Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa

Hồ Quý Ly trong tiến trình lịch sử dân tộc là một nhân vật đã và đang gây ra nhiều đánh giá trái

chiều. Dưới góc nhìn văn hóa, Hồ Quý Ly đã có nhiều đóng góp tích cực góp phần xây dựng nền văn

hóa dân tộc và cải cách, canh tân đất nước. Di sản mà ông để lại cho hậu thế, ngoài hai công trình kiến

trúc độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như thành Nhà Hồ, đàn tế Nam Giao Tây Đô, còn

là những tư tưởng văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, vượt khỏi biên giới quốc gia và thời đại lúc bấy giờ.

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 1

Trang 1

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 2

Trang 2

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 3

Trang 3

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 4

Trang 4

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 5

Trang 5

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 10660
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa

Hồ Quý Ly dưới góc nhìn văn hóa
ĂN HÓA 
M 
HỒ QUÝ LY DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA 
HOÀNG KIM NGỌC 
Tóm tắt 
Hồ Quý Ly trong tiến trình lịch sử dân tộc là một nhân vật đã và đang gây ra nhiều đánh giá trái 
chiều. Dưới góc nhìn văn hóa, Hồ Quý Ly đã có nhiều đóng góp tích cực góp phần xây dựng nền văn 
hóa dân tộc và cải cách, canh tân đất nước. Di sản mà ông để lại cho hậu thế, ngoài hai công trình kiến 
trúc độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như thành Nhà Hồ, đàn tế Nam Giao Tây Đô, còn 
là những tư tưởng văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, vượt khỏi biên giới quốc gia và thời đại lúc bấy giờ. 
Từ khóa: Hồ Quý Ly, góc nhìn văn hóa, thành Nhà Hồ. 
Abstract 
In the national history process, Ho Quy Ly is a person who has been causing a lot of mixed reviews. 
From a cultural perspective, Ho Quy Ly has contributed actively to the development of national culture 
and the reform of the country. The legacies that he left for the posterity, in addition to the two unique 
architectural constructions that bearing cultural identity of Vietnam such as the Ho Dynasty citadel, 
Nam Giao Tay Do sacrifice estrade, also the influential cultural ideas, transcended times and national 
boundaries. 
Keywords: Ho Quy Ly, cultural perspective, the Ho Dynasty citadel 
ỗi triều đại đi qua đều để lại dấu 
ấn của mình trong tiến trình lịch 
sử. Dẫu tồn tại trong thời gian 
ngắn ngủi, 7 năm (1400 – 1407), nhưng triều 
đại nhà Hồ cũng đã để lại cho lịch sử dân tộc 
nhiều dấu ấn đậm nét về tư tưởng đổi mới, 
canh tân đất nước và những công trình xây 
dựng đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật kiến trúc. 
Gắn liền với những dấu ấn lịch sử, văn hóa đó 
là Hồ Quý Ly, một trong những nhân vật mà 
đến nay, đang để lại cho hậu thế nhiều vấn đề 
để bàn luận. Dưới góc nhìn văn hóa, có thể 
khẳng định một điều rằng, Hồ Quý Ly có ảnh 
hưởng và đóng góp lớn về mặt tư tưởng và 
văn hóa lúc đương thời cũng như trong tiến 
trình lịch sử dân tộc, điều này được thể hiện rõ 
nét ở 5 khía cạnh sau đây. 
1. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị 
của Hồ Quý Ly 
Hồ Quý Ly có tổ tiên ở Trung Quốc nhưng 
ông sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, vì thế ông 
chịu ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Việt Nam. 
Quý Ly tự là Lý Nguyên, có tổ xa là Hồ Hưng 
Dật, vốn người Chiết Giang, Trung Quốc, đến 
đời thứ 12 có Hồ Liêm dời đến ở hương Đại 
Lại (nay thuộc Hà Trung – Thanh Hóa), làm con 
nuôi quan Tuyên úy Lê Huấn. Vì thế dưới triều 
đại nhà Trần, ông còn có tên khác là Lê Quý 
Ly. Năm 1400, ông lên ngôi Hoàng đế lấy lại 
họ Hồ, hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là 
Đại Ngu (theo nghĩa Hán là niềm an vui lớn, 
hàm ý mong muốn hòa bình). Việc Hồ Quý Ly 
mong muốn xây dựng một đất nước cường 
thịnh, thái bình như thời Nghiêu Thuấn thể 
hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ của ông. Mặc 
dù tổ tiên của Hồ Quý Ly ở bên ngoài đất Việt, 
ĂN HÓA 
 VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI 
nhưng tư tưởng của ông vẫn là “giang sơn đã 
chia, phong tục cũng khác”. Ý thức dân tộc của 
Hồ Quý Ly được thể hiện rõ ràng trong hàng loạt 
dẫn chứng lịch sử. Đại Việt sử ký toàn thư 
chép:“Năm 1403, nhà Minh sai sứ sang đòi cắt 
trả lại đất Mộc Châu ở Lạng Sơn... Quý Ly sai 
Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ. 
Hối khanh đem các thôn như Cổ Lâu, gồm cả 
thảy 59 thôn trả lại cho nhà Minh. Quý Ly trách 
mắng Hối Khanh tàn tệ vì trả lại đất nhiều quá. 
Phàm những thổ quan do nhà Minh đặt, Quý Ly 
đều bí mật sai thổ nhân ở đó đánh thuốc độc 
giết đi”(4, tr.210). Ý thức chủ quyền dân tộc của 
Hồ Quý Ly cũng được thể hiện trong các cuộc 
bình định vùng đất phương Nam lúc bấy giờ, khi 
mà quân Chiêm Thành nhiều lần đem quân 
đánh phá sâu vào bờ cõi Đại Việt 
Hồ Quý Ly có một ý thức và trách nhiệm rất 
cao đối với sự tồn vong của dân tộc. Chúng ta 
không thể nghi ngờ về ý chí kháng chiến của 
ông trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Sử cũ 
còn ghi lại câu nói của Tướng quốc Hồ Nguyên 
Trừng: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân 
không theo”. Vì câu nói này mà Hồ Nguyên 
Trừng được Quý Ly “ban cho cái hộp trầu bằng 
vàng” (4, tr.112). Đây là bằng chứng sinh động 
về sự phân tích, đánh giá tình hình và thực 
trạng xã hội, cũng như nhận thức trách nhiệm 
của triều đại nhà Hồ đối với sự tồn vong của 
dân tộc. 
2. Hồ Quý Ly đối với nền văn hóa dân tộc 
Quá trình tham gia nhiếp chính, Hồ Quý Ly 
để lại nhiều dấu ấn văn hóa mang đậm màu 
sắc dân tộc. Trong những năm nắm thực quyền 
dưới triều đại nhà Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện 
nhiều biện pháp để xây dựng và phát triển 
văn hoá. Hồ Quý Ly đã soạn sách Minh đạo lục 
gồm 14 thiên dâng lên vua Trần, trong đó ông 
nghiên cứu, tiếp thu có phê phán những tinh 
tuý của văn minh Trung Hoa nhằm vận dụng 
vào điều kiện thực tiễn của nước ta lúc bấy giờ. 
Hồ Quý Ly, một mặt thừa nhận đóng góp của 
các nhà tư tưởng, các nhà văn hoá tiền bối; 
mặt khác, ông nói thẳng vào cái sai từ sự quan 
liêu, xa rời thực tiễn “không sát với sự việc”, “chỉ 
thạo cóp nhặt” của họ. Nét độc đáo ở đây là Hồ 
Quý Ly không bị những tư tưởng chính thống chi 
phối mà tiếp thu có chọn lọc những gì phù hợp 
với thực tế Đại Việt. Tác phẩm Minhđạo thể hiện 
Hồ Quý Ly không thuần tuý chỉ biết văn chương, 
chữ nghĩa mà còn am hiểu thời cuộc, ông là một 
nhà tư tưởng có tầm nhìn vượt thời đại. Chính 
vì vậy, đương thời, vua Trần Phế Đế, khi cử ông 
làm Bình chương sự, đã ban cho Hồ Quý Ly một 
thanh gươm, một lá cờ đề 8 chữ: “Văn võ toàn 
tài, quân thần đồng đức”(4, tr.173). Sử cũ còn 
ghi lại sự việc: Mùa thu năm 1402, khi Hán 
Thương đổi sổ An phủ sứ (lộ Thanh Hoa), Cảnh 
Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà 
Hán, mộ người nộp thóc chứa vào kho để việc 
phòng bị biên cương được đầy đủ. Những người 
nộp thóc thì hoặc là được ban tước cho, hoặc 
được miễn tội tuỳ theo mức độ. Quý Ly 
phê:“Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán, 
Đường, thực là thằng ngọng hay nói, chỉ chuốc 
lấy tiếng cười mà thôi!” (4, tr.203). Lời phê ấy 
chứng tỏ Hồ Quý Ly thấu hiểu tình hình thực tế 
của đất nước, mọi tư tưởng phải phù hợp với 
thực tế, không thể áp dụng một cách máy móc 
tiền lệ của lịch sử vào hiện tại được. Chính vì 
vậy, những cải cách của Hồ Quý Ly trong thi cử, 
tuyển chọn quan lại bao giờ cũng xuất phát từ 
thực tiễn Việt Nam. Định hướng của ông về một 
nền giáo dục của đất nước là: “tỏ rõ giáo hoá, 
giữ phong tục”. Những quy định cụ thể của ông 
nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho 
đất nước, rất đáng ghi nhận. Nhà sử học Ngô Sĩ 
Liên cũng phải công nhận: “Bấy giờ có chiếu lệnh 
này, còn gì tốt đẹp hơn thế nữa” (4, tr.193). Hồ 
Quý Ly cũng là vị vua đầu tiên quyết định dùng 
chữ Nôm để chấn hưng nền văn hoá của dân 
tộc, đưa toán vào trong các kỳ thi, cho dịch kinh 
thư, kinh thi. 
Với ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa 
Việt, xây dựng bản sắc văn hóa riêng cho triều 
đại của mình, Hồ Quý Ly coi trọng chữ Nôm. Ông 
thường sử dụng chữ Nôm trong các tác phẩm 
của mình. “Quốc âm thi nghĩa” là cuốn sách 
bằng chữ Nôm, được ông biên soạn 
ĂN HÓA 
 VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI 
và viết bài tựa với nội dung chủ yếu là dịch và 
giải nghĩa Kinh Thi. Bài tựa của Hồ Quý Ly 
trong Quốc âm thi nghĩa, theo Đại Việt sử ký 
toàn thư là không tuân thủ khuôn phép cũ mà 
“phần nhiều theo ý mình” (4, tr.190). Ông còn 
dịch một số tác phẩm và sáng tác thơ bằng 
chữ Nôm. Rõ ràng việc coi trọng chữ Nôm (một 
sáng tạo lớn của ông cha ta dựa trên cơ sở chữ 
Hán), đưa chữ Nôm ứng dụng vào thực tiễn 
cuộc sống đã khẳng định ý thức dân tộc và 
quyết tâm xây dựng nền văn hóa mang đậm 
bản sắc dân tộc của Hồ Quý Ly. Đây cũng là 
tiền đề cho những tác phẩm văn học sáng tác 
bằng chữ Nôm ra đời và phát triển rực rỡ gắn 
liền với tên tuổi của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, 
Hồ Xuân Hương... sau này. 
3. Dấu ấn của Hồ Quý Ly trong những công 
trình kiến trúc 
Di sản văn hóa mà nhà Hồ để lại cho hậu 
thế, cho đến nay đã được nhân loại công nhận 
là có giá trị trường tồn. Đó là những công trình 
kiến trúc độc đáo mang đậm sắc màu văn hóa 
dân tộc. Hai công trình thể hiện rõ nét nhất tinh 
hoa văn hóa Việt thời bấy giờ là kinh thành Tây 
Đô (thành Nhà Hồ ngày nay) và đàn tế Nam 
Giao. Hồ Quý Ly không phải là tác giả của hai 
công trình này, song không thể nói ông không 
có vai trò gì trong việc xây dựng chúng. Trên 
thực tế, khó chứng minh được công lao của 
ông đến đâu, điều có thể khẳng định ở đây là 
thành Tây Đô và đàn tế Nam Giao đã thể hiện 
tư tưởng chiến lược của Hồ Quý Ly. 
Thành Tây Đô hay còn gọi là thành Nhà Hồ là 
trung tâm kinh thành của Việt Nam những năm 
cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Từ thế kỷ XVI 
đến thế kỷ XVIII, thành Tây Đô trở thành trung 
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của khu vực Bắc 
Trung bộ Việt Nam. Giá trị nổi bật toàn cầu của 
khu di sản bao gồm tòa thành đá với tường 
thành, cổng thành, đường giao thông nội ngoại 
thành được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn. Các 
tầng văn hóa nối tiếp nhau trong lòng đất, lưu 
giữ các dấu tích cung điện, đền đài, miếu mạo, 
đường xá và nghệ thuật trang 
trí kiến trúc. Các làng cổ cùng toàn bộ cảnh 
quan sông hồ, núi non mang đậm chất phong 
thủy điển hình còn được lưu giữ tương đối 
nguyên vẹn, phản ánh rõ nét về một thời kỳ 
lịch sử, văn hóa, văn minh Việt Nam với những 
đặc trưng mang tầm khu vực và thế giới. Giá 
trị văn hóa nổi bật của kinh thành Tây Đô biểu 
hiện trên hai tiêu chí như sau: 
Tiêu chí 1: Thành Nhà Hồ phản ánh sự giao 
lưu văn hóa (cụ thể là chịu ảnh hưởng của Nho 
giáo Trung Hoa), biểu hiện vương quyền tập 
trung ở thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. 
Thành là kết quả của những bước phát triển mới 
trong phong cách kiến trúc trên phương diện kỹ 
thuật và quy hoạch đô thị: tận dụng triệt để điều 
kiện thiên nhiên xung quanh; đưa thêm vào các 
công trình và cảnh quan đô thị những yếu tố 
riêng biệt của Việt Nam và Đông Nam Á. 
Tiêu chí 2: Thành Nhà Hồ là ví dụ nổi bật về 
một quần thể kiến trúc giữa một cảnh quan 
thiên nhiên, minh chứng cho sự phát triển nở rộ 
của Nho giáo thực hành cuối thế kỷ XIV của Việt 
Nam. Đây là một thời kỳ mà tư tưởng này đã 
lan rộng khắp Đông Á và trở thành một triết lý 
có tầm ảnh hưởng lớn đối với việc cai trị của các 
quốc gia trong khu vực. Việc sử dụng những khối 
đá lớn chứng tỏ sức mạnh tổ chức của một nhà 
nước tân Nho giáo, cho thấy sự giao lưu về kỹ 
thuật xây dựng trong khu vực Đông Nam Á, và sự 
thay đổi hướng trục chính làm nên điểm khác 
biệt về thiết kế của thành Nhà Hồ so với chuẩn 
mực Trung Hoa (7, tr.73). 
Ngoài việc xây dựng thành Tây Đô, để 
khẳng định tính chính thống của vương triều 
và uy quyền của Hoàng đế, đồng thời tỏ rõ ý 
thức tự cường, tự tôn văn hóa dân tộc, Hồ Quý 
Ly đã cho lập đàn tế Nam Giao và tổ chức lễ tế 
giao hàng năm. Đàn tế Nam Giao Tây Đô được 
vương triều Hồ xây dựng và hoàn thành năm 
1402, nằm trong lòng tay ngai của dãy Đốn Sơn 
thuộc động An Tôn, phủ Thanh Hóa lúc bấy 
giờ (tức huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày 
nay), có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, kiến trúc. 
Cấu trúc đàn tế Nam Giao Tây Đô vừa mang đặc 
ĂN HÓA 
 VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI 
điểm chung của các đàn tế Nam Giao phương 
Đông, vừa mang đặc điểm riêng của Việt Nam. 
Điểm khác biệt đó là: phần trung tâm và cao 
nhất của đàn tế không phải ở chính tâm của 
đàn mà dựa vào sườn núi, mặc dù vòng ngoài 
của nó khá giống với vòng ngoài của đàn Nam 
Giao ở Bắc Kinh, đời nhà Nguyên - Trung Quốc. 
Đặc biệt, đàn Nam Giao Tây Đô có trục linh đạo 
quay theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Trung 
tâm nền đàn dịch hẳn về phía Tây Bắc, lớp 
tường đàn trong cùng có góc chạy vát chéo. Vị 
trí xây dựng và cách thức quy hoạch các công 
trình theo lối cao dần lên và dựa vào núi, cho 
thấy công trình có sự gần gũi với di sản văn 
hóa Vat Phu (Lào), nơi đây nhân dân luôn tin 
rằng có một ngọn “núi thiêng”, trong đó thần 
linh ngự trị và cai quản. Quan niệm này phổ 
biến trong các cộng đồng cư dân Đông Nam 
Á. Trong bối cảnh đó, cấu trúc đàn tế Nam 
Giao Tây Đô thực sự độc đáo, hiếm có khi so 
sánh với các đàn tế ở Việt Nam nói riêng cũng 
như ở các quốc gia phương Đông nói chung. 
Về khía cạnh văn hóa phi vật thể, để phục vụ 
cho lễ tế Nam Giao, nhà Hồ cho tập Nhã Nhạc, 
lấy con các quan văn làm Kinh Vĩ Lang, con các 
quan võ làm Chỉnh Đốn Lang, cho học các điệu 
múa văn và võ. Nhã Nhạc trở thành nghi thức 
văn hóa, văn nghệ cung đình và là một trong 
những nghi thức không thể thiếu trong các kỳ 
đại lễ, quốc lễ và được lưu truyền rộng rãi 
trong dân gian. Nhã Nhạc vừa mang tính bình 
dân, đại chúng lại vừa hàm chứa tính bác học 
sâu xa. Sau này Nhã Nhạc được các vua triều 
Nguyễn rất ưa chuộng và được bổ sung, phát 
triển lên một tầm cao mới. Thông qua lễ tế 
Nam Giao, nhà Hồ cho đặt lại thể thức văn hóa 
tế lễ, phẩm phục của quan lại và dân chúng: 
quan nhất phẩm mặc áo màu tía; quan nhị 
phẩm mặc áo màu hồng; quan tam phẩm mặc 
áo màu hồng điều; quan tứ phẩm mặc áo màu 
lục; quan ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm mặc 
áo màu biếc; quan bát phẩm và cửu phẩm mặc 
áo màu xanh; dân thường và nô tỳ dùng màu 
trắng. Lệ cũ trước đây theo bên Tàu, đặt ra 2 
bậc lễ nghi, nhà Hồ cho làm 3 bậc lễ nghi (tiểu, 
trung và đại). Cứ 3 năm tổ chức một đại lễ, hai 
năm tổ chức một trung lễ, tiểu lễ được tổ chức 
hằng năm. Trong đại lễ, nhà vua ngồi xe thái 
bình, phía trước là 40 hình người bằng gỗ mặc 
áo vóc cầm cờ. Có năm, nhà vua đi thuyền nhỏ 
ở hồ Chu Tước. Thuyền được kéo bởi dây thừng 
làm bằng gấm vóc. Trong dịp trung lễ, nhà vua 
ngồi trên ngai trạm trổ bách cầm. Vào dịp tiểu 
lễ, thiên tử chỉ ngồi ngai nhỏ. Như vậy, về khía 
cạnh văn hóa vật thể cũng như văn hóa phi vật 
thể, đàn tế Nam Giao (Tây Đô) có những điểm 
tương đồng và khác biệt với các đàn tế khác ở 
Việt Nam và các quốc gia phương Đông trong 
cùng thời đại và trong lịch sử. Điều đó chứng 
tỏ nhà Hồ đã sớm biết kế thừa, chọn lọc tinh 
hoa của các nước trong khu vực, đồng thời xây 
dựng bản sắc văn hóa riêng cho đất nước mình. 
Trở lại với Hồ Quý Ly, sự gắn bó của ông với 
những công trình kiến trúc cần được hiểu một 
cách sâu xa hơn: Tư tưởng văn hóa của một 
thời đại được kết tinh trong những công trình 
này. Tư tưởng đó vừa kế thừa truyền thống, vừa 
cách tân truyền thống. Để hình thành tư tưởng 
đó, không thể một mình Hồ Quý Ly, song cần 
khẳng định vai trò khởi xướng của ông là quan 
trọng. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị 
của ông, như trên đã phân tích là tinh thần 
dân tộc. Cốt lõi ấy cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt 
quan niệm của ông trong quá trình xây dựng 
nền văn hóa nước Đại Ngu: ông muốn tạo nên 
những nét riêng văn hóa cho triều đại mình. 
Thành Tây Đô và đàn tế Nam Giao Tây Đô, xét 
trên phương diện tư tưởng văn hóa, quả đã 
thể hiện được bản lĩnh Hồ Quý Ly. 
4. Đánh giá chung về Hồ Quý Ly 
Những tư tưởng và cải cách của Hồ Quý Ly 
có tầm ảnh hưởng lớn, đã vượt qua biên giới 
thời đại lúc bấy giờ. Các triều đại sau này, trên 
cơ sở tư tưởng và những cách tân của ông, đã ít 
nhiều học tập, áp dụng vào thực tiễn lịch sử và 
đã thu được những thành công đáng kể. Nhà 
Lê (sau cuộc kháng chiến chống quân Minh 
thắng lợi), từ những tiền đề cải cách của nhà 
Hồ, đã xây dựng được một chính thể quân chủ 
ĂN HÓA 
 VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI 
tập quyền trọng Nho, tạo nên một giai đoạn 
phồn thịnh mới của Đại Việt ở khu vực Đông Á 
và Đông Nam Á. 
Nguyễn Trãi, danh nhân văn hoá thế giới, 
người đã từng đỗ Thái học sinh tại kinh thành 
Tây Đô khoa Nhâm Thìn (1400), sau mười năm 
cùng Lê Lợi nếm mật, nằm gai, đã đánh bại nhà 
Minh. Trong niềm tin chiến thắng ấy, một lần 
đi qua cửa biển Thần Phù (Nga Sơn), ông nhớ 
đến bậc tiền nhân và đã có những vần thơ ca 
ngợi Hồ Quý Ly dưới góc độ là một anh hùng: 
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật 
Anh hùng di hận kỷ thiên niên”. 
(Chuyện họa phúc có thời có vận 
Anh hùng để hận mãi ngàn năm). 
Khát vọng lớn nhất của Hồ Quý Ly là canh 
tân để đất nước cường thịnh và có sức mạnh 
chống quân xâm lược. Tiếc thay khát vọng của 
ông đã không thành hiện thực. Điều đó được 
sử gia phong kiến cũng như giới sử học hiện 
đại đã và đang phân tích, đánh giá. Không 
phải ngẫu nhiên mà tên tuổi Hồ Quý Ly được 
ghi vào Bách khoa từ điển của nước ngoài như 
một nhà cải cách văn hóa lớn. 
Tóm lại, Hồ Quý Ly trong thời gian trị vì, 
ông đã để lại cho hậu thế nhiều dấu ấn văn 
hóa có giá trị. Dẫu lịch sử dân tộc vẫn còn 
đang bàn luận và có nhiều ý kiến trái chiều về 
triều đại này nhưng xét một cách công bằng 
thì trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, 
nhà Hồ đã để lại nhiều thành tựu và bài học 
quan trọng cho các triều đại và thế hệ lãnh đạo 
sau. Từ góc nhìn văn hóa, có thể khẳng định, 
triều đại nhà Hồ đã để lại những thành tựu 
huy hoàng. Những thành tựu này ít nhiều đều 
liên quan tới tên tuổi Hồ Quý Ly, người xứng 
đáng được xem như một anh hùng canh tân 
văn hóa. Và khi nào thành Nhà Hồ - di sản văn 
hóa thế giới của Việt Nam - còn được biết đến 
thì khi đó, người ta không thể không nhớ tới 
nhân vật Hồ Quý Ly. 
Tài liệu tham khảo 
1. Phạm Văn Chấy - Trịnh Thị Hạnh (2014), Hồ 
Quý Ly - Hoàng đế cách tân, Nxb. Đại học Quốc Gia 
Hà Nội. 
2. Phạm Cúc (1992), Hồ Quý Ly - nhà cải cách 
giáo dục tiến bộ, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 
– 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử 
học, Hà Nội. 
3. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly (tiểu 
thuyết lịch sử), Nxb. Phụ nữ, Hà Nội. 
4. Ngô Sỹ Liên và các sử gia, Đại Việt sử ký Toàn 
thư, Nxb. KHXH, Hà Nội 1973. 
5. Lâm Bá Nam (1992), Hồ Quý Ly và ý thức dân 
tộc, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 – 1992, Viện 
Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học xuất bản, 
Hà Nội. 
6. Văn Sơn, Nguyễn Duy Sĩ (1992), Hồ Quý Ly và 
canh tân đất nước, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 
5 – 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử 
học xuất bản, Hà Nội. 
7. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ 
(2011), Thành Nhà Hồ - Di sản thế giới, tập 1: Giá trị 
nổi bật toàn cầu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
8. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ 
(2011), Thành Nhà Hồ Thanh Hóa (Hồ Citadel), 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
9. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971), 
Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 20 - 9 - 2016 
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017 
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017 
H.K.N 
(PGS. TS., Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Quốc tế, 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội) 
ĂN HÓA 
 VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI 

File đính kèm:

  • pdfho_quy_ly_duoi_goc_nhin_van_hoa.pdf