Diễn biến bồi tụ - Xói lở bờ biển Thái Bình - Nam Định từ Holocen muộn đến nay trong mối quan hệ với tiến hóa các thùy châu thổ và lịch sử sông Sò
Lịch sử biến động đường bờ biển khu vực bờ biển Thái Bình - Nam Định từ Holocen
muộn đến nay đã diễn ra rất khác nhau liên quan đến tiến hóa các thùy châu thổ và lịch sử diễn biến
của Sông Sò. Đoạn bờ cửa sông Ba Lạt hiện tại đang được bồi tụ mạnh, ngược lại đoạn bờ Hải Hậu
đang bị xói lở gây thiệt hại nghiêm trọng. Nội dung bài báo này sẽ giải đáp câu hỏi nói trên bằng kết
quả nghiên cứu biến động đường bờ liên quan đến tiến hóa các thùy châu thổ trên cả 2 khu vực Thái
Bình và Nam Định và lịch sử Sông Sò từ Holocen muộn đến nay. Trong quá trình bồi tụ mở rộng
diện tích về phía biển đồng bằng châu thổ Sông Hồng ở Nam Định và Thái Bình đã để lại dấu ấn
của 8 thùy châu thổ nối tiếp nhau và kết thành một hình rẽ quạt từ đường bờ cổ 2500 năm BP đến
đường bờ hiện đại. Từ trước năm 1787 lòng Sông Hồng chính đã từng chảy qua Hải Hậu và đổ ra
cửa Hà Lạn. Song đến năm 1787 xuất hiện một cơn lũ lịch sử làm vỡ đê, làm lấp cạn và thu hẹp
Sông Hồng. Từ đó Sông Hồng trở thành Sông Sò và lòng chính di chuyển giữa Thái Bình và Nam
Định, đổ ra cửa Ba Lạt vốn là một phụ lưu bé nhỏ. Tuy dòng sông bị thu hẹp, lưu lượng nước và
phù sa giảm đi một cách đáng kể nhưng bờ biển Hải Hậu vẫn được bồi tụ 30m/năm. Từ năm 1960,
khi Sông Sò bị đắp đập làm cống ở Ngô Đồng, đến nay bờ biển Hải Hậu bị xói lở với tốc độ
19,5m/năm. Như vậy nguyên nhân bờ biển Hải Hậu bị xói lở là do cơn lũ 1787 và đắp đập Sông Sò
1960. Để chấm dứt quá trình xói lở bờ biển Hải Hậu cần phải phá đập Ngô Đồng và khơi lại Sông Sò.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn biến bồi tụ - Xói lở bờ biển Thái Bình - Nam Định từ Holocen muộn đến nay trong mối quan hệ với tiến hóa các thùy châu thổ và lịch sử sông Sò
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 116-130 116 Diễn biến bồi tụ - xói lở bờ biển Thái Bình - Nam Định từ Holocen muộn đến nay trong mối quan hệ với tiến hóa các thùy châu thổ và lịch sử sông Sò Trần Nghi1, Trần Thị Thanh Nhàn1,*, Trần Ngọc Diễn2, Đinh Xuân Thành1, Trần Thị Dung1, Nguyễn Thị Phương Thảo1, Trần Xuân Trường3, Đỗ Mạnh Tuân3, Doãn Đình Lâm4 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2Liên Đoàn Địa chất biển và khoáng sản biển - Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam 3Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Việt Nam 4Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 05 tháng 12 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 10 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 13 tháng 12 năm 2018 Tóm tắt: Lịch sử biến động đường bờ biển khu vực bờ biển Thái Bình - Nam Định từ Holocen muộn đến nay đã diễn ra rất khác nhau liên quan đến tiến hóa các thùy châu thổ và lịch sử diễn biến của Sông Sò. Đoạn bờ cửa sông Ba Lạt hiện tại đang được bồi tụ mạnh, ngược lại đoạn bờ Hải Hậu đang bị xói lở gây thiệt hại nghiêm trọng. Nội dung bài báo này sẽ giải đáp câu hỏi nói trên bằng kết quả nghiên cứu biến động đường bờ liên quan đến tiến hóa các thùy châu thổ trên cả 2 khu vực Thái Bình và Nam Định và lịch sử Sông Sò từ Holocen muộn đến nay. Trong quá trình bồi tụ mở rộng diện tích về phía biển đồng bằng châu thổ Sông Hồng ở Nam Định và Thái Bình đã để lại dấu ấn của 8 thùy châu thổ nối tiếp nhau và kết thành một hình rẽ quạt từ đường bờ cổ 2500 năm BP đến đường bờ hiện đại. Từ trước năm 1787 lòng Sông Hồng chính đã từng chảy qua Hải Hậu và đổ ra cửa Hà Lạn. Song đến năm 1787 xuất hiện một cơn lũ lịch sử làm vỡ đê, làm lấp cạn và thu hẹp Sông Hồng. Từ đó Sông Hồng trở thành Sông Sò và lòng chính di chuyển giữa Thái Bình và Nam Định, đổ ra cửa Ba Lạt vốn là một phụ lưu bé nhỏ. Tuy dòng sông bị thu hẹp, lưu lượng nước và phù sa giảm đi một cách đáng kể nhưng bờ biển Hải Hậu vẫn được bồi tụ 30m/năm. Từ năm 1960, khi Sông Sò bị đắp đập làm cống ở Ngô Đồng, đến nay bờ biển Hải Hậu bị xói lở với tốc độ 19,5m/năm. Như vậy nguyên nhân bờ biển Hải Hậu bị xói lở là do cơn lũ 1787 và đắp đập Sông Sò 1960. Để chấm dứt quá trình xói lở bờ biển Hải Hậu cần phải phá đập Ngô Đồng và khơi lại Sông Sò. Từ khóa: Sông Sò, Holocen muộn, Bồi tụ - xói lở; tiến hóa trầm tích. 1. Mở đầu Khu vực bờ biển cửa Ba Lạt (Thái Bình) và cửa Hà Lạn (Hải Hậu - Nam Định) (Hình 1) đã ________ Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-904435968. và đang xảy ra những hiện tượng tương phản nhau giữa những đoạn bờ bồi tụ mạnh như cửa sông Ba Lạt và những đoạn bờ bị xói lở mạnh mẽ Email: quynhanthu@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4346 T. Nghi và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 116-130 117 gây thiệt hại nghiêm trọng như ở bờ biển Hải Hậu Nam Định [1]. Kết quả nghiên cứu của Hoàng Ngọc Kỷ (1973-1975) [2] là người đầu tiên chủ biên phương án đo vẽ bản đồ địa chất Đệ Tứ tỷ lệ 1/200.000 tờ Thái Bình - Nam Định và Vũ Nhật Thắng (1991-1994) chủ biên phương án đo vẽ bản đồ địa chất Đệ Tứ tỷ lệ 1/50000 tờ Thái Bình - Nam Định đã được sử dụng phục vụ mục tiêu thành lập bản đồ địa chất Đệ Tứ ở các tỷ lệ khác nhau mà không quan tâm đến việc nghiên cứu biến động đường bờ trong Holocen. Tiếp đến các công trình nghiên cứu về trầm tích luận, thủy thạch động lực đới bờ châu thổ Sông Hồng [3-12] chủ yếu tập trung nguyên cứu về hiện tượng xói lở và bồi tụ do nguyên nhân trực tiếp là thiếu hụt hoặc dư thừa trầm tích nhưng vẫn chưa làm sáng tỏ được nguyên nhân sâu xa của quá trình xói lở và bồi tụ của bờ biển châu thổ Sông Hồng. Vũ Cao Minh và nnk (2006) [13] đã nghiên cứu biến động cửa Ba Lạt, cửa Hà Lạn trong thời kỳ cận đại và ảnh hưởng của chúng tới diễn biến bồi tụ-xói lở khu vực Hải Hậu Nam Định. Tác giả đã mô tả sự thay đổi vai trò của lòng Sông Hồng chính từ Nam Định sang Thái Bình dựa theo tài liệu địa chí Hải Hậu (2009). Quá trình đó làm cho Sông Sò bị thu hẹp và cửa sông Ba Lạt được mở rộng từ thế kỷ thứ XVIII cho đến nay. Tuy nhiên các tác giả vẫn chưa lý giải được tại sao Sông Sò bị thu hẹp? và có phải khi Sông Sò bị thu hẹp thì bờ biển Hải Hậu bị xói lở không? Vấn đề không phải ở chỗ đó vì còn 3 câu hỏi nữa mà chưa ai trả lời được, đó là: (1) Tại sao từ khi Sông Sò bị thu hẹp từ 1787 đến năm 1960 bờ biển Hải Hậu vẫn được bồi tụ mỗi năm 30m? (2) Tại sao bờ biển Hải Hậu bắt đầu bị xói lở từ năm 1960 đến nay? (3) Bằng giải pháp nào để có thể ngăn chặn sự xói lở này mà không cần đắp đê biển? Khi chưa tìm được giải pháp hữu hiệu hơn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đầu tư xây dựng các công trình đê biển từ những năm 1970 nhằm đảm bảo an sinh cho các cộng đồng dân cư của xã Hải Đông, Hải Lý và Hải Thịnh (huyện Hải Hậu). Nội dung bài báo này sẽ giải đáp 3 câu hỏi nói trên bằng kết quả nghiên cứu tiến hóa trầm tích đới bờ châu thổ Sông Hồng trong mối quan hệ với pha biển thoái Holocen muộn và bài toán cân bằng thủy thạch động lực. 2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở tài liệu Công trình đã xử lý và tổng hợp các số liệu phân tích mẫu từ 10 lỗ khoan máy và khoan tay qua địa tầng Holocen. Các tham số trầm tích đã được phân tích và sử dụng bao gồm: phân tích độ hạt từ trầm tích bở rời nhằm xác định các hệ số độ hạt (So, Md, Sk); phân tích lát mỏng thạch học bở rời nhằm xác định kiểu thạch học trầm tích, hàm lượng khoáng vật vụn tha sinh (Q, F, R), phân tích các chỉ tiêu địa hóa môi trường (pH, Eh, cation trao đổi), các số liệu tuổi 14C và minh giải 12 các mặt cắt địa chấn nông phân giải cao (hình 1, 2 và bảng 1, 2). 2.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Nghiên cứu biến động đường bờ trong Holocen muộn phải dựa trên mối quan hệ nhâ ... Sông Hồng) bồi tụ với tốc độ rất nhanh (60m/năm) nhanh hơn phía Nam Định. Giai đoạn 2 (500 - 231 năm BP) (1518- 1787): Giai đoạn này bờ biển Thái Bình bồi tụ với tốc độ 40m/năm (bảng 5) chậm hơn so với bờ biển Nam Định là 55m/năm (bảng 4). Điều đó rất dễ hiểu vì giai đoạn này dòng chính rộng lớn của Sông Hồng đang chảy về Nam Định chuyển tải một khối lượng phù sa khổng lồ bồi tụ cho đồng bằng Xuân Thủy-Hải Hậu. Giai đoạn 3 (231-58 năm BP) (1787-1960): Giai đoạn này Sông Hồng đã đổi ngôi do trận lũ năm1787 và kết thúc số phận của Sông Sò (1960). Do dòng chính chảy về cửa Hà Lạn (Hải Hậu) bị lấp cạn ở ngả 3 Ngô Đồng nên đã chuyển thành lòng chính đổ về cửa Ba Lạt, vốn là một phụ lưu rất bé. Theo lịch sử Làng Gòi-Sa Châu ghi lại thì đây chỉ là một con lạch nhỏ chỉ bắc qua một chiếc cầu buộc 3 chiếc lạt. Lạch sông này còn bé hơn phụ lưu chảy ra cửa Lân (Thái Bình) đã từng tạo nên 2 thùy châu thổ có quy mô lớn đã mô tả ở trên. Sự diễn biến khác nhau cơ bản giữa đồng bằng châu thổ Tiền Hải bồi tụ nhanh với tốc độ 50m/năm (bảng 5) và đồng bằng Quất Lâm Hải Hậu bồi tụ chậm lại với tốc độ 30m/năm (bảng 4). Điều đó chứng tỏ lưu lượng dòng chảy và khối lượng phù sa của Sông Sò đã giảm xuống một cách đáng kể. Bảng 5. Tổng hợp các số liệu tính toán tốc độ bồi tụ bờ biển khu vực cửa Ba Lạt Thái Bình (tả ngạn Sông Hồng) từ 1000 năm BP đến nay Đường bờ (năm BP) (Từ-đến) Năm (Từ đến) Số năm Khoảng cách (m) Xói lở (m/năm Bồi tụ (m/năm) Ghi chú 1000 - 500 1018 - 1518 500 27000 - 55 500 - 231 1518 - 1787 269 12105 - 45 1787: Cửa Ngô Đồng Sông Hồng bị lấp cạn 231- 58 1787 - 1960 173 5915 - 35 1)1960: đắp đập Sông Sò 58 - 0 1960 - 2018 58 1740 - 30 T. Nghi và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 116-130 128 Giai đoạn 4 (58 năm BP đến nay) (1960 - 2018): Trong giai đoạn này đã xẩy ra sự phân hóa tương phản rõ rệt giữa bờ biển Hải Hậu bị xói lở với tốc độ 19.7m/năm thì cửa Ba Lạt vẫn được tiếp tục bồi tụ 30m/năm. Điều đó được lý giải như sau: Sông Hồng từ khi chuyển sang đất Thái Bình đã mang một khối lượng lớn phù sa bồi đắp nên đồng bằng châu thổ rộng lớn thuộc huyện Kiến Xương và Tiền Hải. Đồng thời với đường bờ dịch chuyển dần ra phía biển một khối lượng bùn cát được mang ra biển với một khối lượng rất lớn hàng năm. Một phần lớn lượng bùn cát này bồi lắng ở đáy biển cửa sông ven bờ. Phần còn lại được vận chuyển theo dòng chảy ven bờ từ bắc xuống nam đến cửa sông Ninh Cơ và cửa sông Đáy trầm tích được lắng đọng nhờ hợp lưu của 2 dòng chảy: dòng chảy ven bờ và dòng chảy của sông đổ ra biển. Tại cửa Hà Lạn trước năm 1787 được bồi tụ mạnh vì đây là cửa chính của Sông Hồng. Từ năm 1787-1960 tuy Sông Hồng đã trở thành Sông Sò bị thu hẹp lại nhưng bờ biển Hải Hậu vẫn được bồi tụ vì vẫn còn dòng chảy đổ ra biển hội lưu với dòng phù sa từ cửa Ba Lạt mang xuống dọc bờ. Song từ 1960 Sông Sò bị đắp chặn hoàn toàn. Cửa Hà Lạn thiếu hụt trầm tích, sóng biển đặc biệt là sóng bão đã gây xói lở nghiêm trọng. 3. Thảo luận và kết luận Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các tài liệu tướng đá - cổ địa lý, tài liệu địa chấn nông phân giải cao kết hợp với số liệu định tuổi tuyệt đối để nghiên cứu lịch sử tiến hóa đường bở cổ ven châu thổ Sông Hồng, tập thể tác giả rút ra một số kết luận và kiến nghị sau đây: 1. Quá trình bồi tụ của đồng bằng châu thổSông Hồng trong Holocen muộn diễn ra theo quy luật ghép nối các thế hệ thùy châu thổ có chu kỳ. Mỗi thùy châu thổ có hình rẽ quạt được cấu thành bởi một hệ thống cồn cát. Từ đường bờ 2500 năm BP đến đường bờ hiện đại có 8 thùy châu thổ ghép nối nhau và tỏa rộng theo các Sông Hồng và các phụ lưu của nó: (1) Đới bờ 3000- 2500 năm BP; (2) Đới bờ 1500-1000 năm BP và (3) Đới bờ 700-500 năm BP; (4) Đường bờ năm 1787; (5) Đường bờ năm 1960 và đường bờ hiện đại. 2. Từ 2500 năm BP đến 1000 năm BP đồng bằng châu thổ phía Thái Bình bồi tụ nhanh hơn (60m/năm) so với phía Nam Định (50m/năm). Song từ 1000 năm BP đến 500 năm BP tốc độ 2 phía tiến ra biển tương đối cân bằng (khoảng 50- 55m/năm). Từ 500 năm BP đến 231 năm BP (tức năm 1787) năm bắt đầu có sự thay đổi đột biến dòng chính chảy qua Hải Hậu đổ ra cửa Hà Lạn (Nam Định) chuyển sang Tiền Hải và đổ ra cửa Ba Lạt (Thái Bình). Giai đoạn này tốc độ bồi tụ phía Nam Định giảm xuống rất đáng kể khoảng 30m/năm, còn bên Thái Bình vẫn giữ được tốc độ 45m/năm. Từ năm 1787 đến 1960 (năm đắp chặn hoàn toàn Sông Sò) đồng bằng châu thổ Hải Hậu được bồi tụ một cách chậm chạp (15m/năm), trong khi đó đồng bằng châu thổ huyện Tiền Hải (Thái Bình) và khu vực bắc huyện Giao Thủy (Nam Định) tốc độ bồi tụ vẫn còn 35m/năm. Từ 1960 đến nay đường bờ Hải Hậu bị xói lở với tốc độ 19.7m/năm còn khu vực cửa Ba Lạt vẫn được bồi tụ 30m/năm. Cả 2 phía cửa Sông Ba Lạt đã tạo một thùy châu thổ cận- hiện đại gồm các cồn cát cửa sông có quy mô lớn như cồn Ngạn, Cồn Lu, cồn Vành, cồn Mờ. Như vậy sự tương phản giữa bồi tụ và xói lở được bắt đầu từ năm 1960. Điều đó minh chứng cho việc đắp đập Sông Sò là nguyên nhân làm xói lở bờ biển Hải Hậu. 3. Giải pháp xử lý hiện tượng xói lở bờ biển Hải Hậu là phải phá đập Sông Sò ở Ngô Đồng, nạo vét và mở rộng Sông Sò để trả lại dòng chảy vốn có của nó trước năm 1787. Cơn lũ năm 1787 đã lấp cạn con Sông Hồng chảy về Hải Hậu. Đáng lẽ ra lúc bấy giờ phải khơi lại ngay thòi bấy giờ để trả lại dòng chảy chính của Sông Hồng. Thế nhưng không những không làm việc đó người ta lại đắp chặn Sông Sò lại để làm kênh thủy lợi. Đây là cái giá phải trả khi con người không hiểu quy luật tiến hóa của một châu thổ bồi tụ. Lời cảm ơn Bài báo được hoàn thành dưới sự hỗ trợ, tạo điều kiện về kinh phí, tài liệu của Bộ Khoa học T. Nghi và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 116-130 129 & Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQGHN, Trung tâm Hỗ trợ Nghiên cứu Châu Á và Quỹ Giáo dục Cao học Hàn Quốc. Các đơn vị đã hỗ trợ một khối lượng lớn các dạng tài liệu của phương án đo vẽ bản đồ địa chất Đệ Tứ tờ Thái Bình - Nam Định của Vũ Nhật Thắng, tài liệu của đề tài KC 09-02/16-20 thuộc chương trình KC-09/16-20, tài liệu của đề tài CA.17.10A. Nhân dịp này tập thể tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Tài liệu tham khảo [1] Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Nguyễn Đức Cự, và nnk. Tình trạng và nguyên nhân xói lở, bồi tụ ven bờ châu thổ sông Hồng. Tạp chí Tài nguyên và Môi trường biển. Tập III. [2] Hoàng Ngọc Kỷ, 1989. Địa tầng và những nét lớn của lịch sử phát triển địa chất miền Bắc Việt Nam trong Đệ tứ. Tóm tắt luận án PTS Khoa học Địa lí – Địa chất; 21tr. Hà Nội: Đại học Tổng hợp Hà Nội. [3] Ayako Funabiki, Yoshiki Saito, Vu Van Phai, Nguyen Hieu and Shigeko Haruyama, 2012. Natural levees and human settlement in the Song Hong (Red River) delta, northern Vietnam. The Holocene 22(6) 637 –648. [4] Ngô Quang Toàn, 1995. Đặc điểm trầm tích và lịch sử phát triển các thành tạo Đệ tứ ở phần đông bắc đồng bằng Sông Hồng. Luận án TS Khoa học Địa lí – Địa chất; 20tr, Đại học Tổng hợp Hà Nội. [5] Tran Nghi, Mai Trong Nhuan, Chu Van Ngoi, Nguyen Van Dai, Dinh Dinh Xuan Thanh, Nguyen Dinh Nguyen, Nguyen Thanh Lan, Dam Quang Minh and Ngo Quang Toan, 2003. GIS and image analysis to study the process of late Holocene sedimentary evolution in Balat River Mouth, Vietnam. Geoinformatics, vol. 14, no. 1, 43-48. [6] Tran Nghi, Mai Trong Nhuan, Chu Van Ngoi, P. Hoekstra, Utrecht, TJ. Van Weering, J.H. Van Denbergh, Dinh Xuan Thanh, Nguyen Dinh Nguyen, Vu Van Phai, 2002. Holocene sedimentary evolution, geodynamic and anthropogenic control of the Balat river mouth formation (Red River-delta, northern Vietnam). Z. geol. Wiss., Berlin 30, 3: 157 – 172. [7] Trần Nghi, Đinh Xuân Thành và nnk., 2000. Quá trình tích tụ trầm tích Đệ tứ của đáy Sông Hồng trong mối quan hệ với hoạt động nhân sinh. Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học đánh giá tác động của quá trình xói mòn tại lưu vực Sông Hồng. Lưu trữ Viện HLKH&CNVN. Tr. 124-151. [8] Trần Nghi, Ngô Quang Toàn, 1991. Đặc điểm các chu kỳ trầm tích và lịch sử tiến hóa địa chất Đệ tứ đồng bằng Sông Hồng, Tạp chí địa chất (số 206- 207), tr. 65-69. [9] Trần Nghi, Nguyễn Thế Tiệp, 1993. Đặc điểm trầm tích trong mối tương tác thạch động lực của vùng tiền châu thổ Sông Hồng. Tạp chí các khoa học về Trái đất, số 1, tr. 26-32. [10] Vũ Quang Lân, 1999. Các mặt cắt địa chất chủ yếu của hệ tầng Hải Hưng vùng đồng bằng Sông Hồng. Tạp chí địa chất, số 251, tr. 9-13. [11] Do Minh Duc, Mai Trong Nhuan, Chu Van Ngoi, Tran Nghi, Dao Manh Tien, Tj. C.E. van Weering, G.D. van den Bergh, 2007. Sediment distribution and transport at the nearshore zone of the Red River delta, Northern Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences 29, 558–565. [12] Trần Đức Thạnh, Đinh Văn Huy, Trần Đình Lân, 1996. Đặc điểm phát triển của vùng đất bồi ngập triều ven bờ châu thổ Sông Hồng. Tạp chí các Khoa học về Trái đất, số 1, tr. 50-59. [13] Vũ Cao Minh, Nguyễn Khắc Nghĩa, Nguyễn Huy Thịnh, 2006. Biến động cửa Ba Lạt, cửa Hà Lạn trong thời kỳ cận đại và ảnh hưởng của chúng tới diễn biến bồi tụ xói lở khu vực Hải Hậu - Nam Định. Tạp chí KH&CN Thủy lợi Viện KHTLVN. [14] Susumu Tanabe, Yoshiki Saito, Quang Lan Vu, Till J.J. Hanebuth, Quang Lan Ngo, Akihisa Kitamura, 2006. Holocen Evolution of the Song Hong (Red River) delta system, Northen Vietnam. Sedimentary Geology, 187, 29-61. [15] Doãn Đình Lâm, 2003. Tiến hóa trầm tích Holocen châu thổ Sông Hồng. Luận án tiến sĩ địa chất, ĐHQGHN. [16] Trần Nghi, Nguyễn Thị Tuyến, Đinh Xuân Thành, Nguyễn Đình Nguyên, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Đình Thái, Nguyễn Thị Huyền Trang. Đường bờ cổ và ranh giới chéo các miền hệ thống trầm tích Pleistocen muộn-Holocen khu vực Bắc bộ và Bắc trung bộ. Tạp chí Địa chất, loạt A, số 358, 9-10/2016, Tr. 1-13. [17] Susumu Tanabe, Kazuaki Hori, Yoshiki Saitoc, Shigeko Haruyamad, Van Phai Vu, Akihisa Kitamura, 2003. Song Hong (Red River) delta evolution related to millennium-scale Holocene sea-level changes. Quaternary Science Reviews 22, 2345–2361. [18] Nguyễn Quang Miên, Lê Khánh Phồn, 2000. Some results of C14 dating in investigation on Quaternary geology and geomorphology in Nam Định - Ninh Bình area, Việt Nam. J. Geology, B/15: 106-109. Hà Nội. T. Nghi và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 116-130 130 [19] Trần Nghi, 2012. Trầm tích học. Nhà xuất bản ĐHQGHN. [20] Trần Nghi, Nguyễn Thị Tuyến, Đinh Xuân Thành, Nguyễn Đình Nguyên, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Đình Thái, Nguyễn Thị Huyền Trang, Lê Viết Chuẩn, Nguyễn Hoàng Long. Đặc điểm tướng đá – cổ địa lý Pleistocen muộn – Holocen khu vực cửa sông Ba Lạt. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 17, Số 1; 2017; Tr. 23-34. [21] Vũ Văn Tiếu, 2017. Lịch sử Làng Gòi-Sa Châu Ghi chú: [22] Vũ Văn Tiếu: Cháu nội ông Tổng Vũ Đình Khang viết tiếp từ năm 1956 đến năm 2017 [23] Cụ Chánh Vũ Đình Nam (Đời thứ 8 của cụ Đồ Đáo) dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ. [24] Cụ Tổng Vũ Đình Khang con trai cụ Chánh Vũ Đình Nam viết tiếp từ năm 1924 đến năm 1956. The Holocene – Present Shoreline Migration off Thai Binh – Nam Dinh in Relation to Evolution of Deltaic Lobes and History of the So River Tran Nghi1, Tran Thi Thanh Nhan1, Tran Ngoc Dien2, Dinh Xuan Thanh1, Tran Thi Dung1, Nguyễn Thi Phuong Thao1, Tran Xuan Truong3, Do Manh Tuan3, Doan Dinh Lam4 1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2Marine Geology and Mineral Resources Division - General Department of Geoloy and Minerals of Vietnam 3Hanoi University of Natural Resources and Environment, Vietnam 4Geology of Institue, Vietnam Academy of Science and Technology, Vietnam Abstract: The Holocene – Present shoreline migration of Thai Binh - Nam Dinh has occurred in different situations and has been controlled by evolution of deltaic lobes and history of the So River. The shoreline of Ba Lat River mouth is now characterized by strongaggradation while the Hai Hau shoreline is experiencing rapid erosion process, leading to serious damage of the coastal works. In this paper, the authors will answer the aforementioned questions based on the study results of shoreline variation off Thai Binh and Nam Dinh, as well ad the linkage to the evolution of the So River during the Holocene - Present Period. During the aggradation and seaward extension of the Red River Delta, 8 successive deltaic lobes have been formed into a fan-shape formation between 2500 yr. BP shoreline and present shoreline. The Red River trunk has flown across Hai Hau and connected to the sea via Ha Lan Estuary before 1787. However, a disaterous flood occurred in 1787 that destroyed the river bank and made paleo-Red River narrower. Since that time the paleo-Red River became the So River today while the main Red River channel migrated between Nam Dinh and Thai Binh Provinces and finally follows out via Ba Lat Mouth that used to be a minor outlet. Although the river channel was narrowed and sediment budget was decreased, the coastal zone in Hai Hau has continued to extend outward at a rate of ~30m/yr. The coast in Hai Hau has been eroded at a rate of ~19.5m/yr. since a hydraulic dam was built in the So River in Ngo Dong. It means that the rapid erosion off Hai Hau coast was likely caused by the historical food in 1787 and construction of hydraulic dam in 1960. In order to present the coast from erosion, it is necessary to remove the Ngo Dong Dam and enlarge the So River trunk. Keywords: SoRiver, Late Holocene, –aggradation - erosion, sedimentary evolution.
File đính kèm:
- dien_bien_boi_tu_xoi_lo_bo_bien_thai_binh_nam_dinh_tu_holoce.pdf