Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ

Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học để quản lý môi trường nước ao nuôi tôm chân trắng thâm canh trong ao nuôi lót bạt bằng nước biển ven bờ được thực hiện tại khu sản xuất giống thủy sản công nghệ cao của công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc (thôn 4 xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu). Hai thực nghiệm được tiến hành với chế độ sử dụng chế phẩm sinh học khác nhau: Dùng hàng ngày, với liều 0,5 -1,0 g/m3 nước (tương đương khoảng 2-4 kg/ao 4.800m3 nước); Dùng định kỳ: Tháng nuôi thứ nhất, 7 ngày/lần, liều lượng 2,0 g/m3 nước; tháng nuôi thứ 2, 5 ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3 nước; tháng nuôi thứ 3, 3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3 nước. Chế phẩm sinh học có chứa các dòng vi sinh vật chính đó là: Vi khuẩn Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp. và nấm Saccharomyces sp. Phân tích mẫu tôm và nước ao nuôi cho thấy, ở ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, mật số Vibrio ở mẫu tôm (từ 9,0 × 101 đến 3,9 × 102CFU/g) và ở mẫu nước (từ 5,0 × 101 đến 8,2 × 102CFU/ ml) là thấp hơn; các thông số môi trường như độ trong, pH, DO, NH3 và NO2- đều ổn định và nằm trong khoảng ngưỡng cho phép so với ao dùng chế phẩm vi sinh hàng ngày. Kết quả sau 75-80 ngày nuôi, sản lượng tôm thẻ chân trắng thu hoạch ở ao dùng chế phẩm sinh học định kỳ cao gấp 1,3 lần so với ao dùng chế phẩm sinh học hàng ngày; hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) và cỡ tôm thu hoạch cũng lớn hơn tương ứng (FCR = 1,29 so với FCR = 1,41; cỡ tôm thu hoạch đạt 64,3 con/kg so với 81,5 con/kg). Số lượng chế phẩm sinh học sử dụng ở ao dùng định kỳ chỉ bằng 65,6% lượng chế phẩm sử dụng so với ao dùng hàng ngày. Điều đó cho thấy việc sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ hiệu quả hơn so với dùng hàng ngày

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 8

Trang 8

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 9

Trang 9

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 5180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ

Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ
94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN HIỆU QUẢ 
NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) TRONG AO 
TRÊN CÁT VỚI NGUỒN NƯỚC BIỂN VEN BỜ 
EFFECTS OF THE USE PROBIOTICS TO EFFICIENCY OF CULTURED WHITE 
LEGSHRIMP (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) IN PONDS ON THE SAND BY 
COASTAL WATER
Lê Hữu Tình1, Lê Hồng Duyệt1, Võ Văn Nha2 
1Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc 
2Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III
Tác giả liên hệ: Võ Văn Nha (Email: nharia3@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 06/10/2020; Ngày phản biện thông qua: 15/10/2020; Ngày duyệt đăng: 14/11/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học để quản lý môi trường nước ao nuôi tôm chân trắng thâm canh 
trong ao nuôi lót bạt bằng nước biển ven bờ được thực hiện tại khu sản xuất giống thủy sản công nghệ cao 
của công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc (thôn 4 xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu). Hai thực nghiệm được tiến hành 
với chế độ sử dụng chế phẩm sinh học khác nhau: Dùng hàng ngày, với liều 0,5 -1,0 g/m3 nước (tương đương 
khoảng 2-4 kg/ao 4.800m3 nước); Dùng định kỳ: Tháng nuôi thứ nhất, 7 ngày/lần, liều lượng 2,0 g/m3 nước; 
tháng nuôi thứ 2, 5 ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3 nước; tháng nuôi thứ 3, 3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3 nước. 
Chế phẩm sinh học có chứa các dòng vi sinh vật chính đó là: Vi khuẩn Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp. và 
nấm Saccharomyces sp. Phân tích mẫu tôm và nước ao nuôi cho thấy, ở ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, 
mật số Vibrio ở mẫu tôm (từ 9,0 × 101 đến 3,9 × 102CFU/g) và ở mẫu nước (từ 5,0 × 101 đến 8,2 × 102CFU/
ml) là thấp hơn; các thông số môi trường như độ trong, pH, DO, NH
3
 và NO
2
- đều ổn định và nằm trong khoảng 
ngưỡng cho phép so với ao dùng chế phẩm vi sinh hàng ngày. Kết quả sau 75-80 ngày nuôi, sản lượng tôm 
thẻ chân trắng thu hoạch ở ao dùng chế phẩm sinh học định kỳ cao gấp 1,3 lần so với ao dùng chế phẩm sinh 
học hàng ngày; hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) và cỡ tôm thu hoạch cũng lớn hơn tương ứng (FCR = 1,29 so 
với FCR = 1,41; cỡ tôm thu hoạch đạt 64,3 con/kg so với 81,5 con/kg). Số lượng chế phẩm sinh học sử dụng ở 
ao dùng định kỳ chỉ bằng 65,6% lượng chế phẩm sử dụng so với ao dùng hàng ngày. Điều đó cho thấy việc sử 
dụng chế phẩm sinh học định kỳ hiệu quả hơn so với dùng hàng ngày.
Từ khóa: Tôm thẻ chân trắng, nước biển ven bờ, chế phẩm sinh học.
ABSTRACT
The study has used probiotics in water environment management of intensive whiteleg shrimp ponds 
with canvas in coastal water at the high-tech aquatic seed production area of Dac Loc Aqua. Co., Ltd. (hamlet 
4, Xuan Hai commune, Song Cau town). Two experiments were conducted with different the used mode of 
probiotic: ponds using daily use of probiotics, 0.5 -1.0 g / m3 of water (equivalent to 2-4 kg / pond 4,800 m3 
of water); ponds using probiotics periodically: The fi rst month of farming, 7 days / times, the dose of 2.0 g / 
m3 of water; 2nd farming month, 5 days / times, dose 3.0 g / m3 of water; 3rd farming month, 3 days / times, 
dose 5.0 g / m3 of water. Probiotics have contained the main microoganisms strains: Bacteia Nitrosomonas sp., 
Nitrobacter sp. and the fungi Saccharomyces sp. Analysis of shrimp samples and ponds water showed that, in 
ponds using probiotics periodically, Vibrio density in shrimp (from 9,0 × 101 to 3,9 × 102CFU/g) and water 
samples (from 5,0 × 101 to 8,2 × 102CFU/ml) was lower, environmental parameters such as clarity, pH, DO, 
NH
3
 and NO
2
- were stable and is within the permitted level compared to ponds using daily use of probiotics. 
After 75-80 days, the yield of whiteleg shrimp harvested in ponds using probiotics periodically were 1.3 times 
higher than in ponds using daily use of probiotics; the feed conversion ratio (FCR) and the havervested whiteleg 
shrimp size (individual per kilogram) were also respectively lager (FCR=1.29 comparated to FCR=1.41; 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 95
havervested whiteleg shrimp size = 64.3 inds./kg comparated to 81.5 inds./kg). The number of probiotics used 
in ponds using probiotics periodically are only 65.6% of the amount of inoculants used in ponds using daily use 
of probiotics. That has shown that the recurring probiotics use is more effective than daily use
Key words: White leg shrimp, coastal water, probiotics,.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi tôm nước lợ ở Việt Nam nói chung và 
các tỉnh miền Trung nói riêng trong những năm 
gần đây có xu thế gia tăng về diện tích và sản 
lượng, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng [1]. Các 
bệnh trên tôm nước lợ gây thiệt hại đến người 
nuôi tôm có thể kể đến là: bệnh hoại tử gan tụy 
cấp, bệnh đốm trắng do WSSV, bệnh do vi bào từ 
trùng EHP, bệnh phân trắng,[1]. Việc sử dụng 
chế phẩm, hóa chất và kháng sinh trong xử lý 
môi trường, phòng và trị bệnh khá nhiều nhưng 
hiệu quả chưa cao hoặc chưa được đánh giá đầy 
đủ [1, 2]. Cách sử dụng như vậy, ngoài việc tăng 
chi phí, vi khuẩn kháng thuốc khó phòng và trị, 
còn để lại dư lượng hóa chất và kháng sinh ảnh 
hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, còn 
gây nguy cơ ô nhiễm môi trường và rủi ro sức 
khỏe với người lao động và người tiêu dùng. Do 
vậy, việc hoàn thiện chế độ sử dụng chế phẩm 
sinh học trong quản lý môi trường nước ao nuôi 
tôm thẻ chân trắng trên cát bằng nước biển ven 
bờ để kiểm soát được môi trường ao nuôi, giảm 
chi phí sản xuất, hạn chế dịch bệnh làm cơ sở để 
nhân rộng cho các vùng nuôi tôm trên cát dọc 
ven biển miền Trung, mang lại hiệu quả kinh 
tế cao trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh 
là vấn đề cần thiết và thiết thực. Đây là một 
phần nghiên cứu của dự án sản phẩm Quốc gia: 
“Nghiên cứu hoàn thiện qui trình nuôi thương 
phẩm tôm thẻ chân trắng trên cát bằng nước biển 
ven bờ ở miền Trung đảm bảo an toàn thực phẩ 
m và an toàn dịch bệnh” do Bộ NN&PTNT giao 
Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc thực hiện từ 
năm 2018-2020. 
II.  ... 1 đến 3,5 x 103 CFU/g (ở nước ao nuôi). Số 
lượng Vibrio có khuẩn lạc màu xanh và Vibrio 
có khuẩn lạc màu vàng trên môi trường TCBS ở 
các mẫu nước các ao sử dụng định kỳ chế phẩm 
sinh học đều thấp hơn so với các ao dùng chế 
phẩm sinh học hàng ngày.
Hình 1: Mật độ vi khuẩn vàng trong nước ở hai 
chế độ sử dụng chế phẩm sinh học.
Hình 2: Mật độ vi khuẩn xanh trong nước ở hai 
chế độ sử dụng chế phẩm sinh học.
98 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
Ngoài ra, kết quả kiểm tra định kỳ (7 
ngày/lần trong các mẫu nước các ao sử 
dụng chế phẩm sinh học hàng ngày và định 
kỳ) các tác nhân gây bệnh đốm trắng do 
WSSV, bệnh còi do EHP và bệnh gan tụy 
cấp do V. parahaemolyticus mang gen pirA/
pirB bằng kỹ thuật real time PCR đều cho 
kết quả âm tính.
1.2. Kết quả theo dõi các yếu tố thủy lý, hóa 
môi trường nước ao nuôi 
Ở các ao nuôi trong suốt thời gian thí 
nghiệm, các thông số môi trường nước như: 
nhiệt độ dao động từ 29 – 32,5ºC, độ mặn từ 
30-32‰ là phù hợp cho sự sinh trưởng của 
tôm nuôi. 
1.2.1. Giá trị pH: 
Kết quả từ hình 6 cho thấy, chỉ số pH của 
các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày 
ít ổn định, tuy pH dao động trong ngày chưa 
vượt quá 0,5, và không có dấu hiệu giảm dần 
theo thời gian nuôi. Khi so sánh với kết quả từ 
hình 5, pH ở các ao sử dụng định kỳ chế phẩm 
sinh học có biên độ dao đông giữa buổi sáng và 
buổi chiều không cao từ 0,2 – 0,5. Giá trị pH 
giảm dần và ổn định theo thời gian nuôi một 
cách rõ rệt. 
Hình 3: Mật độ vi khuẩn vàng trên tôm ở hai 
chế độ dùng chế phẩm sinh học khác nhau.
Hình 5: pH trong các ao sử dụng chế phấm 
sinh học định kỳ.
Hình 4: Mật độ vi khuẩn xanh trên tôm ở hai 
chế độ dùng chế phẩm sinh học khác nhau.
Hình 6: pH trong các ao sử dụng chế phẩm 
sinh học hàng ngày.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 99
1.2.2. Giá trị ô xy hòa tan trong nước (DO): 
Hàm lượng ô xy trong nước các ao sử dụng 
chế phẩm sinh học hàng ngày và định kỳ luôn 
được duy trì ổn định, dao động từ 3,5 - 6,0 
ppm (Hình 9, 10). Tuy nhiên ở các ao sử dụng 
chế phẩm sinh học hàng ngày, hàm lượng ô xy 
trong nước ở một số thời điểm xuống khá thấp 
vào buổi sáng, có thời điểm chỉ đạt 3,5 ppm, 
làm cho tôm giảm ăn, chậm lớn. Hàm lượng ô 
xy trong nước bị ảnh hưởng bởi do sự hô hấp 
và quang hợp của tảo gây nên. Ngoài ra, còn do 
chế độ quạt nước, quá trình lên men, phân hủy 
các chất hữu cơ đáy. Điều này chứng tỏ chất 
lượng nước của các ao sử dụng chế phẩm sinh 
học hàng ngày và định kỳ khá ổn định khi sử 
dụng chế phẩm phẩm sinh học.
Hình 7: Oxy trong các ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ.
Hình 8: Oxy trong các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày.
100 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
1.2.3. Độ trong:
Độ trong của nước ao nuôi thể hiện cho mật 
độ phát triển của tảo và hàm lượng chất hữu cơ 
lơ lửng trong nước. Các ao sử dụng chế phẩm 
sinh học định kỳ kể từ ngày nuôi thứ 10 trở đi, 
độ trong của nước luôn ổn định trong khoảng 25 
– 35 cm (hình 9), điều này cho thấy tảo phát triển 
ổn định và mật độ vừa phải, phù hợp cho môi 
trường nước cho tôm sinh trưởng và phát triển. 
Ở các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày, 
độ trong ít ổn định hơn, ở ngày nuôi thứ 35 – 65 
độ trong nước là 15 - 25 cm (hình 9), chứng tỏ 
giai đoạn này mật độ tảo phát triển dày đặc, nước 
đậm màu và rất dễ bị tàn tảo, đây là điều kiện 
môi trường không tốt cho sự phát triển của tôm.
1.2.4. NH
3
 và NO
2
-:
Khí độc NH
3
 ở các sử dụng chế phẩm sinh 
học hàng ngày và định kỳ biến động theo thời 
gian nuôi (hình 10). Tuy nhiên, ở các ao sử dụng 
chế phẩm sinh học hàng ngày, hàm lượng NH
3
trong ao vượt ngưỡng cho phép (0,3 ppm) ở hầu 
hết các đợt thu mẫu phân tích, nguy cơ gây độc 
và làm chết tôm nếu không có biện pháp xử lý kịp 
thời. Hàm lượng NH
3
 trong ao tăng cao chứng tỏ 
rằng hệ thống không cân bằng, là đặc điểm của 
ao chứa nhiều chất hữu cơ lắng đọng. Trong khi 
đó, các ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ 
mặc dù hàm lượng NH
3
 trong ao vẫn có, nhưng 
nồng độ thấp hơn, nằm trong giới hạn cho phép 
không ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe tôm nuôi.
Hình 9: Biểu đồ độ trong ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
Hình 10: Biểu đồ NH
3
 ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 101
Hình 11: Biểu NO2
- trong ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
Tương tự như khí độc NH
3
, NO2
- là hệ quả 
của việc hàm lượng chất hữu cơ tồn đọng 
trong ao cao, mật độ tảo phát triển dày. Các 
ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày, 
hàm lượng NO2
- trong nước ao nuôi biến 
động khá mạnh, hơn nhiều lần so với ao sử 
dụng chế phẩm sinh học định kỳ (hình 11). 
Hàm lượng khí độc NO2
- thấp, không vượt 
quá 0,2 ppm trong suốt quá trình nuôi ở ao 
sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, điều này 
cho thấy hàm lượng chất hữu cơ trong nước 
ở các ao này được kiểm soát triệt để không bị 
tồn dư quá nhiều.
2. Kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng chế 
phẩm sinh học định kỳ và hàng ngày thông 
qua sinh trưởng, sản lượng tôm nuôi và hệ 
số chuyển đổi thức ăn 
Sau khi chọn được giống có kết quả âm tính 
bằng kỹ thuật real time PCR đối với vi khuẩn 
gây hoại tử gan tụy cấp, vi bào tử trùng EHP, các 
vi rút: WSSV, IHHNV, YHV, IMNV, TSV theo 
thông tư số 26/2016/TT-BNNPTNT, tôm được 
nuôi đến ngày thứ 75 (đợt 1) và nuôi đến ngày 
thứ 80 (đợt 2). Kết quả cho thấy, sau 75-80 ngày 
nuôi, kích cỡ tôm thu hoạch và sinh trưởng hàng 
ngày của tôm ở các ao sử dụng chế phẩm sinh 
học định kỳ (tháng nuôi thứ nhất, dùng 7 ngày/
lần, liều lượng 2,0 g/m3; tháng nuôi thứ 2, 5 
ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3; tháng nuôi thứ 3, 
3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3) lớn hơn các ao 
sử dụng chế phẩm sinh học hằng ngày (0,5 -1,0 
g/m3). Kích cỡ tôm thu hoạch tương ứng trung 
bình 64,3 con/kg so với 81,5 con/kg; tốc độ sinh 
trưởng DGR = 0,198 g/con/ngày so với 0,158 g/
con/ngày (Bảng 2) và sự sai khác này có ý nghĩa 
thống kê (P
one-tail
 = 0,019<0,05 tương tự nhau ở 
2 chỉ tiêu). Sản lượng tôm thu hoạch ở các ao 
dùng chế phẩm sinh học định kỳ cao gấp 1,3 lần 
so với các ao dùng hàng ngày (Hình 2, Bảng 2). 
Tuy nhiên, ở ao sử dụng chế phẩm sinh học định 
kỳ, tỷ lệ sống của tôm có cao hơn (84,75% so 
với 82,40%), nhưng sự sai khác này không có ý 
nghĩa thống kê (P
Two-tail
 = 0,392>0,05 - Bảng 2).
Ngoài ra, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) 
và lượng chế phẩm sinh học sử dụng ở các 
ao dùng định kỳ cũng thấp hơn so với các 
ao dùng hàng ngày. Giá trị FCR=1,29 so với 
FCR=1,41; lượng chế phẩm 222,5 kg so với 
339,4 kg (Bảng 2) và sự khác biệt này cũng 
có ý nghĩa thống kê (P
one-tail
 = 0,016<0,05 và 
P
one-tail
 = 0,0019<0,05 tương ứng). Lượng chế 
phẩm sinh học sử dụng ở các ao dùng định 
kỳ chỉ bằng 65,6% lượng chế phẩm sử dụng 
ở các ao dùng hàng ngày (Bảng 2). Mật số vi 
khuẩn Vibrio spp. có khuẩn lạc màu xanh và 
Vibrio spp. có khuẩn lạc màu vàng trên môi 
trường TCBS ở các mẫu tôm thu từ các ao sử 
dụng chế phẩm sinh học định kỳ thấp hơn so 
với các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng 
ngày (Hình 3 và Hình 4). 
102 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
Hình 12: Sinh trưởng của tôm ở hai chế độ 
sử dụng chế phẩm sinh học.
Hình 13: Tỉ lệ sống của tôm ở hai chế độ 
sử dụng chế phẩm sinh học.
 Chế phẩm sinh học có bả n chất là cá c vi 
khuẩ n có lợ i cho ngườ i và vậ t nuôi đã đượ c 
sử dụng phổ biế n trong nuôi trồ ng thủ y sả n 
nó i chung và nuôi tôm nó i riêng. Cơ chế hoạ t 
độ ng củ a các chế phẩm sinh học bao gồ m: (i) 
có tá c dụng ứ c chế cá c tá c nhân gây bệ nh; (ii) 
cả i thiệ n hệ vi khuẩ n đườ ng ruộ t củ a vậ t nuôi; 
(iii) cạ nh tranh nguồ n thứ c ăn và vị trí gắ n 
trên đườ ng ruộ t; (iv) cả i thiệ n cá c chứ c năng 
tiêu hó a; (v) kí ch hoạ t hệ miễ n dị ch và (vi) cả i 
thiệ n chất lượ ng nướ c [9]. Balcazar và cộng 
sự (2007) [7] đã sử dụng chế phẩm sinh học 
mang chủng B. subtilis UTM 126 cho tôm thẻ 
chân trắng giai đoạn giống với nồng độ 105 
cfu/g trong 28 ngày cho thấy tỷ lệ chết của 
tôm giảm 2,84 lần, từ 51,75% xuố ng 18,25% 
khi cảm nhiễm chủ động chủng V. harveyi 
TR51 ở nồng độ 105 cfu/ml trong 24 giờ [7]. 
Nghiên cứu của Khuất Hữu Thanh và cộng sự 
(2009) [6] cũng cho thấy, chế phẩm sinh học 
với các thành phần: Bacillus, vi khuẩn sinh 
lactic được sử dụng định kỳ trong các ao nuôi 
Bảng 2. Một số thông số kết quả thử nghiệm ở hai nghiệm thức sử dụng chế phẩm sinh học 
định kỳ và hàng ngày 
Miêu tả
Đơn vị 
tính
Sử dụng chế phẩm sinh học 
hằng ngày (các ao D5, 10D2, 
4D2 và 7D2)
Sử dụng chế phẩm sinh học 
định kỳ (các ao D6, 3D2, 8D2, 
9D2)
Dao động Trung bình Dao động Trung bình
Diện tích m2/ao 3.700 3.700
Mật độ Con/m2 230 - 253 230 - 253
Cỡ tôm thu hoạch Con/kg 66 - 90 81,5a±10, 63 57 - 75 64,3b ± 7, 63
Thời gian nuôi Ngày 75 - 80 75 - 80
Tỉ lệ sống % 78,6 – 89,0 82,40a±4,615 84,0 – 86,0 84,75a ±0,957
FCR 1,33 – 1,46 1,41a ±0,059 1,2 – 1,36 1,29b ± 0,067
DGR g/con/ngày 0,14 – 0,19 0,158a±0,022 0,17 – 0,22 0,198b ± 0,021
Lượng CPSH sử 
dụng
Kg 277,5 - 360 339,38a±41,25 177,6 243,7 222,53b±30,27
Sản lượng Tấn 7,744 – 11,462 8,964a± 1,721 10,472 – 12,825 11,570b± 0,965
Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 hàng có chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 103
tôm sú thâm canh qua 120 ngày nuôi cho tăng 
trọng của tôm 13% và tỷ lệ sống tăng 15% so 
với đối chứng [6]. Cá c nghiên cứ u gầ n đây sử 
dụng cá c probiotic mang chủ ng Lactobacillus 
sp., Pseudoalteromonas spp. và Bacillus sp. 
cho phé p cả i thiệ n tỷ lệ số ng củ a tôm thẻ chân 
trắng khi đượ c cả m nhiễ m bằ ng cá c chủ ng V. 
parahaemolyticus gây bệ nh hoại tử gan tụy 
cấp [8,9]. Như vậy, có thể thấy rằng việc bổ 
sung probiotic định kỳ của chúng tôi trên tôm 
thẻ chân trắng nuôi thâm canh trong ao lót bạt 
cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của 
các tác giả trong và ngoài nước. Từ những kết 
quả và phân tích nêu trên, có thể nhận định 
rằng việc sử dụng định kỳ chế phẩm sinh học 
với 7 ngày/lần (liều lượng 2,0 g/m3) ở tháng 
nuôi thứ nhất; 5 ngày/lần (liều lượng 3,0 g/
m3) ở tháng nuôi thứ 2; 3 ngày/lần (liều lượng 
5,0 g/m3 nước) ở tháng nuôi thứ 3 cho hiệu 
quả sử dụng tốt hơn so với việc sử dụng chế 
phẩm sinh học tương tự hàng ngày với liều 
lượng 0,5 -1,0 g/m3 nước. 
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sử dụng định kỳ chế phẩm sinh học có 
các thành phần chính gồm: Nitrosomonas sp., 
Nitrobacter sp. và nấm Saccharomyces sp., với 7 
ngày/lần (liều lượng 2,0 g/m3 nước) ở tháng nuôi 
thứ nhất; 5 ngày/lần (liều lượng 3,0 g/m3 nước) ở 
tháng nuôi thứ 2; 3 ngày/lần (liều lượng 5,0 g/m3 
nước) ở tháng nuôi thứ 3 cho hiệu quả ổn định 
môi trường tốt hơn, hiệu quả nuôi (hệ số chuyển 
đổi thức ăn FCR, sinh trưở ng, sả n lượ ng và năng 
suấ t tôm thu hoạch) cao hơn so với việc sử dụng 
chế phẩm sinh học tương tự hàng ngày với liều 
lượng 0,5 -1,0 g/m3 nước. Lượng chế phẩm sinh 
học định kỳ dùng chỉ bằng 65,6% so với lượng 
chế phẩm cùng loại sử dụng hàng ngày, nhưng 
cho sản lượng thu hoạch tăng gấp 1,3 lần. 
2. Kiến nghị
Người nuôi tôm có thể dùng chế định kỳ 
chế phẩm sinh học định kỳ nhằm mang lại hiệu 
quả tốt trong nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát 
bằng nước biển ven bờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phan Thanh Lâm, Nguyễn Văn Phụng, Đoàn Văn Bảy, Đỗ Văn Hoàng, Thới Ngọc Bảo (2019), Hiện trạng sử 
dụng giống, thức ăn, hóa chất, kháng sinh và các giải pháp kỹ thuật đang áp dụng trong nuôi thâm canh tôm sú, 
tôm thẻ chân trắng ở Đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo tại Hội nghị “Nâng cao giá trị tôm Việt Nam thông 
qua đổi mới công nghệ sản xuất”, tháng 11/2019, Cần Thơ. 
2. Lê Hồng Phước, Nguyễn Diễm Thư, Hứa Ngọc Phúc, Phạm Thị Yến (2018), Kỷ yếu hội nghị Khoa học và 
Công nghệ chuyên ngành Thủy sản giai đoạn 2013-2018, Bộ NN&PTNT. Nhà xuất bản Thanh niên, ISBN: 
978-604-970-360-7, Hà Nội, trang 356-363.
3. QCVN 02-19:2014/BNNPTNT - Qui chuẩn kỹ thuật Quốc gia về cơ sở nuôi tôm nước lợ - Điều kiện đảm 
bảo vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm.
4. TCVN 5994:1995 (ISO 5667/4: 1987) –Tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng nước – lấy mẫu - hướng dẫn lấy 
mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.
5. TCVN 6663-3:2016 (ISO 5667-3:2012) - Tiêu chuẩn quốc gia về Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 3: Bảo 
quản và xử lý mẫu nước.
6. Khuất Hữu Thanh, Nguyễn Đăng Phúc Hải, Bùi Văn Đạt, Võ Văn Nha (2009), Phân lập và tuyển chọn một 
số chủng vi khuẩn có đặc tính Probiotic trong tạo chế phẩm nuôi tôm sú. Tạp chí KH&CN các trường Đại học 
Kỹ thuật, số 74-2009. ISSN 0868-3980, Hà Nội, trang 113-116.
104 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020
Tiếng Anh
7. Balcazar J. L. and Tyrone R. L. (2007), Inhibitory activity of probiotic Bacillus subtilis UTM 126 
against Vibrio species confersprotection against Vibriosis in juvenile shrimp (Litopenaeus vannamei). Curr. 
Microbiol.,55: 409-412.
8. Taylor D., Stevens A., Choi M., Drahos D., D'Imperio S., Smith S., Heffron J., & Kuhn D. (2017), Direct-Fed 
Probiotics Improve Survival in Shrimp, Litopenaeus vannamei, Under AHPND/EMS Challenge.
9. Wang H., Wang C., Tang Y., Sun B., Huang J., & Song X. (2018), Pseudoalteromonas probiotics as potential 
biocontrol agents improve the survival of Penaeus vannamei challenged with acute hepatopancreatic necrosis 
disease (AHPND)-causing V.parahaemolyticus. Aquaculture, 494, p.30-36. 
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Tổng cục Thủy sản - Bộ NN&PTNT, tập thể cán bộ Công ty TNHH Thủy sản Đắc 
Lộc, các cán bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III tham gia thực hiên dự án đã hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời 
về chuyên môn và kinh phí cần thiết để chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_che_do_su_dung_che_pham_sinh_hoc_den_hieu_qua.pdf