Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách

Đặt vấn đề: Tê cạnh cột sống (TCCS) tạo hiệu quả giảm đau tốt trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách (ĐNNHN). Có rất ít nghiên cứu so sánh hiệu quả của hai thuốc tê ropivacaine và bupivacaine trong kỹ thuật tê này. Mục tiêu: Xác định hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống tại 3 điểm ngực 1, ngực 3, ngực 5 bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật ĐNNHN. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 128 bệnh nhân nữ phẫu thuật ĐNNHN với TCCS phối hợp gây mê toàn diện được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm R được TCCS tại N1, N3, N5 với ropivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg tại mỗi mức tê. Nhóm B nhận bupivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg cho mỗi mức. Kết cục chính: thời gian khởi phát tác dụng, lượng sufentanil trong phẫu thuật, thang điểm đau VAS và lượng morphine trong 24 giờ hậu phẫu. Kết cục phụ: tỉ lệ bệnh nhân bị tụt huyết áp, mạch chậm, suy hô hấp. Kết quả: Thời gian khởi phát tác dụng của ropivacaine ngắn hơn có ý nghĩa so với bupivacaine (10 phút so với 15 phút, p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng sufentanil sử dụng trong phẫu thuật, thang điểm VAS và lượng morphine tiêu thụ 24 giờ hậu phẫu. Kết luận: Cả 2 thuốc đều tạo hiệu quả giảm đau tốt trong tê cạnh cột sống để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 1

Trang 1

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 2

Trang 2

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 3

Trang 3

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 4

Trang 4

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 5

Trang 5

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 6

Trang 6

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 7

Trang 7

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 6440
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách

Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
318 
HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA TÊ CẠNH CỘT SỐNG BẰNG 
ROPIVACAINE SO VỚI BUPIVACAINE TRONG PHẪU THUẬT 
ĐOẠN NHŨ NẠO HẠCH NÁCH 
NGUYỄN ĐỊNH PHONG1, ĐÀO THỊ BÍCH THỦY1, NGUYỄN KIM LIÊM1, 
TRẦN NGỌC MỸ1, NGUYỄN THỊ THANH2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tê cạnh cột sống (TCCS) tạo hiệu quả giảm đau tốt trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách 
(ĐNNHN). Có rất ít nghiên cứu so sánh hiệu quả của hai thuốc tê ropivacaine và bupivacaine trong kỹ thuật tê 
này. 
Mục tiêu: Xác định hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống tại 3 điểm ngực 1, ngực 3, ngực 5 bằng 
ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật ĐNNHN. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 128 bệnh nhân nữ phẫu thuật ĐNNHN với TCCS phối hợp gây 
mê toàn diện được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm R được TCCS tại N1, N3, N5 với ropivacaine 0,5% 
liều 0,1ml/kg tại mỗi mức tê. Nhóm B nhận bupivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg cho mỗi mức. Kết cục chính: thời 
gian khởi phát tác dụng, lượng sufentanil trong phẫu thuật, thang điểm đau VAS và lượng morphine trong 24 
giờ hậu phẫu. Kết cục phụ: tỉ lệ bệnh nhân bị tụt huyết áp, mạch chậm, suy hô hấp. 
Kết quả: Thời gian khởi phát tác dụng của ropivacaine ngắn hơn có ý nghĩa so với bupivacaine (10 phút so 
với 15 phút, p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng sufentanil sử dụng trong phẫu 
thuật, thang điểm VAS và lượng morphine tiêu thụ 24 giờ hậu phẫu. 
Kết luận: Cả 2 thuốc đều tạo hiệu quả giảm đau tốt trong tê cạnh cột sống để phẫu thuật đoạn nhũ nạo 
hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine. 
Từ khóa: Bupivacaine, ropivacaine, đoạn nhũ nạo hạch nách, tê cạnh cột sống. 
ABSTRACT 
Efficacy and safety of paravertebral block with ropivacaine versus bupivacaine for mastectomy with 
axillary lymph node dissection 
Background: Paravertebral block (PVB) provides a good quality of analgesia for mastectomy with axillary 
lymph node dissection. There is paucity of study comparing the efficacy of ropivacaine with bupivacaine in this 
procedure. 
Objectives: To determine the efficacy and safety of PVB at T1, T3, T5 with ropivacaine versus bupivacaine 
for mastectomy with axillary lymph node dissection. 
Methods: 128 female patients undergoing mastectomy with axillary lymph node dissection in PVBs 
combined with general anesthesia were randomly divided into two groups. Group R received T1, T3, T5 PVBs 
with 0,1 ml/kg of 0.5% ropivacaine per level. Group B received T1, T3, T5 PVBs with 0,1 ml/kg of 0.5% 
bupivacaine per level. Primary outcomes: the onset time, the amount of intraoperative sufentanil, VAS pain 
scores and morphine consumption during 24 hours postoperatively. Secondary outcomes: rate of hypotension, 
bradycardia and respiratory failure. 
Results: Ropivacaine produced significantly shorter onset than bupivacaine (10 min versus 15 min, p 
<0.001). There was no significant difference in the amount of intraoperative sufentanil, VAS pain scores and 
morphine consumption during 24 hours postoperatively. 
1
 BS. Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
2
 Đại học Y Phạm Ngọc Thạch 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
319 
Conclusions: Both agents provided good analgesic effect in PVB for mastectomy with axillary lymph node 
dissection, but ropivacaine had more rapid onset than bupivacaine. 
Key words: Bupivacaine, ropivacaine, mastectomy with axillary lymph node dissection, paravertebral 
block. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trên thế giới, ung thư vú là ung thư thường gặp 
nhất ở phụ nữ và đứng thứ hai khi xét chung cả hai 
giới. Tại Việt Nam, ung thư vú cũng đứng hàng 
đầu[1] và phẫu thuật thường là phương thức điều trị 
đầu tiên cho bệnh nhân[5]. 
Có nhiều phương thức giảm đau được sử dụng 
trong phẫu thuật ung thư vú, trong đó, kỹ thuật tê 
cạnh cột sống (TCCS) là một trong những phương 
pháp gây tê vùng đơn giản, hiệu quả và an toàn. Có 
nhiều thuốc được sử dụng trong TCCS, bupivacaine 
0,5% và ropivacaine 0,5% thường được sử dụng 
nhất. Ropivacaine có ưu điểm là ít độc tính trên tim 
mạch và trên hệ thần kinh trung ương hơn 
bupivacaine đồng thời ít phong bế vận động hơn[12, 
15]. 
Một số nghiên cứu so sánh ropivacaine với 
bupivacaine trong TCCS cho thấy hiệu quả giảm đau 
của hai thuốc là tương đương nhau[7, 9, 10,13]. Theo 
Hura, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng 
nhanh hơn bupivacaine[10] và theo Chalam, 
ropivacaine ít có tác dụng phụ tụt huyết áp và mạch 
chậm hơn bupivacaine[7]. 
Tại Việt Nam, đã có một vài nghiên cứu về 
TCCS cho phẫu thuật ung thư vú và đều cho kết quả 
giảm đau tốt so với gây mê toàn diện đơn thuần[2],[4], 
tuy nhiên, các nghiên cứu này đều sử dụng thuốc tê 
bupivacaine, chưa có nghiên cứu nào sử dụng 
ropivacaine. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu 
“Hiệu quả và an toàn của TCCS bằng ropivacaine so 
với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch 
nách” với câu hỏi: “Trong TCCS để phẫu thuật đoạn 
nhũ nạo hạch nách, ropivacaine có hiệu quả và an 
toàn như bupivacaine hay không?”. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân nữ được phẫu thuật đoạn nhũ 
nạo hạch nách một bên; tuổi ≥ 18; 18,5 ≤ BMI < 30; 
ASA I hoặc II; không bị dị ứng hoặc có chống chỉ 
định với các thuốc sử dụng trong nghiên cứu; không 
có chống chỉ định của TCCS như: nhiễm trùng, rối 
loạn đông máu, dị dạng cột sống hay lồng ngực; 
đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ: không 
bị đau cấp hay mạn ngay trước thời điểm thực hiện 
kỹ thuật; có tai biến, biến chứng không liên quan đến 
vô cảm sau phẫu thuật; TCCS thất bại. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm 
chứng, mù đơn. 
Cỡ mẫu 128 trường hợp với 64 trường hợp cho 
mỗi nhóm, được tính dựa theo kết quả nghiên cứu 
của Sahu[14]. Các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu 
sẽ được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm bằng 
phương pháp phân nhóm ngẫu nhiên theo tổ  ... n = 64) 
Nhóm B 
(n = 64) 
P 
Tuổi (nĕm)* 47,8 ± 8,8 47,7 ± 9,6 0,89 
BMI (kg/m2)* 23,1 ± 2,6 22,4 ± 2,3 0,11 
ASA† 
I 
II 
40 (62,5) 
24 (37,5) 
41 (64,1) 
23 (35,9) 
0,86 
Vị trí phẫu thuật† 
Phải 
Trái 
28 (43,8) 
36 (56,2) 
25 (39,1) 
39 (60,9) 
0,59 
Thời gian gây tê 
(phút) ‡ 10 (10 – 11) 10 (10 - 11) 0,45 
Lượng thuốc tê 
(mg)* 
85,4 ± 8,9 83,1 ± 8,8 0,92 
Thời gian phẫu 
thuật (phút)* 54,2 ± 11,1 53,5 ± 13,3 0,75 
* Trung bình ± độ lệch chuẩn; † số trường hợp 
(%); ‡ trung vị (khoảng tứ phân vị) 
Hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật 
Trung vị thời gian khởi phát tác dụng ở nhóm R 
là 10 phút, ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm B là 15 phút. Đồng thời tại các thời điểm 5, 10 
và 15 phút sau gây tê, tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác 
lạnh cũng nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm B với p < 0,001 (Biểu đồ 1). 
Lượng sufentanil trung bình sử dụng trong mổ 
ở nhóm R là 10,6 ± 1,7mcg, nhóm B là 10,5 ± 1,6, 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm 
nghiên cứu. Cũng không ghi nhận sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về tỉ lệ bệnh nhân cần thêm 
sufentanil trong mổ giữa 2 nhóm (6,2% ở nhóm R và 
1,6% ở nhóm B). 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
321 
0
23.4
75
100 100 100 100
1.6
18.8
65.6
98.4
0 5 10 15 20 25 30
% 
bệ
nh
 nh
ân
Thời gian (phút)
Nhóm R
Nhóm B
* p < 0,001 
Biểu đồ 1. Tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác lạnh qua 30 phút gây tê 
Hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật 
Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau lúc nghỉ và lúc vận động theo thang điểm 
VAS trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật (p > 0,05). VAS lúc nghỉ và vận động lúc đầu cao hơn ở nhóm B, từ giờ 
thứ 18 trở đi cao hơn ở nhóm R (Biểu đồ 2 và 3). 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
322 
Số bệnh nhân cần phải thêm morphine giải cứu thấp và tương đồng ở 2 nhóm nghiên cứu. Lượng 
morphine trung bình trong 24 giờ (chỉ tính cho các trường hợp cần morphine giải cứu) cũng không có sự khác 
biệt giữa 2 nhóm (Bảng 2) 
Biểu đồ 2. Mức độ đau theo thang điểm VAS lúc nghỉ 
Biểu đồ 3. Mức độ đau theo thang điểm VAS lúc vận động 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
323 
Bảng 2. Số bệnh nhân cần morphine giải cứu và lượng morphine 24 giờ đầu 
Chỉ số Nhóm R (n = 64) Nhóm B (n = 64) P 
Số BN cần morphine giải cứu* 4 (6,2) 2 (3,1) 0,72 
Lượng morphine 24 giờ đầu (mg)† 2,3 ± 0,5 2,5 ± 0,7 0,63 
* Số trường hợp (%); † trung bình ± độ lệch chuẩn 
Tác dụng phụ trên tim mạch, hô hấp 
Bảng 3. Tỉ lệ bệnh nhân bị mạch chậm và tụt huyết 
áp trong phẫu thuật 
Chỉ số Nhóm R* 
(n = 64) 
 Nhóm B* 
(n = 64) 
P 
Mạch chậm 1 (1,6) 2 (3,1) 1,00 
Tụt huyết áp 
Sau gây mê 
Trong mổ 
21 (32,8) 
21 (32,8) 
0 
27 (42,2) 
24 (37,5) 
3 (4,7) 
0,27 
Ephedrin thêm 0 2 (3,1) 0,50 
* Số trường hợp (%) 
Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê về mạch và huyết áp trung bình giữa 2 nhóm 
nghiên cứu tại các thời điểm trước, trong và sau gây 
tê, phẫu thuật (p > 0,05). Cũng không ghi nhận bất 
kỳ trường hợp nào bị suy hô hấp (tần số thở < 8 
lần/phút và SpO2 < 90%) ở cả 2 nhóm. 
Biến chứng và tác dụng phụ 
Bảng 4. Biến chứng và tác dụng phụ 
Chỉ số Nhóm R* 
(n = 64) 
Nhóm B* 
(n = 64) 
P 
Chạm mạch 2 (3,1) 0 
Hội chứng Horner 1 (1,6) 2 (3,1) 
Dị cảm cánh tay 1 (1,6) 2 (3,1) 
Lạnh run 4 (6,2) 4 (6,2) 1,00 
Nôn ói sau mổ 4 (6,2) 6 (9,4) 0,51 
* Số trường hợp (%) 
Không ghi nhận biến chứng nặng như tràn khí 
màng phổi, xuất huyết phổi hay ngộ độc thuốc tê xảy 
ra ở cả 2 nhóm. 
BÀN LUẬN 
So sánh hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận trung vị thời 
gian khởi phát tác dụng ở nhóm R là 10 phút, ngắn 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B là 15 phút. 
Đồng thời tại các thời điểm 5 phút, 10 phút và 15 
phút sau gây tê, tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác lạnh 
cũng nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B 
(Biểu đồ 1). 
Hura và cs (2006) cũng ghi nhận ropivacaine 
khởi phát tác dụng nhanh hơn, sau 5 phút có 53% 
bệnh nhân nhóm ropivacaine bị phong bế cảm giác 
rộng đủ cho phẫu thuật so với 20% ở nhóm 
bupivacaine (p < 0,01)[10]. Kết quả này xảy ra nhanh 
hơn trong nghiên cứu của chúng tôi có thể do tác giả 
chỉ đánh giá mất cảm giác từ N2 - N6, trong khi 
chúng tôi đánh giá từ N1 - N6. 
Abdallah và cs (2014) TCCS với ropivacaine 
0,5% ghi nhận trung vị thời gian mất cảm giác từ N2 
– N5 là 5 phút trong khi N1 là 10 phút[4]. Điều này 
cũng phù hợp với kết quả của chúng tôi. 
Thời gian khởi phát nhanh chưa được giải thích 
rõ ràng, Hura cho rằng sự phân bố của bupivacaine 
sau khi tiêm vào khoang cạnh sống có ít nhất 2 thì: 
thì đầu hấp thu vào mô mỡ thì còn lại thấm vào thần 
kinh. Đối với ropivacaine, thì thấm vào mô mỡ không 
đáng kể vì ropivacaine có tính tan trong mỡ thấp 
hơn bupivacaine. Sự chênh lệch trong việc hấp thu 
thuốc tê tại chỗ kết hợp với cấu trúc nghèo mạch 
máu của khoang cạnh cột sống dẫn đến thì thẩm 
thấu nhanh hơn của ropivacaine đến các dây thần 
kinh tủy sống[10]. 
Chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về tổng lượng sufentanil sử dụng 
trong mổ cũng như tỉ lệ bệnh nhân cần thêm 
sufentanil trong mổ. Kết quả này giống với nghiên 
cứu của Hura và Sahu: không ghi nhận sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về lượng thuốc fentanyl sử dụng 
trong mổ ở 2 nhóm[10, 14]. 
So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
điểm đau VAS khi nghỉ hay khi vận động tại bất kỳ 
thời điểm nào trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật giữa 
nhóm R và nhóm B với p > 0,05. Điểm VAS trung 
bình lúc nghỉ và lúc vận động ở các thời điểm ban 
đầu hơi cao hơn ở nhóm bupivacaine, nhưng từ giờ 
thứ 18 trở đi sau phẫu thuật điểm VAS trung bình lại 
hơi cao hơn ở nhóm ropivacaine (Biểu đồ 2 và 3). 
Điều này cho thấy bupivacaine có tác dụng kéo dài 
hơn, tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê. 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
324 
Sahu và cs (2016) ghi nhận VAS khá cao là do 
tác giả chỉ sử dụng thuốc tê với nồng độ thấp và thể 
tích thấp. Tác giả cũng ghi nhận có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về điểm đau VAS giữa 2 nhóm và kết 
luận bupivacaine cho điểm đau VAS tốt hơn ở thời 
điểm 1, 6 và 24 giờ sau phẫu thuật. Tác giả khuyến 
cáo sử dụng thuốc với nồng độ cao và thể tích cao 
để đạt được điểm VAS tốt hơn[14]. 
Hura và cs (2006) cho kết quả ngược với chúng 
tôi và Sahu, tác giả ghi nhận có 81% bệnh nhân 
nhóm R sau 24 giờ vẫn còn giảm đau đủ để phẫu 
thuật đoạn nhũ nạo hạch so với chỉ có 50% bệnh 
nhân ở nhóm B và sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05[10]. 
Giải thích điều này, Hura cho rằng có thể do sự 
thấm tốt hơn của ropivacaine đến dây thần kinh liên 
sườn. Ropivacaine được biết là có các đặc tính gây 
co mạch[12] và có thể gây thiếu máu tương đối cấu 
trúc khoang cạnh cột sống vì khoang này rất nghèo 
mạch máu. Điều này làm chậm việc đào thải. Ngoài 
ra, ropivacaine ít hòa tan trong lipid hơn 
bupivacaine, do đó, nó có thể thấm tốt hơn vào các 
sợi thần kinh và ở lại lâu hơn trong khoang cạnh 
sống. Các rễ thần kinh tủy sống thường được phân 
chia thành các rễ nhỏ hơn tại đây, chúng chỉ có vỏ 
bọc mỏng, và quan trọng hơn, hàm lượng collagen 
thấp so với các dây thần kinh ngoại biên. Đặc tính 
này của rễ thần kinh tủy sống có thể cho phép 
ropivacaine thấm nhanh hơn và sâu hơn, bão hòa 
tốt hơn, và tồn tại lâu hơn trên các sợi thần kinh so 
với bupivacaine[10]. 
So với các tác giả nghiên cứu TCCS sử dụng 
thuốc ropivacaine 0,5% hoặc bupivacaine 0,5% để 
đối chứng với gây mê toàn diện trong phẫu thuật 
ung thư vú, chúng tôi ghi nhận kết quả điểm đau 
VAS trung bình hoặc trung vị trong các nghiên cứu 
này đều tương tự như trong nghiên cứu của chúng 
tôi[2, 3, 6, 8, 11, 16]. 
Số bệnh nhân cần phải thêm morphine giải cứu 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp và tương đồng 
ở 2 nhóm nghiên cứu, 6,2% (4 bệnh nhân) cho 
nhóm R và 3,1% (2 bệnh nhân) cho nhóm B. Lượng 
morphine trung bình trong 24 giờ (chỉ tính cho các 
trường hợp cần morphine giải cứu) rất thấp, 2,3 ± 
0,5 mg cho nhóm R và 2,5 ± 0,7mg cho nhóm B, sự 
khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. 
Sahu và cs (2016) ghi nhận 6 trường hợp 
(17,1%) ở nhóm R và 5 trường hợp (14,3%) ở nhóm 
B cần phải thêm tramadol giải cứu[14]. Tỉ lệ này cao 
hơn nhóm chúng tôi vì tác giả sử dụng thuốc tê nồng 
độ thấp (0,375%) và thể tích thấp (0,25ml/kg). 
So sánh tác dụng phụ trên tim mạch và hô hấp 
Tụt huyết áp ngay sau gây mê tương đồng ở 2 
nhóm và chiếm tỉ lệ khá cao, tuy nhiên chỉ xảy ra 
thoáng qua sau gây mê và chỉ có 2 trường hợp 
(3,1%) ở nhóm B phải sử dụng ephedrine (6 mg cho 
mỗi trường hợp) (Bảng 3). Điều này được giải thích 
có thể là do tác dụng của propofol hoặc các thuốc sử 
dụng khi dẫn mê vì đa số các trường hợp chỉ xảy ra 
thoáng qua và sau khi điều chỉnh dịch truyền thì 3 - 5 
phút sau trở lại bình thường, chỉ có 3 trường hợp 
(4,7%) ở nhóm B tụt huyết áp xảy ra ở các giai đoạn 
khác trong mổ và 2/3 trường hợp này phải sử dụng 
thêm ephedrin (6mg). Điều này có thể được chứng 
minh là trong ít nhất 30 phút theo dõi sau TCCS, 
chúng tôi không ghi nhận bất cứ trường hợp nào tụt 
huyết áp ở cả 2 nhóm nghiên cứu. Kết quả này 
giống với nghiên cứu của Hura[10]. Sahu và Chalam 
ghi nhận tỉ lệ thấp hơn do sử dụng thuốc tê ở nồng 
độ thấp hơn và thể tích thấp[14, 7]. Chalam còn ghi 
nhận tụt huyết áp và mạch chậm ở nhóm 
bupivacaine cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm ropivacaine (với p < 0,05). 
Tỉ lệ mạch chậm của chúng tôi không có sự 
khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05) và thấp 
hơn so với nghiên cứu của Hura và Chalam có thể là 
do chúng tôi có sử dụng adrenaline 1/400.000 pha 
thêm trong thuốc tê nhằm giúp phát hiện sớm biến 
chứng tiêm nhầm thuốc tê vào mạch máu. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu cho thấy cả 2 thuốc đều tạo ra 
hiệu quả giảm đau tốt trong TCCS để phẫu thuật 
đoạn nhũ nạo hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có 
thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Hoàng Minh, Phạm Xuân Dũng, Đặng Huy 
Quốc Thịnh, Nguyễn Chấn Hùng (2014): 5 ung 
thư hàng đầu của thành phố Hồ Chí Minh. Tạp 
chí Ung thư học Việt Nam, 3, tr. 18-27. 
2. Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Định Phong, Đào 
Thị Bích Thủy, Trần Ngọc Mỹ, Nguyễn Vĕn 
Chinh (2015): Hiệu quả giảm đau của gây tê 
cạnh cột sống 3 điểm sau đoạn nhũ nạo hạch 
nách. Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 5, tr. 130-
134. 
3. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thị Thanh (2013): 
Hiệu quả tê cạnh cột sống đoạn ngực trong phẫu 
thuật ung thư vú. Y Học thành phố Hồ Chí Minh, 
17 (6), tr. 225-230. 
4. Abdallah F.W., Morgan P.J., Cil T., McNaught A., 
Escallon J.M., et al. (2014): Ultrasound-guided 
multilevel paravertebral blocks and total 
intravenous anesthesia improve the quality of 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
325 
recovery after ambulatory breast tumor 
resection. Anesthesiology, 120 (3), pp. 703-713. 
5. Abdullah S.T., Siny Tsang D.I.S., Rayan S.T., 
Megan S.N., Marcel E.D., et al. (2015): 
Improving Analgesic Efficacy and Safety of 
Thoracic Paravertebral Block for Breast Surgery: 
A Mixed-Effects Meta-Analysis. Pain Physician, 
18, pp. E757-E780. 
6. Boughey J.C., Goravanchi F., Parris R.N., Kee 
S.S., Kowalski A.M., et al. (2009): Prospective 
randomized trial of paravertebral block for 
patients undergoing breast cancer surgery. Am J 
Surg, 198 (5), pp. 720-725. 
7. Chalam K.S., Patnaik S.S., Sunil C., Bansal T. 
(2015): Comparative study of ultrasound-guided 
paravertebral block with ropivacaine versus 
bupivacaine for post-operative pain relief in 
children undergoing thoracotomy for patent 
ductus arteriosus ligation surgery. Indian J 
Anaesth, 59 (8), pp. 493-498. 
8. Das S., Bhattacharya P., Mandal M.C., 
Mukhopadhyay S., Basu S.R., et al. (2012): 
Multiple-injection thoracic paravertebral block as 
an alternative to general anaesthesia for elective 
breast surgeries: A randomised controlled trial. 
Indian J Anaesth, 56 (1), pp. 27-33. 
9. Fibla J.J., Molins L., Mier J.M., Sierra A., Vidal 
G. (2008): Comparative analysis of analgesic 
quality in the postoperative of thoracotomy: 
paravertebral block with bupivacaine 0.5% vs 
ropivacaine 0.2%. Eur J Cardiothorac Surg, 33 
(3), pp. 430-434. 
10. Hura G., Knapik P., Misiolek H., Krakus A., 
Karpe J. (2006): Sensory blockade after thoracic 
paravertebral injection of ropivacaine or 
bupivacaine. Eur J Anaesthesiol, 23 (8), pp. 658-
664. 
11. Kairaluoma P.M., Bachmann M.S., Korpinen 
A.K., Rosenberg P.H., Pere P.J. (2004): Single-
injection paravertebral block before general 
anesthesia enhances analgesia after breast 
cancer surgery with and without associated 
lymph node biopsy. Anesth Analg, 99 (6), pp. 
1837-1843. 
12. McClellan K.J., Faulds D. (2000): Ropivacaine. 
Drugs, 60 (5), pp. 1065-1093. 
13. Navlet M.G., Garutti I., Olmedilla L., Perez-Pena 
J.M., San Joaquin M.T., et al. (2006): 
Paravertebral ropivacaine, 0.3%, and 
bupivacaine, 0.25%, provide similar pain relief 
after thoracotomy. J Cardiothorac Vasc Anesth, 
20 (5), pp. 644-647. 
14. Sahu A., Kumar R., Hussain M., Gupta A., 
Raghwendra K.H. (2016): Comparisons of 
single-injection thoracic paravertebral block with 
ropivacaine and bupivacaine in breast cancer 
surgery: A prospective, randomized, double-
blinded study. Anesth Essays Res, 10 (3), pp. 
655-660. 
15. Scott D.B., Lee A., Fagan D., Bowler G.M., 
Bloomfield P., et al. (1989): Acute toxicity of 
ropivacaine compared with that of bupivacaine. 
Anesth Analg, 69 (5), pp. 563-569. 
16. Sidiropoulou T., Buonomo O., Fabbi E., Silvi 
M.B., Kostopanagiotou G., et al. (2008): A 
prospective comparison of continuous wound 
infiltration with ropivacaine versus single-
injection paravertebral block after modified 
radical mastectomy. Anesth Analg, 106 (3), pp. 
997-1001. 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_va_an_toan_cua_te_canh_cot_song_bang_ropivacaine_so.pdf