Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long

Nghiên cứu đã thực hiện 2 nghiệm thức (NT) ương cá tra từ giai đoạn bột lên hương với thời gian

ương 21 ngày, mỗi NT thực hiện 6 ao, mỗi ao có diện tích từ 3.500 đến 3.700 m2, địa điểm tại huyện

Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Mật độ thả bột 750 con/m2 và tất cả các yếu tố kỹ thuật ương của 2 NT

đều như nhau, chỉ khác nhau ở NT 1 có cung cấp thổi khí và NT 2 thì không. Hệ thống thổi khí được

thiết kế với lượng khí thổi ra từ các đĩa hình tròn, hoạt động qua máy thổi khí và khoảng cách lắp

đặt được tính toán nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng. Kết quả ghi nhận lượng Moina sp. trong ao giai

đoạn 12 ngày đầu ở NT 1 cao hơn ở NT 2, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); và lượng Moina

sp. ở cả hai NT đạt cao nhất ở ngày 3 và giảm dần đến ngày 12. Tăng trưởng chiều dài của cá NT

1 có kết quả tốt hơn NT 2, cá bột khi mới thả có chiều dài trung bình từ 5,85 đến 6,30 mm, sau 21

ngày, chiều dài cá đạt 27,7 mm (NT 2) và 37,0 mm (NT 1), sai khác có ý nghĩa thống kê p<0,05.

Các yếu tố thủy lý hóa như nhiệt độ nước, pH, độ kiềm, NH3-N, NO2-N, NO3-N và COD của nước

ao ở 2 NT đều nằm trong giới hạn thích hợp cho sự phát triển của cá; riêng hàm lượng oxy hòa tan

(DO) sáng ở NT 2 thấp hơn NT 1 và thấp hơn ngưỡng thích hợp cho cá phát triển, DO sáng ở NT 2

dao động từ 2,95 đến 4,80 mg/l, ở NT 1 dao động từ 4,6 đến 6,25 mg/l, sai khác có ý nghĩa thống

kê (p<0,05), trừ các ngày ương thứ 5, 6 và 16. Cá nuôi ở NT 1 có tần suất và tỷ lệ nhiễm trùng bánh

xe (Trichodina sp.) và tần suất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla thấp hơn cá nuôi ở NT 2, sai khác có

ý nghĩa thống kê (p<0,05); cường độ nhiễm Trichodina sp. của cá ở NT 1 ở mức (+), trong khi ở

NT 2 nhiễm cả hai mức (+) và (++). Tỷ lệ sống trung bình của cá ở NT 1 (37,17%) cao hơn NT 2

(22,82%), sai khác có ý nghĩa thống kê p <0,05 và chỉ số FCR dao động từ 0,36 đến 0,39.

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang minhkhanh 6400
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long

Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long
98 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG HỆ THỐNG THỔI KHÍ 
TRONG ƯƠNG CÁ TRA TỪ BỘT LÊN HƯƠNG Ở ĐỒNG BẰNG 
SÔNG CỬU LONG
Đinh Thị Thủy1*, Nguyễn Thành Nhân1, Đoàn Văn Cường1, Nguyễn Diễm Thư1
TÓM TẮT 
Nghiên cứu đã thực hiện 2 nghiệm thức (NT) ương cá tra từ giai đoạn bột lên hương với thời gian 
ương 21 ngày, mỗi NT thực hiện 6 ao, mỗi ao có diện tích từ 3.500 đến 3.700 m2, địa điểm tại huyện 
Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Mật độ thả bột 750 con/m2 và tất cả các yếu tố kỹ thuật ương của 2 NT 
đều như nhau, chỉ khác nhau ở NT 1 có cung cấp thổi khí và NT 2 thì không. Hệ thống thổi khí được 
thiết kế với lượng khí thổi ra từ các đĩa hình tròn, hoạt động qua máy thổi khí và khoảng cách lắp 
đặt được tính toán nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng. Kết quả ghi nhận lượng Moina sp. trong ao giai 
đoạn 12 ngày đầu ở NT 1 cao hơn ở NT 2, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); và lượng Moina 
sp. ở cả hai NT đạt cao nhất ở ngày 3 và giảm dần đến ngày 12. Tăng trưởng chiều dài của cá NT 
1 có kết quả tốt hơn NT 2, cá bột khi mới thả có chiều dài trung bình từ 5,85 đến 6,30 mm, sau 21 
ngày, chiều dài cá đạt 27,7 mm (NT 2) và 37,0 mm (NT 1), sai khác có ý nghĩa thống kê p<0,05. 
Các yếu tố thủy lý hóa như nhiệt độ nước, pH, độ kiềm, NH3-N, NO2-N, NO3-N và COD của nước 
ao ở 2 NT đều nằm trong giới hạn thích hợp cho sự phát triển của cá; riêng hàm lượng oxy hòa tan 
(DO) sáng ở NT 2 thấp hơn NT 1 và thấp hơn ngưỡng thích hợp cho cá phát triển, DO sáng ở NT 2 
dao động từ 2,95 đến 4,80 mg/l, ở NT 1 dao động từ 4,6 đến 6,25 mg/l, sai khác có ý nghĩa thống 
kê (p<0,05), trừ các ngày ương thứ 5, 6 và 16. Cá nuôi ở NT 1 có tần suất và tỷ lệ nhiễm trùng bánh 
xe (Trichodina sp.) và tần suất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla thấp hơn cá nuôi ở NT 2, sai khác có 
ý nghĩa thống kê (p<0,05); cường độ nhiễm Trichodina sp. của cá ở NT 1 ở mức (+), trong khi ở 
NT 2 nhiễm cả hai mức (+) và (++). Tỷ lệ sống trung bình của cá ở NT 1 (37,17%) cao hơn NT 2 
(22,82%), sai khác có ý nghĩa thống kê p <0,05 và chỉ số FCR dao động từ 0,36 đến 0,39. 
Từ khóa: ương cá tra, hệ thống thổi khí.
1. Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường & Bệnh Thủy Sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 
* Email: thuydinh6898@gmail.com
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm gần đây, cá tra là một 
trong những đối tượng nước ngọt được nuôi chủ 
lực ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, 
nhu cầu cung cấp cá tra giống đảm bảo đủ về số 
lượng và có chất lượng tốt được đặt lên hàng đầu. 
Thực tế cho thấy với tình hình ương cá tra giống 
hiện nay ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn 
nhiều bất cập, cá giống có tỷ lệ sống thấp, dịch 
bệnh xảy ra thường xuyên, chất lượng con giống 
không đảm bảo để đáp ứng tốt cho nhu cầu thực 
tế sản xuất trong nuôi cá tra thương phẩm. Theo 
Xuân và ctv., (1994), một trong những lý do 
cá ương có tỷ lệ sống thấp và chất lượng con 
giống không đảm bảo là môi trường nuôi chưa 
đáp ứng đúng cho sự sinh trưởng của cá, hàm 
lượng oxy hòa tan không đảm bảo và các yếu tố 
môi trường khác như NH3, NO2, pH, v.v... biến 
thiên lớn. Tỷ lệ sống và sự sinh trưởng của cá 
còn bị ảnh hưởng bởi chế độ dinh dưỡng. Đi đôi 
với vấn đề dinh dưỡng, ảnh hưởng của mật độ 
thả đến tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá 
trong quá trình ương nuôi cá giống cũng không 
kém phần quan trọng. Các nghiên cứu trước đã 
99TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
chứng minh rằng mật độ thả có liên quan đến 
tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá (Sahoo 
và ctv., 2004; Rahman và ctv., 2005, Schram và 
ctv., 2006). 
Trước tình hình đó, đề tài „Nghiên cứu các 
giải pháp kỹ thuật nâng cao tỷ lệ sống và chất 
lượng cá tra từ bột lên giống ở Đồng bằng sông 
Cửu Long” được hình thành và đã được thực 
hiện từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2015. 
Dựa vào đặc tính sinh học, nhu cầu và sự 
phát triển khác nhau của cá theo từng lứa tuổi, 
quá trình ương cá tra từ bột lên giống được phân 
làm hai giai đoạn, giai đoạn ương từ bột lên 
hương và từ hương lên giống. Đối với giai đoạn 
ương từ bột lên hương 21 ngày tuổi, việc cải tiến 
các yếu tố kỹ thuật đã được nghiên cứu và thực 
hiện với mục đích nhằm nâng cao tỷ lệ sống và 
chất lượng cá hương để phục vụ tốt cho giai 
đoạn ương tiếp theo từ hương lên giống. Các cải 
tiến kỹ thuật đã được nghiên cứu và áp dụng từ 
quy mô thực nghiệm đến quy mô sản xuất gồm 
các yếu tố kỹ thuật về dinh dưỡng, môi trường 
và giám sát bệnh, v.v... nhằm giải quyết các vấn 
đề ô nhiễm hữu cơ, tạo môi trường nước tốt, 
nâng cao sức tăng trưởng, tăng cường sức đề 
kháng và khả năng phòng bệnh cho cá. Sử dụng 
hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ giai đoạn 
bột lên hương là một trong những cải tiến được 
thực hiện trong đề tài này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Vật liệu nghiên cứu là cá tra (Pangasianodon 
hypophthalmus) giai đoạn bột lên hương, với cỡ 
cá tra bột từ 1.000 đến 1.050 con/ml.
2.2. Phương pháp nghiên cứu và bố trí 
thí nghiệm
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 5 đến 
tháng 6 năm 2014 với 2 nghiệm thức, ng-
hiệm thức 1 có cung cấp thổi khí và nghiệm 
thức 2 không cung cấp thổi khí. Mỗi nghiệm 
thức bố trí 6 ao; mỗi ao có diện tích từ 3.500 
đến 3.700m2. Mật độ thả là 750 con/m2, được 
thực hiện tại xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai 
Lậy, tỉnh Tiền Giang. Nguồn giống và các 
điều kiện ương nuôi khác của 2 nghiệm thức 
là như nhau. 
2.2.2. Kỹ thuật sàng lọc cá bột
Đánh giá cảm quan ngoại hình qua hoạt 
động bơi lội đều xung quanh ao, không tụ tập 
dưới đáy ao; có tỷ lệ dị hình thấp, có kích cỡ 
đồng đều.
2.2.3. Hệ thống thổi khí và kỹ thuật 
thổi khí 
Hệ thống thổi khí được sử dụng bằng máy 
thổi khí, hoạt động bằng điện. Các đĩa cung 
cấp khí hình tròn, có đường kính 27 cm; hệ 
thống được nối từ đầu ra của máy đến các đĩa 
khí bằng ống nhựa ... n 93,0%. Kết quả trong nghiên cứu 
này đã chỉ ra lượng Moina sp. trong ao tăng cao 
ở ngày thứ 3 và giảm dần đến hết ngày 12 và 
lượng Moina sp. này cao ở nghiệm thức có thổi 
khí so với nghiệm thức không thổi khí, sai khác 
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), trừ các ngày thứ 
1, 4, 5 và 12. Như vậy, việc cung cấp hệ thống 
thổi khí đã góp phần trong việc tăng sinh khối 
Moina sp. trong ao; và thực tế cho thấy rằng, 
với hệ thống thổi khí hoạt động 24 giờ ở ngày 
ương 1, 2; hoạt động 6 giờ/ngày từ 4 đến 10 
giờ sáng ở ngày ương thứ 3 trở đi và hoạt động 
khi điều kiện thời tiết bất lợi đã góp phần trong 
việc cung cấp thêm oxy hòa tan cho sự hô hấp 
của cá tra bột và Moina sp.; mặt khác còn giúp 
khoáng hóa môi trường nước ao nhằm tăng hiệu 
quả khi sử dụng các sản phẩm như chất xử lý 
diệt khuẩn, các chế phẩm vi sinh, v.v...
Kết quả của nghiên cứu đã chứng minh có 
sự khác nhau giữa hàm lượng oxy hòa tan (DO) 
của nước ao vào buổi sáng ở 2 nghiệm thức 
có và không có thổi khí; đối với nghiệm thức 
không thổi khí thì DO sáng rơi xuống ở mức 
nhỏ hơn 3 mg/l trong nhiều ngày; còn đối với 
nhóm có thổi khí, giá trị DO luôn cao hơn 4mg/l 
và dao động từ 4,5 đến 6,5 mg/l. Trong quá trình 
ương cá tra, một trong những vấn đề đáng lo 
ngại là lượng oxy hòa tan trong nước ao thấp 
107TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
vào buổi sáng (khoảng từ 4-6 giờ), điều này là 
do ảnh hưởng của quá trình quang hợp và quá 
trình hô hấp nên lượng oxy hòa tan trong nước 
ao thường cao nhất vào cuối buổi chiều và thấp 
nhất sau nửa đêm lúc đầu giờ của buổi sáng. 
Với chỉ số DO từ 1,4 đến 5,0 mg/l thì cá tồn tại, 
nhưng giảm ăn, tăng trưởng chậm và dễ nhạy 
cảm với bệnh tật. Với DO ở mức từ 4 mg/l đến 
độ bảo hòa thì là mức thích hợp cho ấu trùng, 
cá con và cá giống của cá da trơn. Vì vậy, giá 
trị DO sáng ở nhóm không cung cấp thổi khí ở 
mức nhỏ hơn 3 mg/l và kéo dài trong nhiều ngày 
đã gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển 
và tình trạng sức khỏe cá nuôi. Thật vậy, diễn 
biến tăng trưởng về chiều dài cá đã thể hiện sự 
chênh lệch giữa 2 nghiệm thức có và không có 
thổi khí; chiều dài cá sau khi thả 1 tuần đến ngày 
thứ 21 ở nghiệm thức có thổi khí luôn lớn hơn ở 
nghiệm thức không thổi khí, sai khác có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
Khi ao ương được trang bị hệ thống thổi 
khí, hoạt động của hệ thống này ngoài việc 
cung cấp lượng oxy hòa tan trong ao, làm 
khoáng hóa và giúp phân tán đều khi sử dụng 
các chế phẩm xử lý ao nuôi hoặc chế phẩm 
vi sinh, v.v... chúng còn trực tiếp hoặc gián 
tiếp giúp giảm thiểu bệnh tật xảy ra. Kết quả 
nghiên cứu này đã cho thấy tần suất nhiễm 
và tỷ lệ nhiễm trùng bánh xe (Trichodina sp.) 
và tần xuất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla ở 
nghiệm thức có thổi khí thấp hơn ở nghiệm 
thức không thổi khí (sai khác có ý nghĩa thống 
kê p < 0,05). Cường độ nhiễm trùng bánh xe 
(Trichodina sp.) ở nghiệm thức có thổi khí ở 
mức (+), trong khi ở nghiệm thức không thổi 
khí có hai mức (+) và (++), theo Bùi Quang 
Tề (2008) thì cường độ nhiễm Trichodina sp. 
từ 20 đến 30 trùng/ thị trường (tương ứng mức 
++) với độ phóng đại 10 X đã gây nguy hiểm 
cho cá.
Một điều khá quan trọng khi nói đến sự 
thành công của vụ nuôi là kết quả tỷ lệ sống, tỷ 
lệ sống của cá ở 2 nghiệm thức có và không có 
thổi khí đều lớn hơn 22,0%, kết quả này đã đánh 
dấu sự thành công bước đầu của nghiên cứu này; 
thực tế hiện tại ở một số nông hộ tại Đồng Tháp 
nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long 
nói chung khi ương với mật độ thả bột cùng với 
mật độ thả bột trong nghiên cứu này (750 con/
m2), kết quả chỉ đạt tỷ lệ sống trung bình nhỏ 
hơn 15,0 %. Khi so sánh tỷ lệ sống của cá ở 
nghiệm thức có và không có thổi khí thì tỷ lệ 
sống của cá ở nghiệm thức có thổi khí (37,17% 
± 5,89) lớn hơn ở nghiệm thức không thổi khí 
(22,82% ± 3,70), sai khác có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05) cùng với hệ số chuyển hóa thức ăn 
(FCR) của 2 nghiệm thức là 0,36 (± 0,04) và 
0,39 (± 0,07). Yang và Lin (2001) đã đạt được 
tỷ lệ sống tốt và tăng cao về sản lượng của cá rô 
phi nuôi bè ở nghiệm thức có cung cấp thổi khí 
so với nghiệm thức không cung cấp thổi khí, sai 
khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05. Trong nghiên 
cứu này, rõ ràng rằng, việc cung cấp thổi khí đã 
có nhiều tác động tốt đến đời sống của cá và môi 
trường nước của ao ương. Có thể cho rằng, việc 
làm này là không mới và thực tế các nông hộ 
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang 
áp dụng, tuy nhiên, không phải tất cả đều thành 
công. Trong nghiên cứu này, một vài điểm quan 
trọng mà chúng tôi đã thực hiện là sự tính toán 
khi thiết kế lắp đặt hệ thống thổi khí. Hệ thống 
thổi khí được thiết kế giúp lượng khí thổi ra từ 
các đĩa khí xoay tròn và được đặt cách đáy từ 20 
đến 30 cm đã giúp phân phối đều lượng khí từ 
dưới lên trên. Với cách thiết kế có sự tính toán 
khoảng cách khí tỏa ra với bán kính 2 m, đều 
nhau đã giúp lượng khí được cung cấp đến mọi 
hướng trong ao. Bên cạnh đó, thổi khí theo đúng 
kế hoạch và linh hoạt thổi khí khi gặp sự cố bất 
thường khi điều kiện thời tiết xấu, v.v... đã được 
thực hiện nghiêm túc, cũng đã góp phần làm ổn 
định lượng khí trong ao ở mọi thời điểm, hạn 
chế cá bị sốc khi gặp sự thay đổi đột ngột do các 
108 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
điều kiện ngoại cảnh. Việc tính toán thời gian và 
thời điểm thổi khí để đáp ứng đúng và đủ nhu 
cầu cần thiết cho cá mà không làm ảnh hưởng 
đến hiệu quả kinh tế cũng được đặt lên hàng 
đầu. Điều quan trọng sau cùng là sự kết hợp hài 
hòa và hợp lý của nhiều yếu tố kỹ thuật đã được 
cải tiến, trong đó có kỹ thuật cung cấp hệ thống 
thổi khí, cùng với việc giám sát diễn biến các 
yếu tố thủy lý hóa môi trường nước ao và giám 
sát tình trạng sức khỏe cá nuôi nhằm có biện 
pháp can thiệp hợp lý và kịp thời. Tất cả những 
việc trên đã giúp chúng tôi gặt hái được những 
kết quả nhất định. 
V. KẾT LUẬN 
Khi ương cá tra với mật độ 750 con/m2 từ 
giai đoạn bột lên hương (21 ngày), việc cung 
cấp thổi khí đã có những đóng góp trong việc 
tăng sinh khối Moina sp. trong ao giai đoạn 12 
ngày đầu. Lượng Moina sp. trong ao ở nghiệm 
thức có thổi khí luôn cao hơn ở nghiệm thức 
không thổi khí và sai khác có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05), trừ các ngày thứ 1, 4, 5 và 12. 
Với hoạt động của hệ thống thổi khí 24 
giờ ở ngày ương 1 và 2; 6 giờ (từ 4 đến 10 giờ 
sáng) từ ngày ương thứ 3 trở đi và thổi khí khi 
gặp điều kiện thời tiết xấu đã giúp hàm lượng 
oxy hòa tan (DO) trong nước ao nuôi duy trì ở 
mức ổn định (dao động ở mức > 4 mg/l đến 7 
mg/l).
Chiều dài cá sau khi thả 1 tuần đến ngày 
thứ 21 ở NT có thổi khí luôn cao hơn NT 
không thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05).
Tần suất và tỷ lệ nhiễm trùng bánh xe 
(Trichodina sp.) và tần suất nhiễm vi khuẩn A. 
hydrophyla ở nghiệm thức có thổi khí luôn thấp 
hơn ở nghiệm thức không thổi khí, sai khác có ý 
nghĩa thống kê p < 0,05. Cường độ nhiễm trùng 
bánh xe (Trichodina sp.) ở nghiệm thức có thổi 
khí là (+), ở nghiệm thức không thổi khí có hai 
mức (+) và (++).
Tỷ lệ sống trung bình của cá ở nghiệm thức 
có thổi khí (37,17 %) cao hơn ở nghiệm thức 
không thổi khí (22,82 %), sai khác có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05) với hệ số chuyển hóa thức 
ăn (FCR) của 2 nghiệm thức là 0,36 và 0,39.
109TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt
Phạm Quốc Nguyên, Lê Hồng Y, Nguyễn Văn Công 
và Trương Quốc Phú, 2014. Diễn biến một số 
chỉ tiêu chất lượng nước trong ao nuôi cá tra 
(Pangasianodon hypopthalmus) thâm canh. Tạp 
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
Trương Quốc Phú, 2000. Giáo trình phân tích chất 
lượng nước và quản lý môi trường ao nuôi. 39 
trang.
Trương Quốc Phú và Vũ Ngọc Út, 2006. Bài giảng 
Quản lý chất lượng nước. Khoa Thủy sản, Trường 
Đại học Cần Thơ.
Bùi Quang Tề, 2008. Bệnh truyền nhiễm của động vật 
thủy sản. p. 122-128.
Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994. Kỹ thuật 
nuôi cá nước ngọt. Sở Khoa học Công nghệ Môi 
trường An Giang. 266 trang.
Dương Thúy Yên, 2003. Khảo sát một số tính trạng, 
hình thái, sinh trưởng và sinh lý của cá basa 
(P.bocourti), cá tra (P.hypophthalmus) và con lai 
của chúng. Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. 
Trường Đại học Cần Thơ.
Tài liệu tiếng Anh 
Boyd, C. E., 1998. Water quality for pond aquaculture. 
Resarch and development series. No.43. 
International center for aquaculture and aquatic 
environtments Alabama quaculture experient 
station Auburn University.
Boyd, C. E., and Tucker, C. S., 1992. Water Quality 
and Pond Soil Analyses for Aquaculture. Alabama 
Agricultural Experiment Station, Auburn 
University, Alabama, 183 pp
Clescerl, L. S., Greenberg, A. E., Eaton, A. D., 2005. 
Standard Methods for Examination of Water & 
Waste water 21st ed. American Public Health 
Association
 Fermin, A. C., and Bolivar, M. E. C., 1991. Larval 
rearing of the Philippine freshwater catfish, 
Clarias macrocephalus (Gunther) fed live 
zooplankton and artificial diet : A preliminary 
study. lsr. }. Aquaculture/Bamidgeh, 43 (3): 87-94.
Hung, L.T., Tuan, N.A., Cacot, P., Lazard, J., 2002. 
Larval rearing of the Asian Catfish, Pangasius 
bocourti (Siluroidei, Pangasiidae): alternative 
feeds and weaning time. Aquaculture;212:115–127
 John, D.,1994. Civic nvironmentalism: alternatives 
toregulation in states and communities. 
Washington, DC: CQ Press. 134p.
Johnson, R. A., Seymour, R. L., Padgett, D. E., 2002. 
Biology and the systematic of the Saprolegniaceae. 
Available at: 
oomycete/ taxonomy and systematics/padgett 
book/ (Accessed July 21, 2010)
Sahoo, S. K., Giri. S.S., and Sahu, A.K., 2004. Effect 
of stocking density on growth and survival of 
Clarias batrachus (Linn,) larvae and fry during 
hatchery rearing, Journal of Applied Ichthyology 
20: 302-305
Schell, S.C., 1985. Trematodes of North 
America,University of Idaho Press, Moscow, 263 
pp.
Swingle, H.S., 1969. Methods of Analysis for waters, 
organic matter and Pond Bottom Soils Used in 
Fisheries Research. Auburn Univ. Auburn, Ala, 
119pp.
Schram, E, Van der Heul J. W., Kamstra, A., and 
Verdegem, M.C. J., 2006. Stocking density 
dependent growth of dover (Solea solea), 
Aquaculture 252: 239-247
Rahman, M. A., Mazid, M.A., Rahman, M.R., Khan, 
M.N., Hossain, M.A., and Hussain, M.G., 2005. 
Effect of stocking density on survival and growth 
of critically endangered mashseer, Tor putitora 
(Hamilton), in nursery ponds, Aquaculture 249: 
275-284
Xuan, L.N., Long, D.N., Kiem, N.V., Thanh, P.M., 
Dung, T.T., Tam, B.M., and Liem, P.T., 1994. 
Some biological characteristic and fish culture 
techniques in the Mekong Delta, Published by 
An Giang Environmental and Technical Science 
Department – An Giang province and Can tho 
University, Vietnam
Watanabe, T., Kitajima, C., and Fujita, S., 1983. 
Nutritional values of live organisms used in Japan 
for mass production of fish: A review. Aquaculture, 
34: 115-143.
Yang, Y., and Kwei Lin, C., 2001. Effects of biomass 
of caged Nile tilapia (Oreochromis niloticus) 
and aeration on the growth and yields of all Nile 
tilapia in an integrated cage-cum-pond system. 
Aquaculture, 195 (3): 253- 267.
110 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
EFFECTS OF AERATION TO ‘TRA’ CATFISH (Pangasianodon 
hypophthalmus) LARVAE REARED IN PONDS IN THE MEKONG DELTA
Dinh Thi Thuy1*, Nguyen Thanh Nhan1, Doan Van Cuong1, Nguyen Diem Thu1
ABSTRACT
Effects of aeration to nursing of tra catfish larvae up to 21 days was investigated with two treatmens, 
each consisted of 6 earthern ponds (3,500 – 3,700 m2 each). All experimented ponds are located 
in Cai Lay district, Tien Giang province. Stocking density was 750 fish/m2. Two treatments 
differed only in the presence of aeration, in which treatment 1 was provided with aeration while 
treatment 2 was not. Aeration system consists of circular aeration disks, powered by electrical or 
backup diesel blowers.The distance between aeration disks were manipulated to ensure maximum 
efficiency. Biomass of Moina sp. for treatment 1 was significantly higher (p < 0.05) than that for 
treatment 2, increased at day 3 and thereafter decreased at day 12. Fish length of treatment 1 was 
significatnly higher (p < 0.05) than that of treatment 2. At stocking, fish length varied from 5.85 
to 6.30 mm. After 21 days, fish length was 37.0 mm for treatment 1 and 27.7 mm for treatment 2, 
and this difference was significant (p < 0.05). Water quality parameters such as water temperature, 
pH, alkalinity, NH3-N , NO2-N, NO3–N, and COD in both treatments were within limits for fish 
development. However, the dissolved oxygen in early morning of treatment 2 was lower than that 
of treatment 1 and lower than the required limits. Dissolved oxygen values of treatment 2 ranged 
from 2.95 to 4.80 mg/l (except for day 5, 6 and 16), and was significantly different (p < 0.05) from 
those of treatment 1. The infection frequency and ratio of Trichodina sp. and A. hydrophila of 
treatment 1 was significantly lower (p < 0.05) than those of treatment 2. Effects of the aeration was 
also assessed via fish survival rate. Average survival rate of treatment 1 (37.17%) was significantly 
higher (p < 0.05) than that of treatment 2 (22.82%). Finally, average FCR for both treatments 
ranged from 0.36 to 0.39. 
Keywords: rearing, aeration, ‘tra’ catfish.
Người phản biện: TS. Trịnh Quốc Trọng
Ngày nhận bài: 18/11/2015
Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015
Ngày duyệt đăng: 25/12/2015
1. Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2 
* Email: thuydinh6898@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_viec_su_dung_he_thong_thoi_khi_trong_uong_ca_tr.pdf