Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng
Kết quả xác định và nghiên cứu các sưu tập mẫu vi cổ sinh trong trầm tích “Đệ tứ” ở vùng biển Tư Chính -
Vũng Mây (1) và các đảo, bãi cạn của quần đảo Trường Sa, Việt Nam (2) đã phát hiện được trên 300 loài
Benthic foraminifera (viết tắt B. Foram - trùng lỗ sống đáy), trong đó 291 loài đã được nghiên cứu chi tiết,
thuộc 112 giống, 43 họ, 5 bộ và 3 lớp của ngành Foram. Trong đó có 19 loài mới, 3 phụ loài mới và 3 giống
mới. Riêng ở khu vực thứ nhất có 195 loài và khu vực thứ hai có 121 loài (kể cả 25 loài chung cho cả hai
vùng). Chúng có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu địa tầng-sinh địa tầng, cổ sinh thái, cổ địa lý,
thạch học trầm tích, Về địa tầng: Đặc trưng cho Pleistocen là sự xuất hiện của 4 giống là Baculogypsina,
Cymbaloporetta, Parasorites, Schlumbergerella và cho Holocen là sự xuất hiện của các giống:
Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, Gyroidina,
Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, Sahulia,
Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia và Truongsaia. Các hóa thạch này là cơ sở
đề xác định tuổi trầm tích và phân chia, liên hệ địa tầng trầm tích Đệ tứ. Về cổ sinh thái: Foram sống đáy ở
vùng biển (1) đặc trưng cho môi trường biển nông xa bờ của thềm lục địa, nơi có độ muối cao và ổn định,
động lực môi trường tương đối mạnh, một số nơi có các quần thể Foram rạn san hô; ở khu vực (2) đặc trưng
cho môi trường hệ sinh thái san hô tạo rạn của các vùng biển nông, ấm áp thuộc vành đai khí hậu nhiệt đớicận nhiệt đới của Trái đất, nơi có độ muối cao và ổn định, độ trong của nước cao, động lực môi trường tương
đối mạnh đến mạnh, Ngoài ra, bài báo còn đề cập đến một số vấn đề khác như cổ địa lý (giao động mực
biển), giá trị tạo trầm tích, quan trắc và đánh giá tác động môi trường biển (đối với Foram hiện đại).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng
137 Vietnam Journal of Marine Science and Technology; Vol. 19, No. 3B; 2019: 137–147 DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14521 https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst Quaternary benthic Foraminifera in the Tu Chinh - Vung May marine areas (continental shelf of Vietnam) and island, coral reef regions of the Truong Sa archipelago, Vietnam and their significance Nguyen Ngoc 1,* , Bui Thi Luan 2 , Nguyen Thi Hong Nhung 3 1 Vietnam National Museum of Nature, VAST, Vietnam 2 University of Science, Viet Nam National University Ho Chi Minh city, Vietnam 3 Vietnam Institute of Geoscience and Mineral Resources, MNRE, Vietnam * E-mail: ngoc.cdbk@gmail.com Received: 25 July 2019; Accepted: 6 October 2019 ©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST) Abstract The results of identifying and studying micropaleontological samples from the Quaternary sediments in the Tu Chinh - Vung May marine areas (1) and some coral reef islands of Truong Sa archipelago (2) have found more than 300 species of Benthic foraminifera, in which 291 species have been studied and described in detail, belonging to 112 genera, 43 families, 5 orders and 3 classes of the phylum Foraminifera. Among them, there are 19 new species, 3 new subspecies and 3 new genera. In the first region there are 195 species and the second one - 121 species (including 25 common species for both regions). They have important significations in the stratigraphic-biostratigraphic, ecological, paleogeographic studies, in sedimentary lithology... Regarding stratigraphy, the characteristic of Pleistocene is the first emergence of four genera: Baculogypsina, Cymbaloporetta, Parasorites, and Schlumbergerella; for Holocene - the appearance of the following genera: Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, Gyroidina, Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, Sahulia, Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia and Truongsaia. These fossils are the basis for dating sediment age, Quaternary stratigraphic division and correlation. In terms of paleoecology, benthic Foraminifera in the region (1) characterize the shallow offshore environment of the continental shelf, where there are the high and stable salinity, and the relatively strong environmental dynamics; in some places there are coral reef Foraminifera populations. In the region (2), they characterize the coral reef ecosystem of shallow and warm sea areas in the belt of tropical-subtropical climate of the Earth, where the salinity is high and stable, the transparency of water is high, and the environmental dynamics is relatively strong to strong... In addition, the paper also mentioned some other issues such as paleogeography (sea-level fluctuation), value of creating sediments of Foraminifera, environmental monitoring (for modern Foraminifera). Keywords: Benthic foraminifera, taxonomic composition, stratigraphy, paleoecology, paleogeography, Quaternary, Tu Chinh - Vung May marine areas, Truong Sa archipelago, Vietnam. Citation: Nguyen Ngoc, Bui Thi Luan, Nguyen Thi Hong Nhung, 2019. Quaternary benthic Foraminifera in the Tu Chinh - Vung May marine areas (continental shelf of Vietnam) and island, coral reef regions of the Truong Sa archipelago, Vietnam and their significance. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 19(3B), 137–147. 138 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, Tập 19, Số 3B; 2019: 137–147 DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14521 https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst Hóa thạch Foraminifera (Trùng lỗ) sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tƣ Chính - Vũng Mây (thềm lục địa Việt Nam) và khu vực các đảo, bãi cạn thuộc quần đảo Trƣờng Sa, Việt Nam và ý nghĩa của chúng Nguyễn Ngọc1,*, Bùi Thị Luận2, Nguyễn Thị Hồng Nhung3 1 Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam 2Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 3 Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam * E-mail: ngoc.cdbk@gmail.com Nhận bài: 25-7-2019; Chấp nhận đăng: 6-10-2019 Tóm tắt Kết quả xác định và nghiên cứu các sưu tập mẫu vi cổ sinh trong trầm tích “Đệ tứ” ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây (1) và các đảo, bãi cạn của quần đảo Trường Sa, Việt Nam (2) đã phát hiện được trên 300 loài Benthic foraminifera (viết tắt B. Foram - trùng lỗ sống đáy), trong đó 291 loài đã được nghiên cứu chi tiết, thuộc 112 giống, 43 họ, 5 bộ và 3 lớp của ngành Foram. Trong đó có 19 loài mới, 3 phụ loài mới và 3 giống mới. Riêng ở khu vực thứ nhất có 195 loài và khu vực thứ hai có 121 loài (kể cả 25 loài chung cho cả hai vùng). Chúng có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu địa tầng-sinh địa tầng, cổ sinh thái, cổ địa lý, thạch học trầm tích, Về địa tầng: Đặc trưng cho Pleistocen là sự xuất hiện của 4 giống là Baculogypsina, Cymbaloporetta, Parasorites, Schlumbergerella và cho Holocen là sự xuất hiện của các giống: Ammomassilina, Baulogypsinoides, Cymbaloporella, Falsotextularia, Fijiella, Flintina, Gyroidina, Lugdunum, Neoconorbina, Planoperculina, Ptychomiliolata, Pseudoflintina, Pseudomassilina, Sahulia, Schlumbergerina, Septotextularia, Siphoniferoides, Tawitawia và Truongsaia. Các hóa thạch này là cơ sở đề xác định tuổi trầm tích và phân chia, liên hệ địa tầng trầm tích Đệ tứ. Về cổ sinh thái: Foram sống đáy ở vùng biển (1) đặc trưng cho môi trường biển nông xa bờ của thềm lục địa, nơi có độ muối cao và ổn định, động lực môi trường tương đối mạnh, một số nơi có các quần thể Foram rạn san hô; ở khu vực (2) đặc trưng cho môi trường hệ sinh thái san hô tạo rạn của các vùng biển nông, ấm áp thuộc vành đai khí hậu nhiệt đới- cận nhiệt đới của Trái đất, nơi có độ muối cao và ổn định, độ trong của nước cao, động lực môi trường tương đối mạnh đến mạnh, Ngoài ra, bài báo còn đề ... c địa hình nổi cao và các rạn san hô ở thềm lục địa cũng như ở ngoài khơi xa giữa Biển Đông lộ ra trên bề mặt địa hình và bị tác động của điều kiện khí hậu nhiệt đới, của các quá trình bào mòn, xâm thực tạo nên bề mặt phong hóa laterit thể hiện rõ trong các mặt cắt địa chất ở các khu vực nghiên cứu [24]. Trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của môi trường ở khoảng địa tầng tương ứng này hóa thạch Foram nghèo nàn và đơn điệu. Nhưng từ Holocen, mực nước biển dâng lên làm chìm ngập các địa hình thấp tạo nên hệ thống đảo ở thềm lục địa và ở quần đảo Trường Sa, Việt Nam. Trong điều kiện môi trường sống mới của thời kỳ biến tiến Holocen, hệ động vật Foram phát triển mạnh, phong phú và đa dạng, nhiều giống loài mới xuất hiện, khác hẳn về thành phần phân loại so với khoảng địa tầng Pleistocen (bảng 1). Về giá trị tạo đá trầm tích Các nghiên cứu về vai trò tạo trầm tích của Foram cho thấy nhiều giống loài của các sinh vật này là các sinh vật sản xuất vật liệu trầm tích cacbonat. Đặc biệt ở các hệ sinh thái rạn san hô, nhóm Foram kích thước lớn là những sinh vật sống nội cộng sinh với các loại tảo đơn bào có năng xuất sinh học với sản lượng khá cao. Nghiên cứu của Langer (2008) [18] cho biết: Tổng sản lượng CaCO3 của Foram sống đáy và sống trôi nổi ở các biển và đại dương thế giới hàng năm ước tính là khoảng 1,4 tỷ tấn (chiếm gần 25% tổng sản lượng cacbonat của các đại dương hiện nay. Riêng các Foram kích thước lớn sản xuất ước tính ít nhất là 130 triệu tấn/năm, chiếm khoảng 2,5% CaCO3 của tất cả đại dương (hình 1) [18]. Số liệu này nói lên vai trò quan trọng của Foram trong việc thành tạo trầm tích cacbonat nguồn gốc hữu cơ [18]. Trong công trình “Địa chất biển” của mình, tác giả Kennet (1982) [26] cũng khẳng định: Vỏ Foram là một trong các nguồn CaCO3 quan trọng ở các biển và đại dương thế giới. Nghiên cứu các đảo-rạn san hô ở Thái Bình Dương của Hallock (1981) [17], ở Châu Úc của Yamano, Miyajima and Koike (2000) [27] và Dawson, Hua and Smithers (2012) [28] cho thấy Foram kích thước lớn góp phần quan trọng vào khối lượng trầm tích của các thể địa chất này (có thể chiếm khoảng 30% tổng lượng trầm tích). Ở Việt Nam, theo cách tính đơn giản nhất, trong 1 g trầm tích là cát vụn sinh vật bãi biển đảo Nam Yết có từ 300–600 vỏ Foram sống đáy, hay ở bãi Thuyền Chài, con số này là khoảng 1.000 vỏ/1 g trầm tích cát vụn sinh vật [13]; trong trầm tích đáy ở một số nơi của vùng biển Nam Trung Bộ ở cấp hạt 1–2 mm có tới 90% số hạt cát là vỏ của các giống Baculogypsina, Baculogypsinoides, Alveolinella, Calcarina, Schlumbergerella, Qua trên ta thấy: Foram có ý nghĩa quan trọng trong việc sản xuất vật liệu trầm tích cacbonat, góp phần vào quá trình hình thành và phát triển của các đảo - rạn san hô. Nguyễn Ngọc và nnk. 144 Về quan trắc và đánh giá tác động môi trƣờng Trong bối cảnh môi trường biển đang bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau bởi các hoạt động kinh tế xã hội (giao thông vận tải biển, khai thác dầu khí, phá rừng ngập mặn nuôi trồng hải sản,) bởi sự biến đổi khí hậu có tính toàn cầu, trên thế giới đã và đang sử dụng nhóm sinh vật Foram sống đáy như là một trong các chỉ thị sinh học (Bioindicators) trong việc quan trắc và đánh giá tác động môi trường [16, 17]. Bởi vì chúng là các vi sinh vật đơn bào, có đời sống tương đối ngắn (từ vài tháng đến vài năm), rất nhậy cảm đối với sự biến động của của môi trường sống và sự phản ứng của chúng với các biến động này nhanh hơn nhiều so với các sinh vật lớn (như san hô chẳng hạn). Cụ thể, bệnh bạc trắng có ở cả san hô và Foram, nhưng hiện tượng này xảy ra ở Foram sớm hơn nhiều so với ở san hô. Do đó, trong quá trình quan trắc, nếu phát hiện Foram mắc bệnh bạc trắng thì vẫn còn đủ thời gian để tìm cách cách phòng tránh bệnh cho san hô (hình 2) [29]. Đối với môi trường biển nói chung, khi bị ô nhiễm bởi các chất độc hại (như kim loại nặng, hóa chất độc hại, dầu mỡ, ), những chất độc hại này tác động trực tiếp lên sinh vật làm cho hình dáng và khung xương của chúng phát triển không bình thường (dị dạng). Đặc điểm cấu tạo hình thái của các sinh vật dị dạng này nói riêng và sự thay đổi cấu trúc (thành phần phân loại) của các quần thể sinh vật nói chung phản ánh mức độ ô nhiễm của môi trường. Đó là một trong các cơ sở để đánh giá tác động môi trường (hình 3) [30]. Các hướng nghiên cứu này ở nhiều nơi trên thế giới đã và đang được sử dụng, nhưng ở Việt Nam, vì các lý do khác nhau, hầu như chưa được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi, mới chỉ có 2 công trình nghiên cứu có tính chất thử nghiệm và chủ yếu do các chuyên gia nước ngoài thực hiện (trong đó, một công trình ở đới triều cửa sông Hồng của Weiss, Tobschall (2005) [31] và một công trình khác ở đới triều đông bằng sông Cửu Long của Debenay, Bui Thi Luan (2006) [32]. Việt Nam có vùng biển rộng khoảng một triệu km2 (gấp khoảng 3 lần diện tích đất liền) và có nhiều rạn san hô, nên trong tương lai đây sẽ là một trong các hướng nghiên cứu ứng dụng được các nhà môi trường quan tâm. Hình 2. Hình ảnh foram kích thước lớn thuộc loài Amphistegina radiata (Fichtel et Moll) bình thường (B) và bị bệnh bạc trắng do mất tảo cộng sinh (C) do Prazeres (2018) quan trắc thu thập ở rạn san hô Great Barrier (Australia) tháng 1 (B) và tháng 4/2016 (C) ở độ sâu 6 m [30] Hóa thạch Foraminifera 145 Hình 3. Hình ảnh sự phản ứng của Foraminifera sống đáy đối với sự cố tràn dầu năm 2011 ở biển Bột Hải, Trung Quốc (các vỏ Forams bình thường và không bình thường) [30] Ghi chú: 7. Cribroelphidium magellanicum (Heron-Allen and Earland, 1932): Vỏ bình thường (a–b) và vỏ không bình thường (c–f); 8. Buccella frigida (Cushman, 1922) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d–f); 9. Ammonia inflata (Seguenza, 1862) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d–f); 10. Ammonia tepida (Cushman, 1926) vỏ bình thường (a và b) và vỏ không bình thường (c–e); 11. Rotalidium annectens (Parker et Jones, 1865) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d và e); 12. Rotalinoides compressiusculus (Brady) vỏ bình thường (a–c) và vỏ không bình thường (d–e) [30]; Thước tỷ lệ nằm thẳng đứng ở sát lề bên trái bản ảnh. KẾT LUẬN Từ những nội dung trình bày ở trên, có thể rút ra một số kết luận sau: Về thành phần phân loại: Hóa thạch Foram sống đáy Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính - Vũng Mây và khu vực các đảo, bãi cạn của quần đảo Nguyễn Ngọc và nnk. 146 Trường Sa, Việt Nam khá phong phú và đa dạng, có ít nhất trên 300 loài, trong đó 291 loài được nghiên cứu chi tiết. Riêng ở khu vực (1) có 195 loài và khu vực (2) có 121 loài (kể cả 25 loài chung cho cả hai khu vực nghiên cứu. Về địa tầng: Các hóa thạch Foram nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về tuổi và địa tầng khu vực nghiên cứu. Cơ sở sinh địa tầng Đệ tứ ở vùng biển Tư Chính -Vũng Mây và khu vực các đảo, bãi cạn của quần đảo Trường Sa hiện nay chủ yếu dựa trên hóa thạch Foram. Đó là sự xuất hiện các giống loài mới ở các mức địa tầng khác nhau tạo nên các tập hợp hóa thạch đặc trưng tuổi và chỉ định địa tầng. Về mặt cổ sinh thái: Các hoá thạch nghiên cứu là các sinh vật đơn bào sống ở biển, thuộc nhóm sống đáy, là các sinh vật biển nông xa bờ của các vùng biển nhiệt đới-cận nhiệt đới. Ý nghĩa khác: Ngoài ra, các hóa thạch Foram còn có ý nghĩa quan trọng các nghiên cứu cổ địa lý, môi trường trầm tích, chúng là một trong các nhóm sinh vật tạo trầm tích cacbonat. Foram hiện đại hiện nay nhiều nơi trên thế giới đã và đang được sử dụng như các chỉ thị sinh học, là công cụ trong quan trắc và đánh giá tác động môi trường biển. Ở Việt Nam, các hướng này mới chỉ có 2 nghiên cứu có tính chất thử nghiệm. Bài viết này giới thiệu chúng để những ai quan tâm có thể tìm hiểu tham khảo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phùng Văn Phách (chủ biên), Nguyễn Như Trung, Nguyễn Tiến Hải và nnk., 2014. Cấu trúc kiến tạo và địa mạo khu vực quần đảo Trường Sa và Tư Chính - Vũng May. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 246 tr. [2] Mai Văn Khiêm, Trần Thục, Lã Thị Tuyết và nnk., 2014. Một số nhận định về đặc điểm khí hậu Biển Đông. Tạp chí Biển Việt Nam, số tháng 8+9. Tr. 17–22. [3] Võ Văn Lành, Tống Phước Hoàng Sơn, 2001. Các xoáy địa chuyển cơ bản của vùng khơi Biển Đông và các đặc trưng nhiệt muội trong chu kỳ năm. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 1(2), 27–38. [4] Brady, H. B., 1884. Report on the foraminifera dredged by HMS Challenger during the years 1873–1876. Report on the scientific results of the voyage of the HMS Challenger during the years 1873– 1876, Zoology, 9, 1–814. [5] Cushman, J. A., 1932, 1933. The foraminifera of the tropical Pacific collection of the “Albatross” 1899–1900. Part 1 (1932): Astrorizidae to Trochamminidae. U.S. Natl. Mus. Bull. 161: i–vi, 1–88, pls. 1–17. Washington. Part 2 (1933): Lagenidae to Alveolinidae, 1–78, pls. 1–19. [6] Debenay, J. P., 2012. A guide to 1,000 foraminifera from Southwestern Pacific: New Caledonia. IRD Editions. [7] Jones, R. W., 2014. Foraminifera and their Applications. Cambridge University Press. 391 p. [8] Huang, T., 1964. “Rotalia” group from the upper Cenozoic of Taiwan. Micropaleontology, 10(1), 49–62. [9] Mai Văn Lạc, 2004. Phân loại và một số giống loài Rotaliid phổ biến trong trầm tích Kainozoi ở Viêt Nam và các vùng kế cận. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 26(4), 349–355. [10] Murray, J. W., 2006. Ecology and applications of benthic foraminifera. Cambridge University Press. 426 p. [11] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Bạt, 2006. Hóa thạch trùng lỗ (Foraminifera) Kainozoi thềm lục địa và các vùng kế cận ở Việt Nam. Viện Khoa học tự nhiện và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. 392 tr. [12] Renema, W., 2003. Larger foraminifera on reefs around Bali (Indonesia). Zoologische Verhandelingen, 345, 337–366. [13] Whittaker, J. E., 1979. Foraminifera of the Togopi formation, eastern Sabah, Malaysia. Bulletin of the British Museum (Natural History), London,(Geology), 31, 1–120. [14] Tappan, H., and Loeblich, A. R., 1988. Foraminiferal genera and their classification. Van Nostrand Reinhold. [15] Boudaugher-Fadel, M. K., 2018. Evolution and geological significance of larger benthic foraminifera. UCL Press. [16] Suokhrie, T., Saraswat, R., and Nigam, R., 2017. Foraminifera as Bio-Indicators of Hóa thạch Foraminifera 147 Pollution: A Review of Research over the Last Decade. Micropaleontology and its Applications.-Scientific Publishers (India), 265–284. [17] Hallock, P., Lidz, B. H., Cockey- Burkhard, E. M., and Donnelly, K. B., 2003. Foraminifera as bioindicators in coral reef assessment and monitoring: the FORAM index. Environmental Monitoring and Assessment, 81(1–3), 221–238. [18] Langer, M. R., 2008. Assessing the Contribution of Foraminiferan Protists to Global Ocean Carbonate Production 1. Journal of Eukaryotic Microbiology, 55(3), 163–169. [19] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, 2002. Vai trò tạo trầm tích của nhóm sinh vật trùng lỗ (Foraminifera) ở rạn san hô Thuyền Chài, Quần đảo Trường Sa, Việt Nam. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 24(4), 306–310. [20] Nguyễn Ngọc, 1980. Trùng lỗ (Foraminifera) quần đảo Trường Sa qua sưu tập của Đỗ Tuyết. Những phát hiện mới về KCH 1980, Hà Nội. Tr. 16–18. [21] Nguyễn Ngọc, 1982. Foraminifera Đệ tứ muộn quần đảo Trường Sa. Tuyển tập các công trình NC cổ sinh vật học, Tập 1. Hà Nội. Tr. 34–45. [22] Nguyễn Ngọc, 2018. Hệ động vật trùng lỗ (Foraminifera) Holocen ở khu vực đảo Phan Vinh, quần đảo Trường Sa (Việt Nam) và một số vấn đề liên quan. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 18(1), 39–51. [23] Nguyen Ngoc, Nguyen Huu Cu, 1998. Foraminifera assemblages and their enclosing sediments in some islands of the Truong Sa Archipelago of Vietnam. Petrovietnam Review, N2, 18–24. [24] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, 1998. Về ranh giới địa tầng Pleixtocen-Holocen ở khu vực đảo nổi Trường Sa. Tạp chí Dầu khí, 2, 15–20. [25] Biswas, B., 1923. Quaternary changes in sea-lever in the South China Sea. In Proceed. Reg. Conf. Geol. SE Asia, Geol. Soc. Malaysia Bull. (Vol. 6, pp. 229–256). [26] Kennett, J. P., 1982. Marine Geology. Prentica-Hall, Englewood-Cliffs, New Jersey. 813 p. [27] Yamano, H., Miyajima, T., and Koike, I., 2000. Importance of foraminifera for the formation and maintenance of a coral sand cay: Green Island, Australia. Coral Reefs, 19(1), 51–58. [28] Dawson, J. L., Hua, Q., and Smithers, S. G., 2012. Benthic foraminifera: their importance to future reef island resilience. [29] De Freitas Prazeres, M., 2018. Bleaching- associated changes in the microbiome of large benthic Foraminifera of the Great Barrier Reef, Australia. Frontiers in Microbiology, 9, 2404. [30] Lei, Y. L., Li, T. G., Bi, H., Cui, W. L., Song, W. P., Li, J. Y., and Li, C. C., 2015. Responses of benthic foraminifera to the 2011 oil spill in the Bohai Sea, PR China. Marine Pollution Bulletin, 96(1– 2), 245–260. [31] Richard, H., Weiss, C., Tobschall, H. J., 2005. Benthic Foraminifera Tests as Proxy Indicators of Sediment Pollution in the Macro-Tidal Red river Mouths (North Vietnam). Intern. Conf. in Memory of Geory D. Jones. Rice Univ., Houston, Texas, USA, 6–11. [32] Debenay, J. P., and Luan, B. T., 2006. Foraminiferal assemblages and the confinement index as tools for assessment of saline intrusion and human impact in the Mekong Delta and neighbouring areas (Vietnam). Revue de micropaléontologie, 49(2), 74–85. [33] Pawlowski, J., Holzmann, M., and Tyszka, J., 2013. New supraordinal classification of Foraminifera: Molecules meet morphology. Marine Micropaleontology, 100, 1–10.
File đính kèm:
- hoa_thach_foraminifera_trung_lo_song_day_de_tu_o_vung_bien_t.pdf