Pacific 
collection of the “Albatross” 1899–1900. 
Part 1 (1932): Astrorizidae to 
Trochamminidae. U.S. Natl. Mus. Bull. 
161: i–vi, 1–88, pls. 1–17. Washington. 
Part 2 (1933): Lagenidae to Alveolinidae, 
1–78, pls. 1–19. 
[6] Debenay, J. P., 2012. A guide to 1,000 
foraminifera from Southwestern Pacific: 
New Caledonia. IRD Editions. 
[7] Jones, R. W., 2014. Foraminifera and their 
Applications. Cambridge University 
Press. 391 p. 
[8] Huang, T., 1964. “Rotalia” group from the 
upper Cenozoic of Taiwan. 
Micropaleontology, 10(1), 49–62. 
[9] Mai Văn Lạc, 2004. Phân loại và một số 
giống loài Rotaliid phổ biến trong trầm 
tích Kainozoi ở Viêt Nam và các vùng kế 
cận. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 
26(4), 349–355. 
[10] Murray, J. W., 2006. Ecology and 
applications of benthic foraminifera. 
Cambridge University Press. 426 p. 
[11] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Bạt, 
2006. Hóa thạch trùng lỗ (Foraminifera) 
Kainozoi thềm lục địa và các vùng kế cận 
ở Việt Nam. Viện Khoa học tự nhiện và 
Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. 392 tr. 
[12] Renema, W., 2003. Larger foraminifera on 
reefs around Bali (Indonesia). Zoologische 
Verhandelingen, 345, 337–366. 
[13] Whittaker, J. E., 1979. Foraminifera of the 
Togopi formation, eastern Sabah, 
Malaysia. Bulletin of the British Museum 
(Natural History), London,(Geology), 31, 
1–120. 
[14] Tappan, H., and Loeblich, A. R., 1988. 
Foraminiferal genera and their 
classification. Van Nostrand Reinhold. 
[15] Boudaugher-Fadel, M. K., 2018. 
Evolution and geological significance of 
larger benthic foraminifera. UCL Press. 
[16] Suokhrie, T., Saraswat, R., and Nigam, R., 
2017. Foraminifera as Bio-Indicators of 
Hóa thạch Foraminifera 
147 
Pollution: A Review of Research over the 
Last Decade. Micropaleontology and its 
Applications.-Scientific Publishers 
(India), 265–284. 
[17] Hallock, P., Lidz, B. H., Cockey-
Burkhard, E. M., and Donnelly, K. B., 
2003. Foraminifera as bioindicators in 
coral reef assessment and monitoring: the 
FORAM index. Environmental 
Monitoring and Assessment, 81(1–3), 
221–238. 
[18] Langer, M. R., 2008. Assessing the 
Contribution of Foraminiferan Protists to 
Global Ocean Carbonate Production 1. 
Journal of Eukaryotic Microbiology, 
55(3), 163–169. 
[19] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, 2002. 
Vai trò tạo trầm tích của nhóm sinh vật 
trùng lỗ (Foraminifera) ở rạn san hô 
Thuyền Chài, Quần đảo Trường Sa, Việt 
Nam. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 
24(4), 306–310. 
[20] Nguyễn Ngọc, 1980. Trùng lỗ 
(Foraminifera) quần đảo Trường Sa qua 
sưu tập của Đỗ Tuyết. Những phát hiện 
mới về KCH 1980, Hà Nội. Tr. 16–18. 
[21] Nguyễn Ngọc, 1982. Foraminifera Đệ tứ 
muộn quần đảo Trường Sa. Tuyển tập các 
công trình NC cổ sinh vật học, Tập 1. Hà 
Nội. Tr. 34–45. 
[22] Nguyễn Ngọc, 2018. Hệ động vật trùng 
lỗ (Foraminifera) Holocen ở khu vực đảo 
Phan Vinh, quần đảo Trường Sa (Việt 
Nam) và một số vấn đề liên quan. Tạp 
chí Khoa học và Công nghệ biển, 18(1), 
39–51. 
[23] Nguyen Ngoc, Nguyen Huu Cu, 1998. 
Foraminifera assemblages and their 
enclosing sediments in some islands of the 
Truong Sa Archipelago of Vietnam. 
Petrovietnam Review, N2, 18–24. 
[24] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, 1998. Về 
ranh giới địa tầng Pleixtocen-Holocen ở 
khu vực đảo nổi Trường Sa. Tạp chí Dầu 
khí, 2, 15–20. 
[25] Biswas, B., 1923. Quaternary changes in 
sea-lever in the South China Sea. In 
Proceed. Reg. Conf. Geol. SE Asia, Geol. 
Soc. Malaysia Bull. (Vol. 6, pp. 229–256). 
[26] Kennett, J. P., 1982. Marine Geology. 
Prentica-Hall, Englewood-Cliffs, New 
Jersey. 813 p. 
[27] Yamano, H., Miyajima, T., and Koike, I., 
2000. Importance of foraminifera for the 
formation and maintenance of a coral sand 
cay: Green Island, Australia. Coral Reefs, 
19(1), 51–58. 
[28] Dawson, J. L., Hua, Q., and Smithers, S. 
G., 2012. Benthic foraminifera: their 
importance to future reef island resilience. 
[29] De Freitas Prazeres, M., 2018. Bleaching-
associated changes in the microbiome of 
large benthic Foraminifera of the Great 
Barrier Reef, Australia. Frontiers in 
Microbiology, 9, 2404. 
[30] Lei, Y. L., Li, T. G., Bi, H., Cui, W. L., 
Song, W. P., Li, J. Y., and Li, C. C., 
2015. Responses of benthic foraminifera 
to the 2011 oil spill in the Bohai Sea, PR 
China. Marine Pollution Bulletin, 96(1–
2), 245–260. 
[31] Richard, H., Weiss, C., Tobschall, H. J., 
2005. Benthic Foraminifera Tests as 
Proxy Indicators of Sediment Pollution in 
the Macro-Tidal Red river Mouths (North 
Vietnam). Intern. Conf. in Memory of 
Geory D. Jones. Rice Univ., Houston, 
Texas, USA, 6–11. 
[32] Debenay, J. P., and Luan, B. T., 2006. 
Foraminiferal assemblages and the 
confinement index as tools for assessment 
of saline intrusion and human impact in 
the Mekong Delta and neighbouring areas 
(Vietnam). Revue de micropaléontologie, 
49(2), 74–85. 
[33] Pawlowski, J., Holzmann, M., and 
Tyszka, J., 2013. New supraordinal 
classification of Foraminifera: Molecules 
meet morphology. Marine 
Micropaleontology, 100, 1–10. 

File đính kèm:

  • pdfhoa_thach_foraminifera_trung_lo_song_day_de_tu_o_vung_bien_t.pdf