Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách
Đặt vấn đề: Tê cạnh cột sống (TCCS) tạo hiệu quả giảm đau tốt trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách (ĐNNHN). Có rất ít nghiên cứu so sánh hiệu quả của hai thuốc tê ropivacaine và bupivacaine trong kỹ thuật tê này. Mục tiêu: Xác định hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống tại 3 điểm ngực 1, ngực 3, ngực 5 bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật ĐNNHN. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 128 bệnh nhân nữ phẫu thuật ĐNNHN với TCCS phối hợp gây mê toàn diện được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm R được TCCS tại N1, N3, N5 với ropivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg tại mỗi mức tê. Nhóm B nhận bupivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg cho mỗi mức. Kết cục chính: thời gian khởi phát tác dụng, lượng sufentanil trong phẫu thuật, thang điểm đau VAS và lượng morphine trong 24 giờ hậu phẫu. Kết cục phụ: tỉ lệ bệnh nhân bị tụt huyết áp, mạch chậm, suy hô hấp. Kết quả: Thời gian khởi phát tác dụng của ropivacaine ngắn hơn có ý nghĩa so với bupivacaine (10 phút so với 15 phút, p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng sufentanil sử dụng trong phẫu thuật, thang điểm VAS và lượng morphine tiêu thụ 24 giờ hậu phẫu. Kết luận: Cả 2 thuốc đều tạo hiệu quả giảm đau tốt trong tê cạnh cột sống để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả và an toàn của tê cạnh cột sống bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 318 HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA TÊ CẠNH CỘT SỐNG BẰNG ROPIVACAINE SO VỚI BUPIVACAINE TRONG PHẪU THUẬT ĐOẠN NHŨ NẠO HẠCH NÁCH NGUYỄN ĐỊNH PHONG1, ĐÀO THỊ BÍCH THỦY1, NGUYỄN KIM LIÊM1, TRẦN NGỌC MỸ1, NGUYỄN THỊ THANH2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tê cạnh cột sống (TCCS) tạo hiệu quả giảm đau tốt trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách (ĐNNHN). Có rất ít nghiên cứu so sánh hiệu quả của hai thuốc tê ropivacaine và bupivacaine trong kỹ thuật tê này. Mục tiêu: Xác định hiệu quả và tính an toàn của tê cạnh cột sống tại 3 điểm ngực 1, ngực 3, ngực 5 bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật ĐNNHN. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 128 bệnh nhân nữ phẫu thuật ĐNNHN với TCCS phối hợp gây mê toàn diện được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm R được TCCS tại N1, N3, N5 với ropivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg tại mỗi mức tê. Nhóm B nhận bupivacaine 0,5% liều 0,1ml/kg cho mỗi mức. Kết cục chính: thời gian khởi phát tác dụng, lượng sufentanil trong phẫu thuật, thang điểm đau VAS và lượng morphine trong 24 giờ hậu phẫu. Kết cục phụ: tỉ lệ bệnh nhân bị tụt huyết áp, mạch chậm, suy hô hấp. Kết quả: Thời gian khởi phát tác dụng của ropivacaine ngắn hơn có ý nghĩa so với bupivacaine (10 phút so với 15 phút, p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng sufentanil sử dụng trong phẫu thuật, thang điểm VAS và lượng morphine tiêu thụ 24 giờ hậu phẫu. Kết luận: Cả 2 thuốc đều tạo hiệu quả giảm đau tốt trong tê cạnh cột sống để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine. Từ khóa: Bupivacaine, ropivacaine, đoạn nhũ nạo hạch nách, tê cạnh cột sống. ABSTRACT Efficacy and safety of paravertebral block with ropivacaine versus bupivacaine for mastectomy with axillary lymph node dissection Background: Paravertebral block (PVB) provides a good quality of analgesia for mastectomy with axillary lymph node dissection. There is paucity of study comparing the efficacy of ropivacaine with bupivacaine in this procedure. Objectives: To determine the efficacy and safety of PVB at T1, T3, T5 with ropivacaine versus bupivacaine for mastectomy with axillary lymph node dissection. Methods: 128 female patients undergoing mastectomy with axillary lymph node dissection in PVBs combined with general anesthesia were randomly divided into two groups. Group R received T1, T3, T5 PVBs with 0,1 ml/kg of 0.5% ropivacaine per level. Group B received T1, T3, T5 PVBs with 0,1 ml/kg of 0.5% bupivacaine per level. Primary outcomes: the onset time, the amount of intraoperative sufentanil, VAS pain scores and morphine consumption during 24 hours postoperatively. Secondary outcomes: rate of hypotension, bradycardia and respiratory failure. Results: Ropivacaine produced significantly shorter onset than bupivacaine (10 min versus 15 min, p <0.001). There was no significant difference in the amount of intraoperative sufentanil, VAS pain scores and morphine consumption during 24 hours postoperatively. 1 BS. Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 Đại học Y Phạm Ngọc Thạch VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 319 Conclusions: Both agents provided good analgesic effect in PVB for mastectomy with axillary lymph node dissection, but ropivacaine had more rapid onset than bupivacaine. Key words: Bupivacaine, ropivacaine, mastectomy with axillary lymph node dissection, paravertebral block. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới, ung thư vú là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ và đứng thứ hai khi xét chung cả hai giới. Tại Việt Nam, ung thư vú cũng đứng hàng đầu[1] và phẫu thuật thường là phương thức điều trị đầu tiên cho bệnh nhân[5]. Có nhiều phương thức giảm đau được sử dụng trong phẫu thuật ung thư vú, trong đó, kỹ thuật tê cạnh cột sống (TCCS) là một trong những phương pháp gây tê vùng đơn giản, hiệu quả và an toàn. Có nhiều thuốc được sử dụng trong TCCS, bupivacaine 0,5% và ropivacaine 0,5% thường được sử dụng nhất. Ropivacaine có ưu điểm là ít độc tính trên tim mạch và trên hệ thần kinh trung ương hơn bupivacaine đồng thời ít phong bế vận động hơn[12, 15]. Một số nghiên cứu so sánh ropivacaine với bupivacaine trong TCCS cho thấy hiệu quả giảm đau của hai thuốc là tương đương nhau[7, 9, 10,13]. Theo Hura, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine[10] và theo Chalam, ropivacaine ít có tác dụng phụ tụt huyết áp và mạch chậm hơn bupivacaine[7]. Tại Việt Nam, đã có một vài nghiên cứu về TCCS cho phẫu thuật ung thư vú và đều cho kết quả giảm đau tốt so với gây mê toàn diện đơn thuần[2],[4], tuy nhiên, các nghiên cứu này đều sử dụng thuốc tê bupivacaine, chưa có nghiên cứu nào sử dụng ropivacaine. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Hiệu quả và an toàn của TCCS bằng ropivacaine so với bupivacaine trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách” với câu hỏi: “Trong TCCS để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, ropivacaine có hiệu quả và an toàn như bupivacaine hay không?”. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân nữ được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách một bên; tuổi ≥ 18; 18,5 ≤ BMI < 30; ASA I hoặc II; không bị dị ứng hoặc có chống chỉ định với các thuốc sử dụng trong nghiên cứu; không có chống chỉ định của TCCS như: nhiễm trùng, rối loạn đông máu, dị dạng cột sống hay lồng ngực; đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ: không bị đau cấp hay mạn ngay trước thời điểm thực hiện kỹ thuật; có tai biến, biến chứng không liên quan đến vô cảm sau phẫu thuật; TCCS thất bại. Phương pháp nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng, mù đơn. Cỡ mẫu 128 trường hợp với 64 trường hợp cho mỗi nhóm, được tính dựa theo kết quả nghiên cứu của Sahu[14]. Các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu sẽ được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm bằng phương pháp phân nhóm ngẫu nhiên theo tổ ... n = 64) Nhóm B (n = 64) P Tuổi (nĕm)* 47,8 ± 8,8 47,7 ± 9,6 0,89 BMI (kg/m2)* 23,1 ± 2,6 22,4 ± 2,3 0,11 ASA† I II 40 (62,5) 24 (37,5) 41 (64,1) 23 (35,9) 0,86 Vị trí phẫu thuật† Phải Trái 28 (43,8) 36 (56,2) 25 (39,1) 39 (60,9) 0,59 Thời gian gây tê (phút) ‡ 10 (10 – 11) 10 (10 - 11) 0,45 Lượng thuốc tê (mg)* 85,4 ± 8,9 83,1 ± 8,8 0,92 Thời gian phẫu thuật (phút)* 54,2 ± 11,1 53,5 ± 13,3 0,75 * Trung bình ± độ lệch chuẩn; † số trường hợp (%); ‡ trung vị (khoảng tứ phân vị) Hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật Trung vị thời gian khởi phát tác dụng ở nhóm R là 10 phút, ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B là 15 phút. Đồng thời tại các thời điểm 5, 10 và 15 phút sau gây tê, tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác lạnh cũng nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B với p < 0,001 (Biểu đồ 1). Lượng sufentanil trung bình sử dụng trong mổ ở nhóm R là 10,6 ± 1,7mcg, nhóm B là 10,5 ± 1,6, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm nghiên cứu. Cũng không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ bệnh nhân cần thêm sufentanil trong mổ giữa 2 nhóm (6,2% ở nhóm R và 1,6% ở nhóm B). VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 321 0 23.4 75 100 100 100 100 1.6 18.8 65.6 98.4 0 5 10 15 20 25 30 % bệ nh nh ân Thời gian (phút) Nhóm R Nhóm B * p < 0,001 Biểu đồ 1. Tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác lạnh qua 30 phút gây tê Hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau lúc nghỉ và lúc vận động theo thang điểm VAS trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật (p > 0,05). VAS lúc nghỉ và vận động lúc đầu cao hơn ở nhóm B, từ giờ thứ 18 trở đi cao hơn ở nhóm R (Biểu đồ 2 và 3). VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 322 Số bệnh nhân cần phải thêm morphine giải cứu thấp và tương đồng ở 2 nhóm nghiên cứu. Lượng morphine trung bình trong 24 giờ (chỉ tính cho các trường hợp cần morphine giải cứu) cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (Bảng 2) Biểu đồ 2. Mức độ đau theo thang điểm VAS lúc nghỉ Biểu đồ 3. Mức độ đau theo thang điểm VAS lúc vận động VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 323 Bảng 2. Số bệnh nhân cần morphine giải cứu và lượng morphine 24 giờ đầu Chỉ số Nhóm R (n = 64) Nhóm B (n = 64) P Số BN cần morphine giải cứu* 4 (6,2) 2 (3,1) 0,72 Lượng morphine 24 giờ đầu (mg)† 2,3 ± 0,5 2,5 ± 0,7 0,63 * Số trường hợp (%); † trung bình ± độ lệch chuẩn Tác dụng phụ trên tim mạch, hô hấp Bảng 3. Tỉ lệ bệnh nhân bị mạch chậm và tụt huyết áp trong phẫu thuật Chỉ số Nhóm R* (n = 64) Nhóm B* (n = 64) P Mạch chậm 1 (1,6) 2 (3,1) 1,00 Tụt huyết áp Sau gây mê Trong mổ 21 (32,8) 21 (32,8) 0 27 (42,2) 24 (37,5) 3 (4,7) 0,27 Ephedrin thêm 0 2 (3,1) 0,50 * Số trường hợp (%) Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mạch và huyết áp trung bình giữa 2 nhóm nghiên cứu tại các thời điểm trước, trong và sau gây tê, phẫu thuật (p > 0,05). Cũng không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào bị suy hô hấp (tần số thở < 8 lần/phút và SpO2 < 90%) ở cả 2 nhóm. Biến chứng và tác dụng phụ Bảng 4. Biến chứng và tác dụng phụ Chỉ số Nhóm R* (n = 64) Nhóm B* (n = 64) P Chạm mạch 2 (3,1) 0 Hội chứng Horner 1 (1,6) 2 (3,1) Dị cảm cánh tay 1 (1,6) 2 (3,1) Lạnh run 4 (6,2) 4 (6,2) 1,00 Nôn ói sau mổ 4 (6,2) 6 (9,4) 0,51 * Số trường hợp (%) Không ghi nhận biến chứng nặng như tràn khí màng phổi, xuất huyết phổi hay ngộ độc thuốc tê xảy ra ở cả 2 nhóm. BÀN LUẬN So sánh hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận trung vị thời gian khởi phát tác dụng ở nhóm R là 10 phút, ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B là 15 phút. Đồng thời tại các thời điểm 5 phút, 10 phút và 15 phút sau gây tê, tỉ lệ bệnh nhân mất cảm giác lạnh cũng nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm B (Biểu đồ 1). Hura và cs (2006) cũng ghi nhận ropivacaine khởi phát tác dụng nhanh hơn, sau 5 phút có 53% bệnh nhân nhóm ropivacaine bị phong bế cảm giác rộng đủ cho phẫu thuật so với 20% ở nhóm bupivacaine (p < 0,01)[10]. Kết quả này xảy ra nhanh hơn trong nghiên cứu của chúng tôi có thể do tác giả chỉ đánh giá mất cảm giác từ N2 - N6, trong khi chúng tôi đánh giá từ N1 - N6. Abdallah và cs (2014) TCCS với ropivacaine 0,5% ghi nhận trung vị thời gian mất cảm giác từ N2 – N5 là 5 phút trong khi N1 là 10 phút[4]. Điều này cũng phù hợp với kết quả của chúng tôi. Thời gian khởi phát nhanh chưa được giải thích rõ ràng, Hura cho rằng sự phân bố của bupivacaine sau khi tiêm vào khoang cạnh sống có ít nhất 2 thì: thì đầu hấp thu vào mô mỡ thì còn lại thấm vào thần kinh. Đối với ropivacaine, thì thấm vào mô mỡ không đáng kể vì ropivacaine có tính tan trong mỡ thấp hơn bupivacaine. Sự chênh lệch trong việc hấp thu thuốc tê tại chỗ kết hợp với cấu trúc nghèo mạch máu của khoang cạnh cột sống dẫn đến thì thẩm thấu nhanh hơn của ropivacaine đến các dây thần kinh tủy sống[10]. Chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng lượng sufentanil sử dụng trong mổ cũng như tỉ lệ bệnh nhân cần thêm sufentanil trong mổ. Kết quả này giống với nghiên cứu của Hura và Sahu: không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng thuốc fentanyl sử dụng trong mổ ở 2 nhóm[10, 14]. So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm đau VAS khi nghỉ hay khi vận động tại bất kỳ thời điểm nào trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật giữa nhóm R và nhóm B với p > 0,05. Điểm VAS trung bình lúc nghỉ và lúc vận động ở các thời điểm ban đầu hơi cao hơn ở nhóm bupivacaine, nhưng từ giờ thứ 18 trở đi sau phẫu thuật điểm VAS trung bình lại hơi cao hơn ở nhóm ropivacaine (Biểu đồ 2 và 3). Điều này cho thấy bupivacaine có tác dụng kéo dài hơn, tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 324 Sahu và cs (2016) ghi nhận VAS khá cao là do tác giả chỉ sử dụng thuốc tê với nồng độ thấp và thể tích thấp. Tác giả cũng ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm đau VAS giữa 2 nhóm và kết luận bupivacaine cho điểm đau VAS tốt hơn ở thời điểm 1, 6 và 24 giờ sau phẫu thuật. Tác giả khuyến cáo sử dụng thuốc với nồng độ cao và thể tích cao để đạt được điểm VAS tốt hơn[14]. Hura và cs (2006) cho kết quả ngược với chúng tôi và Sahu, tác giả ghi nhận có 81% bệnh nhân nhóm R sau 24 giờ vẫn còn giảm đau đủ để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch so với chỉ có 50% bệnh nhân ở nhóm B và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05[10]. Giải thích điều này, Hura cho rằng có thể do sự thấm tốt hơn của ropivacaine đến dây thần kinh liên sườn. Ropivacaine được biết là có các đặc tính gây co mạch[12] và có thể gây thiếu máu tương đối cấu trúc khoang cạnh cột sống vì khoang này rất nghèo mạch máu. Điều này làm chậm việc đào thải. Ngoài ra, ropivacaine ít hòa tan trong lipid hơn bupivacaine, do đó, nó có thể thấm tốt hơn vào các sợi thần kinh và ở lại lâu hơn trong khoang cạnh sống. Các rễ thần kinh tủy sống thường được phân chia thành các rễ nhỏ hơn tại đây, chúng chỉ có vỏ bọc mỏng, và quan trọng hơn, hàm lượng collagen thấp so với các dây thần kinh ngoại biên. Đặc tính này của rễ thần kinh tủy sống có thể cho phép ropivacaine thấm nhanh hơn và sâu hơn, bão hòa tốt hơn, và tồn tại lâu hơn trên các sợi thần kinh so với bupivacaine[10]. So với các tác giả nghiên cứu TCCS sử dụng thuốc ropivacaine 0,5% hoặc bupivacaine 0,5% để đối chứng với gây mê toàn diện trong phẫu thuật ung thư vú, chúng tôi ghi nhận kết quả điểm đau VAS trung bình hoặc trung vị trong các nghiên cứu này đều tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi[2, 3, 6, 8, 11, 16]. Số bệnh nhân cần phải thêm morphine giải cứu trong nghiên cứu của chúng tôi thấp và tương đồng ở 2 nhóm nghiên cứu, 6,2% (4 bệnh nhân) cho nhóm R và 3,1% (2 bệnh nhân) cho nhóm B. Lượng morphine trung bình trong 24 giờ (chỉ tính cho các trường hợp cần morphine giải cứu) rất thấp, 2,3 ± 0,5 mg cho nhóm R và 2,5 ± 0,7mg cho nhóm B, sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Sahu và cs (2016) ghi nhận 6 trường hợp (17,1%) ở nhóm R và 5 trường hợp (14,3%) ở nhóm B cần phải thêm tramadol giải cứu[14]. Tỉ lệ này cao hơn nhóm chúng tôi vì tác giả sử dụng thuốc tê nồng độ thấp (0,375%) và thể tích thấp (0,25ml/kg). So sánh tác dụng phụ trên tim mạch và hô hấp Tụt huyết áp ngay sau gây mê tương đồng ở 2 nhóm và chiếm tỉ lệ khá cao, tuy nhiên chỉ xảy ra thoáng qua sau gây mê và chỉ có 2 trường hợp (3,1%) ở nhóm B phải sử dụng ephedrine (6 mg cho mỗi trường hợp) (Bảng 3). Điều này được giải thích có thể là do tác dụng của propofol hoặc các thuốc sử dụng khi dẫn mê vì đa số các trường hợp chỉ xảy ra thoáng qua và sau khi điều chỉnh dịch truyền thì 3 - 5 phút sau trở lại bình thường, chỉ có 3 trường hợp (4,7%) ở nhóm B tụt huyết áp xảy ra ở các giai đoạn khác trong mổ và 2/3 trường hợp này phải sử dụng thêm ephedrin (6mg). Điều này có thể được chứng minh là trong ít nhất 30 phút theo dõi sau TCCS, chúng tôi không ghi nhận bất cứ trường hợp nào tụt huyết áp ở cả 2 nhóm nghiên cứu. Kết quả này giống với nghiên cứu của Hura[10]. Sahu và Chalam ghi nhận tỉ lệ thấp hơn do sử dụng thuốc tê ở nồng độ thấp hơn và thể tích thấp[14, 7]. Chalam còn ghi nhận tụt huyết áp và mạch chậm ở nhóm bupivacaine cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm ropivacaine (với p < 0,05). Tỉ lệ mạch chậm của chúng tôi không có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05) và thấp hơn so với nghiên cứu của Hura và Chalam có thể là do chúng tôi có sử dụng adrenaline 1/400.000 pha thêm trong thuốc tê nhằm giúp phát hiện sớm biến chứng tiêm nhầm thuốc tê vào mạch máu. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu cho thấy cả 2 thuốc đều tạo ra hiệu quả giảm đau tốt trong TCCS để phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, tuy nhiên, ropivacaine có thời gian khởi phát tác dụng nhanh hơn bupivacaine. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Hoàng Minh, Phạm Xuân Dũng, Đặng Huy Quốc Thịnh, Nguyễn Chấn Hùng (2014): 5 ung thư hàng đầu của thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 3, tr. 18-27. 2. Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Định Phong, Đào Thị Bích Thủy, Trần Ngọc Mỹ, Nguyễn Vĕn Chinh (2015): Hiệu quả giảm đau của gây tê cạnh cột sống 3 điểm sau đoạn nhũ nạo hạch nách. Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 5, tr. 130- 134. 3. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thị Thanh (2013): Hiệu quả tê cạnh cột sống đoạn ngực trong phẫu thuật ung thư vú. Y Học thành phố Hồ Chí Minh, 17 (6), tr. 225-230. 4. Abdallah F.W., Morgan P.J., Cil T., McNaught A., Escallon J.M., et al. (2014): Ultrasound-guided multilevel paravertebral blocks and total intravenous anesthesia improve the quality of VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 325 recovery after ambulatory breast tumor resection. Anesthesiology, 120 (3), pp. 703-713. 5. Abdullah S.T., Siny Tsang D.I.S., Rayan S.T., Megan S.N., Marcel E.D., et al. (2015): Improving Analgesic Efficacy and Safety of Thoracic Paravertebral Block for Breast Surgery: A Mixed-Effects Meta-Analysis. Pain Physician, 18, pp. E757-E780. 6. Boughey J.C., Goravanchi F., Parris R.N., Kee S.S., Kowalski A.M., et al. (2009): Prospective randomized trial of paravertebral block for patients undergoing breast cancer surgery. Am J Surg, 198 (5), pp. 720-725. 7. Chalam K.S., Patnaik S.S., Sunil C., Bansal T. (2015): Comparative study of ultrasound-guided paravertebral block with ropivacaine versus bupivacaine for post-operative pain relief in children undergoing thoracotomy for patent ductus arteriosus ligation surgery. Indian J Anaesth, 59 (8), pp. 493-498. 8. Das S., Bhattacharya P., Mandal M.C., Mukhopadhyay S., Basu S.R., et al. (2012): Multiple-injection thoracic paravertebral block as an alternative to general anaesthesia for elective breast surgeries: A randomised controlled trial. Indian J Anaesth, 56 (1), pp. 27-33. 9. Fibla J.J., Molins L., Mier J.M., Sierra A., Vidal G. (2008): Comparative analysis of analgesic quality in the postoperative of thoracotomy: paravertebral block with bupivacaine 0.5% vs ropivacaine 0.2%. Eur J Cardiothorac Surg, 33 (3), pp. 430-434. 10. Hura G., Knapik P., Misiolek H., Krakus A., Karpe J. (2006): Sensory blockade after thoracic paravertebral injection of ropivacaine or bupivacaine. Eur J Anaesthesiol, 23 (8), pp. 658- 664. 11. Kairaluoma P.M., Bachmann M.S., Korpinen A.K., Rosenberg P.H., Pere P.J. (2004): Single- injection paravertebral block before general anesthesia enhances analgesia after breast cancer surgery with and without associated lymph node biopsy. Anesth Analg, 99 (6), pp. 1837-1843. 12. McClellan K.J., Faulds D. (2000): Ropivacaine. Drugs, 60 (5), pp. 1065-1093. 13. Navlet M.G., Garutti I., Olmedilla L., Perez-Pena J.M., San Joaquin M.T., et al. (2006): Paravertebral ropivacaine, 0.3%, and bupivacaine, 0.25%, provide similar pain relief after thoracotomy. J Cardiothorac Vasc Anesth, 20 (5), pp. 644-647. 14. Sahu A., Kumar R., Hussain M., Gupta A., Raghwendra K.H. (2016): Comparisons of single-injection thoracic paravertebral block with ropivacaine and bupivacaine in breast cancer surgery: A prospective, randomized, double- blinded study. Anesth Essays Res, 10 (3), pp. 655-660. 15. Scott D.B., Lee A., Fagan D., Bowler G.M., Bloomfield P., et al. (1989): Acute toxicity of ropivacaine compared with that of bupivacaine. Anesth Analg, 69 (5), pp. 563-569. 16. Sidiropoulou T., Buonomo O., Fabbi E., Silvi M.B., Kostopanagiotou G., et al. (2008): A prospective comparison of continuous wound infiltration with ropivacaine versus single- injection paravertebral block after modified radical mastectomy. Anesth Analg, 106 (3), pp. 997-1001.
File đính kèm:
- hieu_qua_va_an_toan_cua_te_canh_cot_song_bang_ropivacaine_so.pdf