Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp
Khảo sát 120 hộ nuôi cá lóc năm 2016 ở huyện Hồng Ngự, Tam Nông, thị xã Hồng Ngự của Đồng
Tháp về hiện trạng bệnh da rắn tại các ao nuôi và dự đoán sự xuất hiện của bệnh dựa vào 1 số yếu tố
kỹ thuật. Có 50,8% hộ khảo sát có cá mắc bệnh da rắn. Bệnh này thường xảy ra vào mùa nắng, cá mắc
bệnh xuất hiện đốm trắng lan rộng phía đầu, bong vẩy và nội quan tổn thương. Hộ nuôi trị bệnh tổng
hợp như sát khuẩn nước ao nuôi, sử dụng kháng sinh và chế phẩm dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề
kháng, nhưng không hiệu quả. Phân tích hồi qui Binary logistic xác định được các yếu tố để dự đoán
bệnh da rắn như: cỡ giống, số năm kinh nghiệm, phòng bệnh bằng cách diệt khuẩn và giảm ăn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng bệnh trắng mình (da rắn) trên cá lóc (channa sp.) nuôi ao ở tỉnh Đồng Tháp
69 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) HIỆN TRẠNG BỆNH TRẮNG MÌNH (DA RẮN) TRÊN CÁ LÓC (Channa sp.) NUÔI AO Ở TỈNH ĐỒNG THÁP y Võ Minh Quế Châu(*), Nguyễn Công Tráng(*) Tóm tắt Khảo sát 120 hộ nuôi cá lóc năm 2016 ở huyện Hồng Ngự, Tam Nông, thị xã Hồng Ngự của Đồng Tháp về hiện trạng bệnh da rắn tại các ao nuôi và dự đoán sự xuất hiện của bệnh dựa vào 1 số yếu tố kỹ thuật. Có 50,8% hộ khảo sát có cá mắc bệnh da rắn. Bệnh này thường xảy ra vào mùa nắng, cá mắc bệnh xuất hiện đốm trắng lan rộng phía đầu, bong vẩy và nội quan tổn thương. Hộ nuôi trị bệnh tổng hợp như sát khuẩn nước ao nuôi, sử dụng kháng sinh và chế phẩm dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề kháng, nhưng không hiệu quả. Phân tích hồi qui Binary logistic xác định được các yếu tố để dự đoán bệnh da rắn như: cỡ giống, số năm kinh nghiệm, phòng bệnh bằng cách diệt khuẩn và giảm ăn. Từ khóa: Bệnh da rắn, cá lóc, Đồng Tháp, nuôi cá lóc. 1. Giới thiệu Cá lóc là loài cá nước ngọt đặc trưng ở Việt Nam [10] và hiện nay được nuôi nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cá lóc là loài cá được ưa chuộng tiêu thụ hàng đầu ở Việt Nam, nhất là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Do cá lóc là đối tượng tương đối dễ nuôi, được nuôi với nhiều mô hình khác nhau (như nuôi trong ao đất, ao nổi, mùng vèo và lồng bè) và có thể nuôi qui mô nhỏ để xóa đói giảm nghèo hoặc nuôi thâm canh với mật độ cao [9]. Ngoài ra, cá lóc nuôi là sản phẩm có khả năng thay thế cá lóc đồng tự nhiên, do lượng cá lóc đồng giảm mạnh trong những năm gần đây. Tổng sản lượng cá lóc nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 2009 ước tính khoảng 30.000 tấn [10]. Nghiên cứu trên cá lóc, các tác giả [3] đã phát hiện 23 giống ký sinh trùng (trong đó có 6 giống mới), 14 chủng vi nấm, 81 chủng vi khuẩn gây bệnh trên cá lóc, đã xác định được 118 tác nhân gây bệnh trên cá lóc, tăng 6 tác nhân gây bệnh so với nghiên cứu năm 2010. Thời gian gần đây, theo khảo sát thực tế của nhóm nghiên cứu bệnh trắng mình (da rắn) bắt đầu xuất hiện trên cá lóc nuôi thâm canh. Đây là bệnh mới, chưa xác định được tác nhân, chưa có biện pháp phòng, trị hiệu quả, nó đang gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. Khi cá lóc mắc bệnh da rắn, thì đuôi cá xuất hiện vết trắng lan dần về phía đầu, cá mất nhớt, bong vẩy, vẩy cá sần lên như da con rắn và cá chết rất nhanh. Bệnh đã xuất hiện ở tất cả các tỉnh có nghề nuôi cá lóc như: Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Bình Dương... Trong đó, Đồng Tháp là một trong những tỉnh có nghề nuôi cá lóc bị thiệt hại nặng do bệnh da rắn. Bệnh xuất hiện hầu hết các huyện có nuôi cá lóc của tỉnh Đồng Tháp. Vì vậy, nghiên cứu khảo sát hiện trạng bệnh da rắn trên cá lóc lai (Channa sp.) nuôi thâm canh trong ao đất ở tỉnh Đồng Tháp được thực hiện nhằm hiểu về hiện trạng của bệnh và mối tương quan giữa dịch bệnh với các yếu tố môi trường, kỹ thuật... để dự đoán khả năng xảy ra bệnh. Từ đó, đề xuất các giải pháp để hạn chế dịch bệnh, giảm rủi ro cho nghề nuôi. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 03/2016 - 12/2016 tại các huyện Hồng Ngự, Tam Nông và thị xã Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. 2.2. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng bảng câu hỏi soạn sẵn với các nội dung, chỉ tiêu nghiên cứu. Nội dung của bảng câu hỏi xoay quanh các vấn đề: (i) Thông tin về hiện trạng kỹ thuật nuôi cá lóc của các nông hộ, (ii) hiện trạng bệnh da rắn và (iii) hướng xử lý ban đầu của người nuôi khi phát hiện bệnh này. Khảo sát ý kiến dựa trên kết quả điều tra từ 120 hộ dân nuôi cá lóc thuộc huyện Hồng Ngự, Tam Nông và thị xã Hồng Ngự. Các hộ được chọn phỏng vấn một cách ngẫu nhiên. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, nghiên cứu viên kết hợp thu thập mẫu cá bệnh, quan sát dấu hiệu bên ngoài và giải phẫu để quan sát bệnh tích bên trong với điều kiện thực tế tại nông hộ, vùng nuôi để bổ sung và kiểm chứng dữ liệu thu được.(*) Trường Đại học Tiền Giang. 70 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) Số liệu thứ cấp: Thu thập báo cáo của Chi cục Thủy sản Đồng Tháp, Phòng Nông nghiệp (NN) huyện Tam Nông, Phòng NN huyện Hồng Ngự và Phòng NN thị xã Hồng Ngự. 2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu Sử dụng phần mềm Excel 2013 để nhập và mã hóa số liệu sau khi thu được. Thống kê so sánh được thực hiện bằng SPSS 16.0. Mô hình hồi quy đa biến Binary Logistic dùng để nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố về môi trường, kỹ thuật nuôi, quản lý ao lên sự xuất hiện bệnh da rắn (SXHBDR). Dựa vào mô hình này để dự đoán khả năng xảy ra dịch bệnh. Xác suất xảy ra bệnh da rắn (p) trên cá lóc được biểu diễn bằng mô hình như sau: 0 1 1 2 2 3 3 0 1 1 2 2 3 3 ( ... ) ( ... ) . 1 n n n n X X X X X X X X ep e β β β β β β β β β β + + + + + + + + + += + Trong đó: SXHBDR là biến nhị phân có giá trị 0 hoặc 1 (ví dụ: có xuất hiện bệnh da rắn thì nhận giá trị = 1, không có xuất hiện bệnh da rắn thì nhận giá trị = 0); β0 là hằng số, β1, β2, β3...βn là hệ số của các biến độc lập; X1, X2, X3... Xn là các biến độc lập đại diện cho kết quả trả lời của người được phỏng vấn. Xác xuất của hàm này có giá trị từ 0-1. Khi có các giá trị của các biến, chúng ta có thể dựa vào đó để dự đoán. Nếu p ≤ 0,5 thì dịch bệnh không xảy ra, p> 0,5 thì bệnh xảy ra [13]. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Hiện trạng bệnh da rắn Trong 120 hộ nuôi cá lóc thâm canh trong ao đất được khảo sát thì có 61 hộ nuôi có cá mắc bệnh da rắn chiếm 50,8%. Nhìn chung tỷ lệ xuất hiện bệnh da rắn cũng khá cao. 3.1.1. Tỷ lệ mắc bệnh da rắn Các hộ nuôi cá lóc ở cả 3 địa bàn gồm huyện Hồng Ngự, thị xã Hồng Ngự và huyện Tam Nông đều có cá mắc bệnh da rắn. Trong đó, tính riêng theo từng khu vực khảo sát, thị xã Hồng Ngự có tỷ lệ hộ nuôi có cá mắc bệnh da rắn cao nhất chiếm 56% số hộ được khảo; huyện Hồng Ngự có tỷ lệ ... nh da rắn, cho đến thời điểm khảo sát, do chưa xác định được tác nhân gây bệnh, dựa vào những dấu hiệu thể hiện ở nội tạng, người dân sử dụng kháng sinh chỉ để điều trị được các triệu chứng về nội tạng. Quá trình điều trị bệnh bao gồm sử dụng hóa chất diệt khuẩn để xử lý nước, kết hợp với cho ăn kháng sinh để điều trị. Thực tế, hầu hết các hộ nuôi đều bán ngay sau 1-2 ngày điều trị không hiệu quả. Như vậy, kết quả đánh giá về hiệu quả điều trị của người dân dựa vào thiệt hại gây ra. Thực chất, không thể trị khỏi hoàn toàn bệnh da rắn, tỷ lệ cá chết không giảm nên để giảm thiểu rủi ro, người dân bán gấp. Chi phí trị bệnh cao, hiệu quả điều trị không cao sẽ gây thiệt hại ngày càng nhiều và cá thường mắc bệnh đạt từ 100-300 g đã có thể bán được. 3.2.7. Những khó khăn trong xử lý bệnh Bệnh da rắn trên cá lóc chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh, nên việc phòng trị bệnh là hết sức khó khăn (Bảng 8). Vì vậy, khảo sát được thực hiện để xác định những khó khăn các hộ nuôi gặp phải để có hướng xử lý thích hợp. Bảng 8. Những khó khăn trong xử lý bệnh Khó khăn Số hộ Tỷ lệ (%) Xử lý môi trường ao nuôi 38 62,3 Kháng sinh trị bệnh không hiệu quả 18 29,5 Chi phí trị bệnh cao 35 57,4 Hiệu quả điều trị thấp 10 16,4 Ý khác 8 13,1 Khó khăn về xử lý môi trường ao nuôi có tới 38 hộ chọn chiếm 62,3%, đặc biệt là khó khăn về nguồn nước. Do hầu hết các hộ đều không có ao xử lý chất thải nên xả trực tiếp xuống sông, không chỉ những hộ nuôi cá lóc mà còn những hộ nuôi cá khác như cá tra, cá nàng hai... đều thải trực tiếp xuống cùng 1 con kênh, sông làm mầm bệnh lây lan nhanh rất khó kiểm soát, dẫn tới chất lượng nước ngày càng bị ô nhiễm. Ngoài ra, khi sử dụng nước trên sông cho vào ao nuôi thì rất khó xử lý nước do các hộ nuôi không có ao lắng để xử lý. Yếu tố chi phí trị bệnh cao có 35 hộ chọn chiếm 57,4%, nguyên nhân là do giá thuốc kháng sinh và hóa chất xử lý nước giá khá cao nhưng chưa điều trị hiệu quả bệnh này. Một số hộ nuôi từng gặp bệnh này nhiều hơn 1 lần cho rằng việc sử dụng kháng sinh hay thảo dược khi đang bệnh không hiệu quả. Nguyên nhân là khi cho ăn kháng sinh cá sẽ chết nhiều hơn vì gan cá đã suy giảm chức năng gan, dùng liều kháng sinh dẫn đến trị bệnh không hiệu quả. Theo Robert trong [8] cũng cho rằng khi cá bị gan thận mủ, có sự xung huyết ở mao mạch, vỡ mạch máu ở gan, giải phóng các enzyme tiêu hóa từ các tế bào bạch cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoại dẫn đến hoại tử nhiều vùng trên gan, khi đó gan mất chức năng khử độc, lọc máu. Lúc này cần phải giải độc gan, bổ máu, tăng cường chức năng gan trước để cá phục hồi sức khỏe lại rồi mới sử dụng kháng sinh với liều nhẹ để diệt mầm bệnh. Yếu tố hiệu quả điều trị thấp được 10 hộ chọn 74 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) (chiếm 16,4%). Ý kiến khác có 8 hộ chọn (chiếm 13,1%), là do thời tiết nắng nóng làm nhiệt độ nước tăng cao và thời gian nắng nóng trong ngày dài làm cá bị stress, cá yếu rất dễ nhiễm bệnh. 3.2.8. Nguyên nhân làm bệnh da rắn trầm trọng thêm Bảng 9. Nguyên nhân làm bệnh da rắn trầm trọng thêm Nguyên nhân Số hộ Tỷ lệ (%) Môi trường ao nuôi quá dơ 42 68,9 Cho ăn dư thừa 2 3,28 Cho ăn quá nhiều kháng sinh 5 8,20 Ý khác 3 4,92 Từ Bảng 9 cho thấy, có 42 hộ (chiếm 68,9%) cho rằng nguyên nhân cá bị bệnh nặng hơn là do môi trường nuôi quá dơ. Các hộ nuôi cá với mật độ rất cao, lượng chất thải trong ao khá lớn. Mặc dù thay nước thường xuyên nhưng cũng không thể xử lý hoàn toàn chất thải lắng đọng dưới đáy ao. Đây chính là cơ hội cho nhiều mầm bệnh phát triển. Thời tiết khắc nghiệt, cho ăn dư thừa hay cho ăn quá nhiều kháng sinh cũng là một trong các nguyên nhân gây bệnh [6]. Nhưng, nhìn chung cá lóc nuôi mật độ cao, môi trường suy thoái làm cá bị stress, suy giảm sức chống chịu với bệnh tật, cộng với sự phát triển của mầm bệnh trong ao nuôi nên công tác phòng và điều trị gặp nhiều khó khăn hơn. 3.2.9. Biện pháp xử lý bệnh da rắn hiệu quả Đối với các hộ nuôi đã có kinh nghiệm trong việc xử lý bệnh da rắn đưa ra một số giải pháp mà họ cho rằng hiệu quả trong điều trị. Bảng 10. Các giải pháp do người dân đề xuất để xử lý hiệu quả bệnh da rắn Biện pháp xử lý Số hộ Tỷ lệ (%) Môi trường ao nuôi 17 27,9 Cho ăn kháng sinh, thảo dược trị bệnh 16 26,2 Bổ sung dinh dưỡng, men tiêu hóa, chất kích thích miễn dịch, sản phẩm tăng cường chức năng gan 25 41,0 Ngưng cho ăn 46 75,4 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, khi cá mắc bệnh da rắn có 46 hộ (chiếm 75,4%) cho rằng cần giảm hay ngưng cho cá ăn để tránh bị dơ nước giảm tải hoạt động cho gan, chờ gan hồi phục trở lại. Có 25 hộ chiếm 41,0% cho rằng cần giải độc gan, tăng cường chức năng gan, bổ sung dinh dưỡng, men tiêu hóa, chất kích thích miễn dịch giúp gan mau hồi phục. Theo [11] và [2] để nâng cao sức đề kháng của cá lóc, nên bổ sung các chất kích thích miễn dịch. Kết quả cho thấy khi bổ sung các chủng vi khuẩn Bacillus sp. và Lactobacillus sp., nấm men và β-glucan tăng trưởng của cá được cải thiện, các chỉ số đo hoạt động của miễn dịch cũng tăng. Đồng thời, mật số vi khuẩn gây bệnh trên cơ thể cá cũng giảm. Biện pháp tập trung xử lý môi trường ao nuôi được 17 hộ chọn, chiếm 27,9%. Các hộ này cho rằng đầu tiên cần cải thiện môi trường ao nuôi để cá giảm stress, tăng cường sức đề kháng, giảm vi khuẩn gây bệnh trong ao. Có 16 hộ (chiếm 26,2%) cho rằng cần cho ăn kháng sinh, thảo dược khi trị bệnh. Các hộ này thường chọn các dòng kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng như: Levofl oxacin, Ciprofl oxacin hay kháng sinh theo hướng dẫn của kỹ sư các công ty thuốc để cho cá ăn. Như vậy, khi cá lóc mắc bệnh da rắn, cần tập trung xử lý như sau: cần giảm hoặc ngưng cho ăn tùy vào mức độ suy yếu của gan (xem màu sắc gan, kích cỡ gan), đồng thời bổ sung dinh dưỡng, giải độc gan, tăng cường chức năng gan. Song song đó, cần cải thiện môi trường nuôi để giúp cá giảm stress, tăng cường sức đề kháng. Mổ kiểm tra mẫu một số con, khi thấy gan đã hồi phục tốt (gan có màu đặc trưng của loài, kích cỡ phù hợp) thì mới trộn kháng sinh, thảo dược cho cá ăn để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất. 3.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến SXHBDR Dự đoán SXHBDR dựa vào phương trình sau (4,668 0,107*SNKN 3,877*CG 0,783* . .1,044* . ) (4,668 0,107*SNKN 3,877*CG 0,783* . .1,044* . ) . 1 p dietkhuan P Giaman p dietkhuan P Giaman ep e + − + + + − + += + Xác xuất dự đoán của 120 hộ nuôi cá lóc ở Đồng Tháp về bệnh có kết quả 65,8%. Như vậy để dự đoán 1 hộ nuôi có thể gặp bệnh da rắn trong quá trình nuôi hay không có thể dựa vào các điều kiện như số năm kinh nghiệm của hộ nuôi, kích cỡ con giống lúc mới thả và các biện pháp phòng 75 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) bệnh mà hộ nuôi đã thực hiện khi biết các ao nuôi xung quanh đã mắc bệnh da rắn. Có nhiều biến là các yếu tố kỹ thuật của quá trình nuôi cá lóc được đưa vào phân tích trong hàm này. Tuy nhiên, chỉ những biến có mức ý nghĩa (sig) <0,05 là biến có tương quan, được dùng để dự đoán. Bảng 11. Các biến phân tích của mô hình các yếu tố hình thành bệnh da rắn (n = 120) Tên biến Mã hóa Giá trị hằng số β Mức ý nghĩa (sig.) SXHBDR 4,668 0,045 Số năm kinh nghiệm (SNKN) X1 0,107 0,050 Kích cỡ con giống (CG) X2 -3,877 0,033 Phòng bệnh bằng cách diệt khuẩn (P.Dietkhuan) X3 0,783 0,052 Phòng bệnh bằng cách giảm ăn khi điều kiện bất lợi (P.Giaman) X4 1,044 0,055 Kinh nghiệm là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định thành công giúp người nuôi dự đoán rủi ro, hạn chế dịch bệnh, lựa chọn các biện pháp kỹ thuật thích hợp với điều kiện sản xuất thực tế của nông hộ mình nhằm tăng năng suất, chất lượng, giảm chi phí trong quá trình nuôi. Ngoài ra, cỡ giống phù hợp cũng rất quan trọng. Nếu chọn cỡ giống quá nhỏ sẽ làm tăng tỷ lệ hao hụt do sức chống chịu với các yếu tố bất lợi của môi trường kém. Trong điều kiện của ao nuôi cá lóc, mật độ nuôi cao, yếu tố môi trường luôn luôn bất lợi, nguồn nước cấp vào cũng không đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, việc có hay không phòng bệnh khi biết các hộ nuôi xung quanh đang mắc bệnh cũng là yếu tố quyết định sự xuất hiện của bệnh da rắn tại ao nuôi. Cụ thể từ mô hình hồi quy cho thấy, biện pháp diệt khuẩn ao nuôi cũng góp phần quyết định bệnh có xuất hiện không (Bảng 11, sig = 0,052). Khi điều kiện bất lợi như thời tiết giao mùa, nước ao có dấu hiệu ô nhiễm, lúc sử dụng thuốc hóa chất cho ao nuôi thì người nuôi thường chọn biện pháp giảm cho cá ăn như là một giải pháp phòng bệnh để bảo vệ sức khỏe cá nuôi. Tuy nhiên, trong mô hình thì mối tương quan giữa việc giảm ăn (X4) với hiệu quả phòng bệnh da rắn là chưa mạnh (sig. = 0,055). 4. Kết luận Khảo sát vùng nuôi cá lóc tập trung của Đồng Tháp cho thấy bệnh da rắn xuất hiện từ năm 2012. Cho đến thời điểm khảo sát (2016) có 50,8% số hộ trong vùng khảo sát đã từng gặp bệnh da rắn ít nhất 1 lần. Khi phát bệnh, cá có biểu hiện bên ngoài đặc trưng là trắng mình, bong vẩy kết hợp với những bất thường về nội tạng như trắng gan, xuất huyết nội tạng và cá bị bệnh sẽ chết rất nhanh. Người nuôi cũng có các biện pháp xử lý ban đầu như ngưng cho ăn, diệt khuẩn nước ao nuôi, sử dụng kháng sinh, sử dụng các chế phẩm dinh dưỡng bổ sung nhằm nâng cao sức đề kháng của cá nuôi. Tuy nhiên, các biện pháp không thực sự hiệu quả, nên để giảm thiệt hại người dân sẽ bán sau 3 ngày điều trị. Để dự đoán một hộ nuôi có thể sẽ gặp bệnh da rắn hay không thì có thể dựa các yếu tố kinh nghiệm của người nuôi, kích cỡ con giống thả nuôi, các biện pháp phòng bệnh như diệt khuẩn định kỳ và giảm ăn khi điều kiện bất lợi, bằng mô hình hồi quy Binary logistic với xác suất dự đoán là 65,8%./. Tài liệu tham khảo [1]. Keith Brander (2010), Impacts of climate change on fi sheries, Journal of Marine Systems, (79), pp. 389-402. [2]. Dhanaraj, M., Haniffa, M. A. K. (2011), “Effect of probiotics on growth and microbiological changes in snakehead Channa striatus challenged by Aeromonas hydrophila”, African Journal of Microbiololy Research, (5), pp. 4601-4606. [3]. Phạm Minh Đức, Trần Ngọc Tuấn, Trần Thị Thanh Hiền (2012), “Khảo sát mầm bệnh trên cá lóc nuôi ao thâm canh ở An Giang và Đồng Tháp”, Tạp chí Khoa học ĐH Cần Thơ, (số 21b), tr. 124-132. [4]. Hentschel, D. M., K. M. Park, L. Cilenti, A. S. Zervos, I. Drummond, and J. V. Bonventre (2005), “Acute renal failure in zebrafi sh: A novel system to study a complex disease”, Am. J. Physiol.- Renal Physiol., (288), pp. 923-929. 76 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) [5]. Islam, M. J., Rasul, M. G., Kashem, M. A., Hossain, M. M., Liza, A. A., Sayeed, M. A., and Motaher Hossain, M. (2015), “Effect of Oxytetracycline on Thai Silver Barb (Barbonymus gonionotus) and on it’s Culture Environment”, Journal of Fisheries and Aquatic Science, 10 (5), pp. 323-336. [6]. Jaime, R., Carmen, G. F., Paola, N. (2012), Antibiotics in Aquaculture - Use, Abuse and Alternatives, In: Edmir Carvalho (Eds.), Health and Environment in Aquaculture, INTECH Open Access Publisher, 427 pp. [7]. Mishra, A., Gothalwal, R., Shende, K. (2013), “Response of ulcerative disease causing bacterial pathogens of fi sh Channa striatus for different antibiotics”, Bioscience Trends, (6), pp. 540-543. [8]. Robert, R. J. (1978), Fish pathology, Institute of Aquacuture, University of Stirling. Bailliere Tindall, London, 318 pp. [9]. Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung (2009), “Khảo sát các mô hình nuôi cá lóc (Channa micropeltes và Channa striatus) ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản toàn quốc, tr. 436-447, Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh. [10]. Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung (2010), “Hiện trạng và những thách thức cho nghề nuôi cá lóc (Channa micropeltes và Channa striatus) ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, (số 2), tr. 56-63. [11]. Talpur, A. D., Munir, M. B., Mary, A., Hashim, R. (2014), “Dietary probiotics and prebiotics improved food acceptability, growth performance, haematology and immunological parameters and disease resistance against Aeromonas hydrophila in snakehead (Channa striata) fi ngerlings”, Aquaculture, (426-427), pp. 14-20. [12]. Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Thủy Cúc, Nguyễn Châu Phương Lam, Nguyễn Đức Hiền và Đặng Thị Hoàng Oanh (2012), “Đặc điểm mô bệnh học cá rô (Anabas testudineus) nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và Streptococcus sp trong điều kiện thực nghiệm”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, (số 22c), tr. 183-193. [13]. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, Nhà Xuất bản Hồng Đức, 179 trang [14]. Mai Đình Yên (1978), Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía bắc, NXB Đại học tổng hợp Hà Nội. THE CURRENT “SNAKE-SKIN” DISEASE ON SNAKEHEAD FISH POND-FARMED IN DONG THAP PROVINCE Summary A survey was done by interviewing 120 snakehead farming households about the current “snake skin” disease found in the districts Hong Ngu, Tam Nong and Hong Ngu town, and predictions on this disease were made basing on technical factors. Up to 50.8% households reported the disease on their farmings. It was often seen in the dry season. The infected fi sh had white spots over the head, scale loss and inner organs damaged. The households generally treated the disease by pond-disinfecting, adding antibiotics and nutrients in diet to improve the fi sh’s immunity. However, these were ineffective. Binary logistic regression showed that some factors to foretell this disease include stock size, years of farming experience and disinfection and diet reduction. Keywords: Dong Thap, “snake-skin” disease, snakehead farming, snakehead fi sh. Ngày nhận bài: 28/9/2018; Ngày nhận lại: 19/4/2019; Ngày duyệt đăng: 05/9/2019.
File đính kèm:
- hien_trang_benh_trang_minh_da_ran_tren_ca_loc_channa_sp_nuoi.pdf