Giáo dục phòng ngừa bạo lực học đường cho học sinh trung học cơ sở: thực trạng và giải pháp (nghiên cứu tại các trường THCS quận Hải châu thành phố Đà Nẵng)
Giáo dục (GD) phòng ngừa bạo lực học đường (BLHĐ) cho học sinh (HS) Trung học cơ sở
(THCS) là một bộ phận quan trọng của quá trình GD toàn diện HS, góp phần tạo lập môi trường an toàn,
lành mạnh cho HS học tập và phát triển. GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS ở Việt Nam còn nhiều bất
cập, kết quả GD không cao. Những hạn chế có cả ở nhận thức về công tác GD, cả ở nội dung lẫn hình
thức tổ chức, cả kế hoạch lẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện, cả phương pháp lẫn điều kiện GD phòng ngừa
BLHĐ. Để thực hiện thành công mặt GD quan trọng này cần nhận thức lại mục tiêu GD; thống nhất về
nội dung, phương pháp GD; tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất giữa các lực lượng GD
trong Nhà trường, gia đình và xã hội, xây dựng mạng lưới GD HS ở mọi lúc, mọi nơi. Trên cơ sở nghiên
cứu lí luận và thực tiễn GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS, nghiên cứu này đã đề xuất 06 giải pháp
thúc đẩy lĩnh vực GD quan trọng này, góp phần nâng cao chất lượng GD, đáp ứng yêu cầu GD toàn
diện nhân cách HS trong bối cảnh hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo dục phòng ngừa bạo lực học đường cho học sinh trung học cơ sở: thực trạng và giải pháp (nghiên cứu tại các trường THCS quận Hải châu thành phố Đà Nẵng)
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 118 | Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 8, số 2 (2018),118-126 aTrường THCS Nguyễn Huệ, Thành phố Đà Nẵng bTrường Trung cấp Cảnh sát Nhân dân V, Bộ Công an * Tác giả liên hệ Võ Thanh Phước Email: phuoc0304@gmail.com Nhận bài: 11 – 02 – 2018 Chấp nhận đăng: 22 – 06 – 2018 GIÁO DỤC PHÒNG NGỪA BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP (Nghiên cứu tại các trường THCS quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng) Võ Thanh Phướca*, Nguyễn Văn Thịnhb Tóm tắt: Giáo dục (GD) phòng ngừa bạo lực học đường (BLHĐ) cho học sinh (HS) Trung học cơ sở (THCS) là một bộ phận quan trọng của quá trình GD toàn diện HS, góp phần tạo lập môi trường an toàn, lành mạnh cho HS học tập và phát triển. GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS ở Việt Nam còn nhiều bất cập, kết quả GD không cao. Những hạn chế có cả ở nhận thức về công tác GD, cả ở nội dung lẫn hình thức tổ chức, cả kế hoạch lẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện, cả phương pháp lẫn điều kiện GD phòng ngừa BLHĐ. Để thực hiện thành công mặt GD quan trọng này cần nhận thức lại mục tiêu GD; thống nhất về nội dung, phương pháp GD; tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất giữa các lực lượng GD trong Nhà trường, gia đình và xã hội, xây dựng mạng lưới GD HS ở mọi lúc, mọi nơi. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS, nghiên cứu này đã đề xuất 06 giải pháp thúc đẩy lĩnh vực GD quan trọng này, góp phần nâng cao chất lượng GD, đáp ứng yêu cầu GD toàn diện nhân cách HS trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: bạo lực học đường; giáo dục; học sinh; phòng ngừa, trung học cơ sở. 1. Bối cảnh vấn đề Bạo lực học đường (BLHĐ) là một hiện tượng đang trở thành vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước trong một vài thập kỉ gần đây. Theo một công bố mới đây của Hiệp hội Giáo dục (GD) quốc gia Mỹ, BLHĐ ảnh hưởng đến 1/3 học sinh (HS) từ lớp 6 đến lớp 10; 28% HS Mỹ từ lớp 6 - 9 từng chịu BLHĐ, tỉ lệ này ở HS từ lớp 10 - 12 là 20%; 30% thanh thiếu niên thừa nhận từng bắt nạt người khác; gần 70% trong số HS bị bạo hành đều nói rằng Nhà trường đã không có biện pháp thiết thực đối với tình trạng này và chỉ có 20 - 30% HS bị bắt nạt thường thông báo cho người lớn về sự việc; 9/10 thanh thiếu niên thuộc nhóm LGBT (đồng tính) bị bạo hành bằng lời nói tại trường trong năm 2012 nhằm vào giới tính của họ. Những nghiên cứu gần đây ở Mỹ đã chỉ ra rằng cứ 7 phút lại có một trẻ em bị bắt nạt; cứ 4 trẻ lại có một trẻ thừa nhận từng bắt nạt trẻ khác. Một cuộc thăm dò thực hiện ở trẻ có độ tuổi 12 - 17 cho kết quả các em đều thừa nhận bạo lực đang gia tăng ở trường học của mình, mỗi tháng có 282.000 HS ở các trường THCS Mỹ bị tấn công [14]. Cũng tại Mỹ, nghiên cứu của Hội đồng phòng ngừa tội phạm quốc gia (NCPC) cũng khẳng định 43% HS cả nam lẫn nữ thuộc độ tuổi từ 13 - 17 tuổi từng bị dọa nạt hoặc chế giễu trên internet [2] [4]. Theo các nghiên cứu thực hiện ở Châu Âu, BLHĐ xảy ra thường xuyên ở trường tiểu học, liên quan tới khoảng 15% số HS. Ở trung học cơ sở (THCS), tỉ lệ HS bị bắt nạt là từ 3% - 10%, với mức độ cao đột biến ở độ tuổi 13 - 14, khi các em HS bắt đầu tuổi dậy thì. Đến cấp trung học phổ thông (THPT), nạn bạo lực học đường bắt đầu có xu hướng giảm đi [2]. Tại châu Á, theo một nghiên cứu của Chính phủ Nhật Bản, nạn bắt nạt bạn trong trường học Nhật Bản tăng hơn 5% trong năm 2003 so với năm trước đó. Sách trắng về thanh thiếu niên năm 2013 thống kê 23.351 vụ bắt nạt trong các trường tiểu học và trung học công lập ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 8, số 2 (2018),118-126 119 cùng với các trường khiếm thính, khiếm thị và khuyết tật khác. Con số này vượt hơn năm trước 1.046 vụ, tăng 5,16%. Đây là lần tăng đầu tiên trong 8 năm qua. Các vụ bắt nạt trong trường học lên tới đỉnh điểm vào năm 1995 với 60.096 vụ [12]. Hàn Quốc cũng được coi là một trong những quốc gia có nạn bạo lực học đường nhức nhối trên thế giới. Theo kết quả khảo sát của Quỹ phòng ngừa bạo lực thanh thiếu niên Hàn Quốc tháng 11 và 12 năm 2009, trong số 4.073 HS tại 64 trường tiểu học và trung học có 20% thừa nhận từng bị bắt nạt ở trường, 63% nạn nhân phải “nếm” đòn bạo lực ngay khi mới học tiểu học. Con số này cao hơn 6 - 7% so với số liệu thống kê năm 2007 (56,1%) và năm 2008 (56,8%). Tệ nạn này xảy ra nghiêm trọng đối với HS nữ hơn HS nam. Đáng lưu ý, nhiều HS đã không ý thức được hành vi bạo lực của mình. Khoảng 36% HS Hàn Quốc coi việc bắt nạt như một trò đùa, 20% thừa nhận hành vi bắt nạt bạn là không có lí do đặc biệt. Theo điều tra, số HS thường xuyên bắt nạt các bạn học khác thường hay xem phim bạo lực, hoặc do hoàn cảnh gia đình. 51,5% người được hỏi thừa nhận, thường xuyên chơi và xem phim, game bạo lực [13]. Tại Nam Phi, Cao ủy Nhân quyền Nam Phi cho thấy 40% trẻ em được phỏng vấn nói rằng chúng từng là các nạn nhân của tội phạm tại trường học; chỉ 23% HS cảm thấy an toàn khi đặt chân tới lớp; hơn 1/5 số vụ tấn công tình dục nhằm vào trẻ em được phát hiện diễn ra tại trường học. Có 60% HS tại các trường học ở Ethiopia trong năm 1996 cho rằng bạo lực có tác động tiêu cực đến việc học cũng như những cảm xúc của các em và 40% cho rằng các em khác bỏ học vì bạo lực (IBE, 1997). Ở các nước Đông Nam Á, tình trạng BLHĐ cũng diễn ra tương tự [2], [7]. Ở Việt Nam, BLHĐ được nghiên cứu trong các công trình của hàng loạt tác giả như: Phạm Hoàng Hà (2002); Nguyễn Phương Thảo và cộng sự (2005); Hoàng Gia Trang (2005); Nguyễn Thị Phương (2006); Trần Thị Minh Đức (2010); Trần Thị Tú Anh (2012). Các nghiên cứu tập trung làm rõ thực trạng, nguyên nhân của tình trạng BLHD ở HS các lứa tuổi khác nhau. Về thực trạng BLHĐ, theo số liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoản ... T Các hình thức GD phòng ngừa bạo lực học đường Mức độ Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ SL % SL % SL % 1 Thông qua hoạt động dạy học 168 33,6 278 55,6 54 10,8 2 Hoạt động GD ngoài giờ lên lớp (văn hóa văn nghệ, TDTT,...) 318 63,6 158 31,5 24 4,9 3 Thông qua sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ 213 42,6 280 56,0 7 1,4 4 Thông qua các hoạt động từ thiện, nhân đạo 158 31,6 323 64,6 19 3,8 5 Thông qua hoạt động tự rèn luyện, tự tu dưỡng của HS 193 38,6 243 48,6 64 12,8 6 Thông qua tấm gương đạo đức của chính thầy cô giáo 208 41,6 243 48,6 49 9,8 Về các lực lượng xã hội tham gia GD phòng ngừa BLHĐ: kết quả phỏng vấn HS cho thấy: 41,7% các em nói rằng bị cha mẹ “mắng chửi và đánh” khi con cái có hành vi bạo lực; chỉ có 9,4% cha mẹ dùng biện pháp “khuyên bảo nhẹ nhàng”; 6,3% - cha mẹ yêu cầu phải “xin lỗi bạn”; và có đến 42,6% nói rằng “cha mẹ không quan tâm đến hành vi đánh nhau của con cái”. Không có HS nào kể được trường hợp có sự tham gia của các lực lượng xã hội vào công tác GD phòng ngừa BLHĐ hay hỗ trợ HS bị bạo lực. Về quản lí công tác GD phòng ngừa BLHĐ, kết quả phỏng vấn cho thấy có 85% GV và 82% HS cho rằng Nhà trường có kế hoạch, chương trình cụ thể về hoạt động của Ban chỉ đạo GD phòng ngừa BLHĐ ngay từ đầu năm học; 14,3% CBQL cho rằng Nhà trường “rất thường xuyên” chỉ đạo việc xây dựng chương trình, kế hoạch GD phòng ngừa BLHĐ. Tuy nhiên, 85,7% thành viên Ban chỉ đạo cho rằng chưa thường xuyên theo dõi hoạt động GD phòng ngừa BLHĐ, chưa thực hiện nghiêm túc các buổi trực theo chỉ đạo của Nhà trường, chưa thường xuyên duyệt kế hoạch, chương trình GD phòng ngừa BLHĐ; 41,7% GV và 35,7% CBQL cho rằng công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác GD phòng ngừa BLHĐ không hiệu quả. Mức độ hiệu quả của quản lí hoạt động này không cao: chỉ 7,1% GV và 14,3% CBQL chọn mức “rất hiệu quả”. Các kết quả khảo sát nêu trên cho thấy những bất cập lớn trong hoạt động GD phòng ngừa BLHĐ ở các trường THCS, cả trong nhận thức về mục tiêu, thực hiện hoạt động GD và quản lí hoạt động GD này. Cần thiết phải có những giải pháp triệt để khắc phục những nhược điểm và thúc đẩy hoạt động GD này đạt đến hiệu quả cần thiết. 3.2. Đề xuất các giải pháp GD phòng ngừa BLHĐ Võ Thanh Phước , Nguyễn Văn Thịnh 124 Trên cơ sở thực trạng vấn đề được khảo sát, dựa trên nền tảng lí luận GD học và quản lí GD, nghiên cứu tập trung đề xuất các giải pháp GD phòng ngừa BLHĐ cho HS ở các trường THCS. Các giải pháp được đề xuất dựa trên nguyên tắc: 1) Đảm bảo tính đồng bộ -tác động đồng bộ vào các yếu tố của quá trình GD; 2) Đảm bảo tính hiệu quả - đạt được kết quả như dự kiến ban đầu; 3) Đảm bảo tính thực tiễn - sát với thực tiễn, có tính khả thi cao, đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ GD; 4) Đảm bảo tính hệ thống - sử dụng đồng thời cả hệ thống giải pháp, không sử dụng đơn lẻ từng giải pháp. Các giải pháp đề xuất bao gồm: 1) Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho CBQL, GV, phụ huynh và các lực lượng xã hội tham gia GD về công tác GD phòng ngừa bạo lực học đường; 2) Bồi dưỡng nghiệp vụ GD và quản lí HS cho lực lượng GV chủ nhiệm, GV bộ môn và cho đội ngũ những người làm công tác Đội trong Nhà trường THCS; 3) Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa với nhiều hình thức đa dạng, phong phú với mục đích GD cho HS các kỹ năng sống; 4) Xây dựng và triển khai phong trào thi đua không có hành vi bạo lực học đường; 5) Tăng cường kết hợp chặt chẽ giữa Nhà trường với gia đình, các tổ chức chính trị - đoàn thể trong GD phòng ngừa bạo lực học đường và quản lí HS; 6) Xây dựng Phòng tư vấn tâm lí và tổ chức tốt công tác tham vấn tâm lí cho học sinh, GV, CMHS và các lực lượng GD khác. Giải pháp “Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí, GV, phụ huynh và các lực lượng xã hội tham gia GD về công tác GD phòng ngừa bạo lực học đường” tập trung vào nâng cao nhận thức của các chủ thể GD về nội dung, ý nghĩa, phương pháp, trách nhiệm đối với GD phòng ngừa BLHĐ cho HS. Các hình thức tác động bao gồm: thiết lập và giới thiệu Ban chỉ đạo GD phòng ngừa BLHĐ của Nhà trường đến toàn thể HS, CMHS, các lực lượng GD ngay từ đầu năm học mới; tuyên truyền dưới cờ vào các buổi chào cờ đầu tuần về các nội dung, hình thức, hoạt động GD, đặc biệt về các hình thức tư vấn cho HS; tổ chức các buổi hoạt động tuyên truyền, hội thảo trong Hội đồng sư phạm Nhà trường, trong GV chủ nhiệm, Đoàn, Đội; thống nhất cách thức hoạt động, phát phiếu thông tin về điện thoại, tên của các thành viên trong Ban chỉ đạo GD phòng ngừa BLHĐ trong các cuộc họp với CMHS. Giải pháp “Bồi dưỡng nghiệp vụ GD và quản lí HS cho lực lượng GV chủ nhiệm, GV bộ môn và cho đội ngũ những người làm công tác Đội trong Nhà trường THCS” thực hiện thông qua việc mời tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng do Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT tổ chức; mời các báo cáo viên tổ chức bồi dưỡng và góp ý kiến trực tiếp qua kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì; tổ chức tọa đàm, hội thảo về công tác GD phòng ngừa BLHĐ cho HS; tập huấn các kĩ năng kiềm chế bản thân, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng và hòa giải cho GV và HS. Tổ chức bồi dưỡng cho CMHS kiến thức về sự phát triển tâm sinh lí của HS. Giải pháp “Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa với nhiều hình thức đa dạng, phong phú với mục đích GD cho HS các kĩ năng sống” được thực hiện với sự phối hợp của các cơ quan chức năng, các đoàn thể xã hội, gia đình HS. Ở đây cần phát huy thế mạnh của phương pháp GD lấy HS làm trung tâm, tăng cường giao tiếp hai chiều, tổ chức các hoạt động vui chơi bổ ích để các em được bày tỏ, được thể hiện, được khẳng định mình. Phối hợp với chính quyền, công an địa phương quản lí, giám sát đối với các cơ sở kinh doanh các dịch vụ giải trí và nới sinh hoạt công cộng. Giải pháp “Xây dựng và triển khai phong trào thi đua không có hành vi bạo lực học đường” tập trung phát hiện ra những kinh nghiệm tích cực để kịp thời động viên, khuyến khích, đồng thời tìm ra những sai sót, lệch lạc, mâu thuẫn với mục tiêu dự kiến, những mặt còn yếu kém, khó khăn trở ngại, những vấn đề mới nảy sinh cần giải quyết, những nguyên nhân của tồn tại. Gắn các nội dung GD phòng ngừa bạo lực học đường và tệ nạn xã hội với các tiêu chí bình xét thi đua của CBQL, GV, HS. Giải pháp “Tăng cường kết hợp chặt chẽ giữa Nhà trường với gia đình, các tổ chức chính trị - đoàn thể trong GD phòng ngừa bạo lực học đường và quản lí HS” tập trung vào việc đưa mục tiêu, nội dung GD trong Nhà trường vào hoạt động của các tổ chức xã hội trong địa phương như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Câu lạc bộ những người cao tuổi, nhằm thống nhất các tác động đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Phát huy vai trò Nhà trường là trung tâm văn hóa GD của địa phương, tổ chức việc phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, văn hóa xã hội, đặc biệt là những kiến thức về GD trẻ trong điều kiện xã hội phát triển theo cơ chế thị trường ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 8, số 2 (2018),118-126 125 đang rất phức tạp. Phối hợp với địa phương tổ chức cho HS tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa xã hội như: xóa đói giảm nghèo, dân số kế hoạch hóa gia đình, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng gia đình văn hóa mới, nhằm góp phần xây dựng môi trường gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giải pháp “Xây dựng Phòng tư vấn tâm lí và tổ chức tốt công tác tham vấn tâm lí cho học sinh, GV, CMHS và các lực lượng GD khác” hướng đến thực hiện thực chất nhiệm vụ tư vấn tâm lí trong Nhà trường [10]. Ở giải pháp này các nội dung chính là: thành lập tổ tư vấn; xây dựng kế hoạch hoạt động và thực hiện tham vấn cho từng GV, HS, CMHS. Thành lập trang Tư vấn tâm lí trên Website trường và đăng tải các hoạt động tư vấn tâm lí của Nhà trường; vận động HS tham gia vào đội cộng tác viên tư vấn tâm lí. Để đánh giá tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất, trong nghiên cứu này đã trưng cầu ý kiến của 168 chuyên gia, giảng viên, GV và CBQL từ 5 trường THCS quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và từ Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Kết quả khảo nghiệm cho thấy các giải pháp đều nhận được sự đồng thuận cao. Về tính cần thiết: trung bình là 89,3% đối tượng được hỏi đồng thuận cao, trong đó giải pháp 1 có 100% và giải pháp 6 có 80% ý kiến đồng thuận. Về tính khả thi của các giải pháp: giải pháp 1 được đánh giá cao nhất với 100% ý kiến đồng thuận; giải pháp 2- 92,3%; giải pháp 3-89,3%; giải pháp 4-80,4%; giải pháp 5-85,7% và giải pháp 6-77,4% ý kiến đồng thuận. Kết quả này cho thấy cả 6 giải pháp hoàn toàn có thể áp dụng trong điều kiện thực tế hiện nay của các trường THCS và phù hợp với đại bộ phận các lực lượng tham gia vào hoạt động GD phòng ngừa BLHĐ cho HS. 4. Kết luận GD phòng ngừa BLHĐ cho HS là một bộ phận quan trọng trong quá trình GD toàn diện HS, góp phần tạo lập môi trường an toàn, lành mạnh cho các em HS học tập và phát triển. GD phòng ngừa BLHĐ đòi hỏi sự thống nhất về mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp và hình thức nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế những mặt yếu của từng lực lượng GD để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Thực tiễn GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS còn nhiều bất cập, kết quả GD không cao. Những hạn chế, tồn tại có cả ở nhận thức về công tác GD, cả ở nội dung lẫn hình thức tổ chức, cả kế hoạch lẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện, cả phương pháp lẫn điều kiện tổ chức GD phòng ngừa BLHĐ. Công tác GD phòng ngừa BLHĐ vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Để thực hiện thành công mặt GD quan trọng này cần nhận thức lại mục tiêu GD; thống nhất trong nội dung, phương pháp GD; tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất giữa các lực lượng GD trong Nhà trường, gia đình và xã hội để xây dựng mạng lưới GD HS ở mọi lúc, mọi nơi. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn GD phòng ngừa BLHĐ cho HS THCS, nghiên cứu này đã đề xuất 06 giải pháp thúc đẩy lĩnh vực GD quan trọng này. Các giải pháp được đề xuất trên đây nếu được thực hiện đồng bộ, kết hợp hợp lý, khoa học sẽ phát huy tác dụng một cách tối ưu trong việc nâng cao chất lượng GD, đáp ứng yêu cầu GD toàn diện nhân cách HS. Tài liệu tham khảo [1] Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 12/11/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện GD và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. [2] Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị Mai Lan (2013). Bạo lực đường Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ tâm lí học. NXB Từ điển Bách khoa. [3] Nguyễn Thị Cẩm (2012). Bạo lực học đường và những hậu quả. Kỉ yếu hội thảo khoa học, Trường Đại học Hà Tĩnh. [4] Lê Văn Cương, Trương Như Vương, Trương Đức Thành, Kim Khuê (1999). Tâm lý tội phạm và vấn đề chống tội phạm. NXB Công an nhân dân. [5] Nguyễn Minh Đức (chủ biên), Trần Cảnh Hưng, Nguyễn Trường Giang (2011). Phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong học đường. NXB Công an nhân dân. [6] Đỗ Thị Ngọc Khanh (2014). Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi. Tạp chí Tâm lý học, 11-11/2014. [7] Nguyễn Văn Lượt (2009). Bạo lực học đường: Nguyên nhân và một số biện pháp hạn chế. Tạp chí Thế giới mới, 864, 14/12/2009. [8] Đỗ Thị Nga (2014). Bạo lực học đường và hậu quả đối với nạn nhân bị bạo lực học đường. Tạp chí Tâm lý học, 11. [9] Ngô Minh Oanh (2014). Bạo lực học đường nhìn từ góc độ đạo đức. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Thực trạng và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường Võ Thanh Phước , Nguyễn Văn Thịnh 126 trong trường phổ thông, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. [10] Lê Quang Sơn (2016). Sự khác biệt về vai trò giữa nhà tâm lý học đường với nhà giáo và những vấn đề đặt ra cho công tác tâm lý học đường. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế lần V Phát triển tâm lý học học đường trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 91-98. [11] Thủ tướng Chính phủ (2017). Nghị định 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017, đã quy định trách nhiệm bảo đảm môi trường GD an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống BLHD. [12] Bullying cases in Japanese schools hit record high in 2016, Kyodo News, 26th Oct. 2017. [13] Kim Jae-Won (2013). School violence unveils ugly aspects of Korea. The Korea Times, March, 18. [14] National Center for Injury Prevention and Control (2016). Division of Violence Prevention, Understanding school violence. Fact sheet. VIOLENCE PREVENTION EDUCATION FOR SECONDARY SCHOOL STUDENTS: STATUS AND SOLUTIONS (Case studies from secondary schools at Hai Chau district, Danang city) Abstract: Violence Prevention Education (VPE) for secondary school students is an important part of the comprehensive education process, contributing to the creation of a safe, healthy environment for students to study and develop. VPE for secondary school children in Vietnam still has many shortcomings, the results of VPE is not high. Limitations include both the content and the methodology, both the plan and the implementing organization, both organization form and the conditions for implementation. In order to get successfully about VPE, we need re-realize the goal of education; unified content, methods of education; to create a coherent, synchronous and unified relationship between educational forces, the family and the society, to build an educational network for children any where, any time. Based on theoretical and practical research on VPE for secondary school students. The reseach proposes six measures to promote this project, contributes to the improvement of quality of education for students today. Key words: school violence; education; students; prevention; secondary school.
File đính kèm:
- giao_duc_phong_ngua_bao_luc_hoc_duong_cho_hoc_sinh_trung_hoc.pdf