Đo lường hiệu quả đầu ra cho các ao nuôi cá tra đồng bằng sông Cửu Long
Nghiên cứu phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng sông Cửu Long bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) theo mô hình tối đa hóa đầu ra. Theo phương pháp DEA tối đa hóa đầu ra trong trường hợp quy mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (CRS), chỉ có 9,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,57, mức cần tăng năng suất trung bình là 88,54% so với mức hiện tại; trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (VRS), chỉ có 19,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,7, mức cần tăng năng suất trung bình là 47,9% so với mức hiện tại, trong trường hợp hiệu quả qui mô (SE) có 13,16% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả qui mô, hệ số hiệu quả trung bình là 0,82. Các ao nuôi cá Tra chưa đạt hiệu quả một phần là do quản lý kém, phần còn lại là do trình độ công nghệ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đo lường hiệu quả đầu ra cho các ao nuôi cá tra đồng bằng sông Cửu Long
30 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, cá Tra đã trở thành một trong những đối tượng nuôi chủ yếu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hằng năm đóng góp khoảng 2% GDP và 32% giá trị xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam (VASEP, 2008). Giai đoạn 1998-2008, diện tích nuôi cá Tra đã tăng 7 lần, sản lượng thu hoạch tăng đến 36 lần và sản lượng xuất khẩu tăng hơn 40 lần (AGROVIET, 2008). Năm 2010, giá trị cá Tra xuất khẩu đạt mức kỷ lục là 1,5 tỷ USD, và đã xuất sang hơn 130 quốc gia trên thế giới (VASEP, 2009). Sự phát triển nghề nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy rằng điều quan trọng là phải nhìn vào hiệu quả của quá trình sản xuất, nhằm tìm kiếm giải pháp tăng đầu ra hơn nữa dựa trên các yếu tố đầu vào có sẵn, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển nuôi. Phân tích màng bao dữ liệu (DEA) là một phương pháp phân tích, ví dụ, đo lường hiệu quả đầu ra và xác định một phần của đầu ra có thể tăng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đo lường hiệu quả đầu ra của nghề nuôi cá Tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam để đề xuất nhà quản lý và người nuôi tăng cường giải pháp kỹ thuật và quản lý ao nuôi đạt hiệu quả. II. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Dữ liệu nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các ao nuôi cá Tra tại Đồng bằng sông Cửu Long năm 2010 với 6 biến số đầu vào là lượng lao động, chi phí xăng dầu, chi phí tiền điện, chi phí hóa chất, số lượng thức ăn, số lượng con giống, và 01 biến đầu ra là năng suất thu hoạch, số lượng mẫu nghiên cứu là 190 mẫu (bảng 1). Trong thực tế, hiệu quả đầu ra cá Tra ngoài các yếu tố trên còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác như: mực nước ao, diện tích ao, môi trườngViệc chọn biến đầu ra và đầu vào trong nghiên cứu này dựa trên ý kiến của người nuôi và các chuyên gia. ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ ĐẦU RA CHO CÁC AO NUÔI CÁ TRA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Đặng Hoàng Xuân Huy1 TÓM TẮT Nghiên cứu phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng sông Cửu Long bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) theo mô hình tối đa hóa đầu ra. Theo phương pháp DEA tối đa hóa đầu ra trong trường hợp quy mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (CRS), chỉ có 9,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,57, mức cần tăng năng suất trung bình là 88,54% so với mức hiện tại; trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (VRS), chỉ có 19,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,7, mức cần tăng năng suất trung bình là 47,9% so với mức hiện tại, trong trường hợp hiệu quả qui mô (SE) có 13,16% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả qui mô, hệ số hiệu quả trung bình là 0,82. Các ao nuôi cá Tra chưa đạt hiệu quả một phần là do quản lý kém, phần còn lại là do trình độ công nghệ. Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, cá Tra, DEA, TECRS, TEVRS, SE 1 Khoa Kinh tế, Trường ĐH Nha Trang Email: danghuyntu@yahoo.com 31TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 2.2. Phương pháp nghiên cứu Có hai phương pháp đo lường hiệu quả kỹ thuật phổ biến là: phân tích màng dữ liệu (Data Envelopment Analysis – DEA) và phân tích đường biên ngẫu nhiên (schochastic frontier analysis – SFA), trong đó SFA sử dụng phương pháp tham số (parametric methods), DEA dựa theo phương pháp phi tham số (non – parametric methods) để ước lượng giới hạn khả năng sản xuất dựa trên các quan sát thực tế. DEA được phát triển bởi Charnes, Cooper, và Rhodes vào năm 1978. Có hai phương pháp tiếp cận ước lượng giới hạn khả năng sản xuất là: phân tích màng dữ liệu trong trường hợp qui mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (Constant Return to Scale - CRS) và phân tích màng dữ liệu trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (Variable Return to Scale - VRS). Cả hai mô hình DEA CRS và DEA VRS đều được xây dựng với giả thiết tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào mà không làm giảm sút đầu ra và tối đa hóa đầu ra dựa trên đầu vào có sẵn. Trong bài viết này đối với mô hình DEA CRS và DEA VRS , tác giả chỉ đo lường hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối đa hóa đầu ra dựa vào các yếu tố đầu vào có sẵn. Hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối đa hóa đầu ra được coi là khả năng của một ao nuôi trong việc sản xuất tối đa đầu ra trong điều kiện đầu vào cho trước. Ví dụ giả định với một đầu ra là q và hai đầu vào là x1, x2 (hình 1) các ao nuôi A nằm trên đường hiệu quả do đó ao A là ao đạt hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối đa hóa đầu ra. Trong khi đó, ao P là không đạt hiệu quả được phản ánh bằng khoảng cách từ P đến P’ với hệ số hiệu quả kỹ thuật TE= OP/OP’, nghĩa là có thể tối đa hóa đầu ra của ao nuôi P mà không làm ảnh hưởng đến đầu vào. Bảng 1: Một số giá trị thống kê của các biến dùng trong phân tích STT Biến số Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn Đầu vào 1. Lao động (người/ha) 7,83 2,00 25,00 5,07 2. Chi phí xăng dầu (triệu đồng/ha) 32.640.419,78 1.176.470,58 338.461.538,46 49.553.322,61 3. Chi phí tiền điện (triệu đồng/ha) 11.795.398,49 140.000,00 180.000.000,00 25.284.661,50 4. Chi phí hóa chất (triệu đồng/ha) 65.434.310,82 560.000,00 414.000.000,00 67.499.996,16 5. Con giống (con /ha) 507.574,71 100.000,00 3.150.000,00 302.643,96 6. Thức ăn (tấn/ha) 581,99 121,42 1.360,00 205,26 Đầu ra 7. Năng suất (tấn/ha) 375,08 71,42 800,00 132,68 32 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 1: DEA định hướng đầu ra Trong những năm gần đây, có rất nhiều nghiên cứu đã tách hiệu quả kỹ thuật (TE) trong trường hợp qui mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất Constant Return to Scale - CRS ra làm hai phần: (i) sự không hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào thuần túy (“pure” technical inefficiency”); (ii) sự không hiệu quả do qui mô ... VRS – DEA đối với từng ao nuôi cụ thể, chúng ta kết luận rằng có sự không hiệu quả về mặt qui mô. Chúng ta có : TECRS = TEVRS x SE Hệ số hiệu quả TECRS, TEVRS, SE trong mô hình phân tích màng dữ liệu tối đa hóa đầu ra luôn nằm trong khoảng từ 0 đến 1 (Coelli et al, 2005). III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả nghiên cứu 3.1.1. Hệ số hiệu quả kỹ thuật Kết quả nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối đa hóa đầu ra cho các ao nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng sông Cửu Long được trình bày như ở bảng 2. Bảng 2: Hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối đa hóa đầu ra cho các ao nuôi cá Tra tại Đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp DEA Giá trị hiệu quả CRSTE (Constant Return to Scale) VRSTE (Variable Return to Scale) SE (Scale Efficiency) Số Tỷ lệ (%) Số Tỷ lệ (%) Số Tỷ lệ (%) <0,2 2 1,05 0 0,00 0 0,00 0,2 - 0,4 43 22,63 11 5,79 3 1,58 0,4-0,6 70 36,84 59 31,05 17 8,95 0,6 – 0,8 45 23,68 59 31,05 57 30,00 0,8 -1,0 12 6,32 24 12,63 88 46,32 1,0 18 9,47 37 19,47 25 13,16 Tổng số mẫu 190 100,00 190 100,00 190 100,00 Hệ số hiệu quả (θ ) - Trung bình 0,57 0,7 0,82 - Khoảng biến thiên 0,13 -1,0 0,27 -1,0 0,32 -1,0 - Độ lệch chuẩn 0,21 0,21 0,16 33TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Mô hình CRS: hệ số hiệu quả kỹ thuật trung bình là 0,57, độ lệch chuẩn 0,21, khoảng biến thiên từ 0,13 -1,0. Trong đó: + Hệ số hiệu quả kỹ thuật dưới 0,2: có 2 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 1,05% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,2 đến dưới 0,4: có 43 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 22,63% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,4 đến dưới 0,6: có 70 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 36,84% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,6 đến dưới 0,8: có 45 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 23,68% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 đến dưới 1,0: có 12 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 6,32% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật đạt 1,0: có 18 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 9,47% tổng số mẫu nghiên cứu. Mô hình VRS: hệ số hiệu quả kỹ thuật trung bình là 0,7, độ lệch chuẩn 0,21, khoảng biến thiên từ 0,27 -1. Trong đó: + Hệ số hiệu quả kỹ thuật dưới 0,2: có 0 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 0% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,2 đến dưới 0,4: có 11 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 5,79% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,4 đến dưới 0,6: có 59 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 31,05% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,6 đến dưới 0,8: có 59 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 31,05% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 đến dưới 1,0: có 24 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 12,63% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật đạt 1,0: có 37 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 19,47% tổng số mẫu nghiên cứu Mô hình SE: hệ số hiệu quả kỹ thuật trung bình là 0,82, độ lệch chuẩn 0,16, khoảng biến thiên từ 0,32 -1,0. Trong đó: + Hệ số hiệu quả kỹ thuật dưới 0,2: có 0 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 0% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,2 đến dưới 0,4: có 3 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 1,58% tổng số mẫu nghiên cứu. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,4 đến dưới 0,6: có 17 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 8,95% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,6 đến dưới 0,8: có 57 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 30% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 đến dưới 1,0: có 88 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 46,32% tổng số mẫu nghiên cứu + Hệ số hiệu quả kỹ thuật đạt 1,0: có 25 ao nuôi, chiếm tỷ lệ 13,16% tổng số mẫu nghiên cứu 3.1.2. Mức tăng theo hướng tối đa hóa đầu ra Từ kết quả nghiên cứu, cho thấy rằng rất nhiều ao nuôi chưa đạt hiệu quả kỹ thuật là nguyên nhân do quản lý kém. Do đó, cần phải tăng năng suất đầu ra hơn nữa dựa trên các yếu tố đầu vào sẵn có. Mức tăng theo hướng tối đa hóa đầu ra cho các ao nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng Sông Cửu Long được trình bày như ở bảng 3. 34 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Mô hình CRS + Mức cần tăng thêm năng suất trung bình của các ao nuôi trong mẫu nghiên cứu là 332 tấn (tương đương tăng thêm 88,54% so với mức hiện tại), độ lệch chuẩn là 242, khoảng biến thiên từ 0 - 1.148. Trong đó: + Hệ số hiệu quả kỹ thuật dưới 0,2: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 1.062 tấn (tương đương tăng thêm 574% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,2 đến dưới 0,4: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 559 tấn (tương đương tăng thêm 185% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,4 đến dưới 0,6: Mức cần tăng của năng suất trung bình các ao nuôi là 406 tấn (tương đương tăng thêm 108% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,6 đến dưới 0,8: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 170 tấn (tương đương tăng thêm 43% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 đến dưới 1,0: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 70 tấn (tương đương tăng thêm 18% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật đạt 1,0: Không có ao nuôi nào đạt hiệu quả này. Mô hình VRS + Mức cần tăng thêm năng suất trung bình của các ao nuôi trong mẫu nghiên cứu là 180 tấn (tương đương tăng thêm 47,95% so với mức hiện tại), độ lệch chuẩn là 130, khoảng biến thiên từ 0 -471. Trong đó: Bảng 3: Mức tăng theo hướng tối đa hóa đầu ra cho các ao nuôi cá Tra Đồng bằng sông Cửu Long Giá trị hiệu quả Năng suất - CRS Năng suất - VRS Dữ liệu Cần tăng thêm % Cần tăng thêm Dữ liệu Cần tăng thêm % Cần tăng thêm <0,2 185 1.062 574 - - - 0,2 - 0,4 302 559 185 212 386 182 0,4-0,6 377 406 108 311 299 96 0,6 – 0,8 399 170 43 404 182 45 0,8 -1,0 378 70 18 439 65 15 1,0 499 - - 438 - - - Trung bình 375 332 88,54 375 180 47,95 - Khoảng biến thiên 71 -800 0 -1.148 - 71- 800 0 -471 - - Độ lệch chuẩn 133 242 - 133 130 - 35TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 + Hệ số hiệu quả kỹ thuật dưới 0,2: Không có ao nuôi nào đạt hiệu quả này. + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,2 đến dưới 0,4: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 386 tấn (tương đương tăng thêm 182% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,4 đến dưới 0,6: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 299 tấn (tương đương tăng thêm 96% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,6 đến dưới 0,8: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 182 tấn (tương đương tăng thêm 45% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật từ 0,8 đến dưới 1,0: Mức cần tăng năng suất trung bình của các ao nuôi là 65 tấn (tương đương tăng thêm 15% so với mức hiện tại). + Hệ số hiệu quả kỹ thuật đạt 1,0: Không có ao nuôi nào đạt mức hiệu quả này. 3.2. Thảo luận Kết quả phân tích bằng phương pháp DEA tối đa hóa đầu ra trong trường hợp quy mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất CRS, cho thấy tại Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 9,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,57, mức cần tăng năng suất trung bình là 88,54% so với mức hiện tại; trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất VRS chỉ có 19,47% số ao cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,7, mức cần tăng năng suất trung bình là 47,9% so với mức hiện tại; trong trường hợp hiệu quả qui mô có 13,16% số ao cá Tra đạt hiệu quả qui mô, hệ số hiệu quả trung bình là 0,82. Nguyên nhân của sự không hiệu quả của các ao nuôi cá Tra là do sự không hiệu quả kỹ thuật thuần túy (“pure” technical inefficiency”), tức do quản lý kém và kỹ thuật nuôi, sự không hiệu quả do qui mô (Scale inefficiency), tức do không đạt được qui mô tối ưu. Hệ số hiệu quả kỹ thuật trung bình của cá Tra Việt Nam là tương đồng với các ao nuôi cá da trơn tại Chicot, Arkansas, Mỹ với hệ số 0,57 đối với mô hình CRS, 0,73 đối với mô hình VRS. Tuy nhiên, hiệu quả theo qui mô trung bình của các ao nuôi cá Tra Việt Nam (0,82) cao hơn các ao nuôi cá da trơn tại Chicot (0,77) (Kaliba và Engle, 2006). Cũng có thể tham khảo một số nghiên cứu khác như Sharma và Lueng (1998) chỉ ra rằng hiệu quả kỹ thuật trung bình của cá Chép ở Nepal là 0,77; Iinuma, Sharma và Lueng (1999) chỉ ra hiệu quả kỹ thuật trung bình của cá Chép ở Peninsula, Malaysia là 42%; Au (2009) chỉ ra rằng chỉ số hiệu quả kỹ thuật của các hộ nuôi xem tôm sú – cá kình ở phá Tam Giang, Việt Nam bình quân 0,91 với nguyên nhân chính của phi hiệu quả là do qui mô không hợp lý; Huy (2009) chỉ ra rằng hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi tôm sú thương phẩm tại các huyện ở tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam có tỷ lệ khác nhau, cụ thể tại Cam Ranh đạt hiệu quả cao nhất với 42% là nhờ vào vị trí địa lý, Nha Trang và Ninh Hòa có tỷ lệ thấp nhất lần lượt là 25 và 24% do gần khu dân cư, các nhà máy chế biến, các khu du lịch. Nghiên cứu chỉ dừng lại ở hướng tối đa hóa đầu ra với các yếu tố đầu vào cho trước để tính mức cần tăng năng suất so với hiện tại. Nghiên cứu tiếp theo cần nghiên cứu theo hướng tối thiểu hóa đầu vào với các đầu ra cho trước để tính đầu vào cần giảm. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Nghiên cứu phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi cá Tra thương phẩm tại Đồng bằng sông Cửu Long bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) theo mô hình tối đa hóa đầu ra. Theo phương pháp DEA tối đa hóa đầu ra trong trường hợp quy mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (CRS), chỉ có 9,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 0,57, mức cần tăng năng suất trung bình là 88,54% so với mức hiện tại; trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (VRS), chỉ có 19,47% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả kỹ thuật, hệ số hiệu quả trung bình là 36 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 0,7, mức cần tăng năng suất trung bình là 47,9% so với mức hiện tại, trong trường hợp hiệu quả qui mô (SE) có 13,16% số ao nuôi cá Tra đạt hiệu quả qui mô, hệ số hiệu quả trung bình là 0,82. Các ao nuôi cá Tra chưa đạt hiệu quả một phần là do quản lý kém, phần còn lại là do trình độ công nghệ. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các ao nuôi cần tăng lượng các yếu tố đầu ra dựa trên các yếu tố đầu vào sẵn có để góp phần giúp cho ao nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật, giúp nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước thay đổi chính sách quản lý cũng như hỗ trợ người nuôi trong việc thiết kế, tổ chức, chuyển giao công nghệ và phương pháp sản xuất để đạt hiệu quả. Hệ số hiệu quả kỹ thuật trung bình của cá Tra Việt Nam tương đồng với các ao nuôi cá da trơn tại Chicot, Arkansas, Mỹ; tuy nhiên, hiệu quả theo qui mô trung bình của các ao nuôi cá Tra Việt Nam cao hơn các ao nuôi cá da trơn tại Chicot (Mỹ). TÀI LIỆU THAM KHẢO Agroviet, 2008. Planning the development of production and sumption of catfish of the Mekong River Delta in 2010 and direction to 2020. Department of Aquaculture, Ministry of Agriculture and Rural Development., pp 32. Đặng Hoàng Xuân Huy, 2009. Technical efficiency analysis for commercial Black Tiger Prawn (Penaeus monodon) aquaculture farms in Nha Trang city, Viet Nam. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế và quản lý thủy sản, Đại học Tromso, Nauy Iinuma. M, Sharma. K. R, Leung P.S, 1999. Technical efficiency of carp pond culture in peninsula Malaysia: an application of stochastic production frontier and technical inefficiency model. Kaliba A.R., Engle, C.R, 2006. Productive efficiency of Catfish farms in Chicot county, Arkansas. Aquaculture Economics and Management, 10, 223 -243. Sharma, K.R., Leung, P.S., 1998. Technical efficiency of carp production in Nepal: an application of stochastic frontier production function approach. Aquaculture Economics and Management 2, 129– 140. Tomothy J.Coelli, D.S. Parasada Rao, Christopher J. O’Donnell and George E. Battese, 2005. An introduction to efficiency and Productivity Analysis, Springer Science-i-Business Media, Lnc, 1-181. Tôn Nữ Hải Âu, 2009. Technical efficiency of prawn poly-culture in Tam Giang lagoon, Viet Nam. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế và quản lý thủy sản, Đại học Tromso, Nauy. VASEP, 2008. Statistics of Vietnam’s fisheries exports for 10 years (1998-2007). Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers. VASEP, 2009. Annual report. Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers., pp 21. VASEP, 2010. Annual report. Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers, pp 25. EVALUATION OF OUTPUT EFFICIENCY FOR CATFISH FARMS IN MEKONG RIVER DELTA Dang Hoang Xuan Huy1 ABSTRACT This study analyzes technical efficiency for Tra catfish aquaculture farms in Mekong River Delta have used maximum output-oriented Data Envelopment Analysis (DEA) models. According to DEA model, 9.47% of Tra catfish farms are efficient and mean efficiency is 0.57, necessary increasing level of average yield is 88.54% 37TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 1 Economic Faculty , Nha Trang University Email: danghuyntu@yahoo.com with maximum output- oriented Constant Return to Scale; 19.47 % of Tra catfish farms are efficient and mean efficiency is 0.7, necessary increasing level of average yield is 47.9% with maximum output-oriented Variable Return to Scale, 13.16 % of Tra catfish farms are efficient and mean efficiency is 0.82 with Scale Efficiency. The catfish farms less efficient partly due to poor management, the rest is due to the technological level. Key words: technical efficiency, Tra catfish, DEA, TECRS, TEVRS, SE Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 6/6/2013 Ngày thông qua phản biện: 28/6/2013 Ngày duyệt đăng: 8/7/2013
File đính kèm:
- do_luong_hieu_qua_dau_ra_cho_cac_ao_nuoi_ca_tra_dong_bang_so.pdf