Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo

Các đặc trưng về cấu trúc, phân bố trong không gian và biến thiên theo thời gian của dòng điện xích đạo (Equatorial Electrojet - EEJ) phụ thuộc rất nhiều vào đặc trưng của trường địa từ vùng xích đạo, vào chu trình hoạt động Mặt trời. Để nghiên cứu những đặc tính đó có thể dựa vào các tài liệu quan trắc từ vệ tinh, tài liệu ghi biến thiên từ tại các đài trạm, tài liệu thăm dò điện ly thẳng đứng. Dựa vào số liệu trường từ ghi được tại các đài trạm nằm tại tâm của EEJ đã có nhiều công trình nghiên cứu về biến thiên theo thời gian của EEJ được công bố [2, 5, 16] hoặc khi sử dụng số liệu thu được trên các vệ tinh và các số liệu khác [1, 3, 11-14, 17]. Khi sử dụng số liệu trong khoảng thời gian ngắn thu được tại trạm Bạc Liêu của Việt Nam với các trạm nằm dọc theo xích đạo của Ấn Độ, Châu phi.và số liệu trường từ thu được trên vệ tinh CHAMP, Doumouya V. [6] đã nhận thấy rằng cường độ EEJ tại kinh tuyến qua Việt Nam lớn hơn tại Ấn Độ và một số khu vực khác, nhưng do chuỗi số liệu còn ngắn nên chưa phản ánh được quy luật này có tồn tại và thay đổi theo mùa hay không. Trong [10] Le Mouël đã nghiên cứu biến thiên theo mùa của EEJ tính từ số liệu thu được trên vệ tinh CHAMP, nhưng mới chỉ sử dụng số liệu trong hai năm (2001-2002) và đây đúng vào năm mặt trời hoạt động mạnh

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 1

Trang 1

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 2

Trang 2

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 3

Trang 3

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 4

Trang 4

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 5

Trang 5

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 6

Trang 6

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 7

Trang 7

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 9000
Bạn đang xem tài liệu "Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo

Dị thường và biến thiên theo mùa của dòng điện xích đạo
 29
33(1), 29-36 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2011 
DỊ THƯỜNG VÀ BIẾN THIÊN THEO MÙA 
CỦA DÒNG ĐIỆN XÍCH ĐẠO 
LÊ TRƯỜNG THANH1, LÊ HUY MINH1, HÀ DUYÊN CHÂU1, 
DOUMOUYA VAFI 2, YVES COHEN3 
E-mail: igpthanh@gmail.com 
1Viện Vật lý Địa cầu, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội 
2Trường Đại học tổng hợp Cocody, Coted’Ivoire 
3Viện Vật lý địa cầu Paris 
Ngày nhận bài: 09-11-2010 
1. Mở đầu 
Các đặc trưng về cấu trúc, phân bố trong không 
gian và biến thiên theo thời gian của dòng điện 
xích đạo (Equatorial Electrojet - EEJ) phụ thuộc rất 
nhiều vào đặc trưng của trường địa từ vùng xích 
đạo, vào chu trình hoạt động Mặt trời. Để nghiên 
cứu những đặc tính đó có thể dựa vào các tài liệu 
quan trắc từ vệ tinh, tài liệu ghi biến thiên từ tại các 
đài trạm, tài liệu thăm dò điện ly thẳng đứng. Dựa 
vào số liệu trường từ ghi được tại các đài trạm nằm 
tại tâm của EEJ đã có nhiều công trình nghiên cứu 
về biến thiên theo thời gian của EEJ được công bố 
[2, 5, 16] hoặc khi sử dụng số liệu thu được trên 
các vệ tinh và các số liệu khác [1, 3, 11-14, 17]. 
Khi sử dụng số liệu trong khoảng thời gian ngắn 
thu được tại trạm Bạc Liêu của Việt Nam với các 
trạm nằm dọc theo xích đạo của Ấn Độ, Châu 
phi...và số liệu trường từ thu được trên vệ tinh 
CHAMP, Doumouya V. [6] đã nhận thấy rằng 
cường độ EEJ tại kinh tuyến qua Việt Nam lớn hơn 
tại Ấn Độ và một số khu vực khác, nhưng do chuỗi 
số liệu còn ngắn nên chưa phản ánh được quy luật 
này có tồn tại và thay đổi theo mùa hay không. 
Trong [10] Le Mouël đã nghiên cứu biến thiên theo 
mùa của EEJ tính từ số liệu thu được trên vệ tinh 
CHAMP, nhưng mới chỉ sử dụng số liệu trong hai 
năm (2001-2002) và đây đúng vào năm mặt trời 
hoạt động mạnh. Trong [9] Kim H.R. cũng sử dụng 
số liệu của 57 tuyến số liệu thu được trên vệ tinh 
POGO để tìm ra những điểm dị thường EEJ trên 
toàn cầu, nhưng với chuỗi số liệu quá ít đã không 
phản ánh đúng vị trí các đỉnh này, và cũng không 
khẳng định được sự tồn tại của nó theo thời gian. 
Trong bài báo trước [20] chúng tôi đã trình bày 
chi tiết về số liệu thu thập cũng như thuật toán để 
tách phần ảnh hưởng của EEJ từ số liệu trường từ 
thu được trên vệ tinh CHAMP và xây dựng mô 
hình EEJ trên toàn cầu dựa vào số liệu năm 2003, 
trong bài báo này, chúng tôi mở rộng chuỗi số liệu 
lên sáu năm liên tục (từ năm 2002-2007) đề nghiên 
cứu về các dị thường EEJ trên toàn cầu và biến 
thiên của nó theo thời gian và sau đó so sánh kết 
quả này với EEJ tính từ số liệu thu được tại các đài 
trạm mặt đất để bước đầu đưa ra những nhận xét về 
sự tồn tại các đỉnh dị thường và các đặc trưng biến 
thiên có chu kỳ của EEJ. 
2. Xử lý số liệu và phương pháp tách EEJ 
2.1. Tính EEJ từ số liệu vệ tinh CHAMP 
Trong nghiên cứu trước [20] chúng tôi đã giới 
thiệu về các thông số chính của vệ tinh CHAMP 
(quỹ đạo, độ cao,...) và số liệu thu được trên vệ 
tinh này, sau đó đã sử dụng số liệu thu được năm 
2003 và áp dụng thuật toán để tách phần ảnh 
hưởng của EEJ từ số liệu trường từ thu được để 
nghiên cứu về EEJ và xây dựng mô hình EEJ trên 
toàn cầu. Để phục vụ cho nghiên cứu này, chúng 
tôi áp dụng thuật toán trên cho sáu năm số liệu liên 
tục thu được trên vệ tinh CHAMP. Hình 1a trình 
bày kết quả ví dụ tính biên độ thành phần nằm 
ngang do hệ dòng EEJ gây ra cho số liệu thu được 
năm 2002 trên vệ tinh CHAMP khi sử dụng trường 
từ thành phần nằm ngang (H) của 167 ngày trường 
 30 
từ yên tĩnh. Theo kết quả tính cả sáu năm số liệu, 
biên độ của EEJ thu được trên vệ tinh CHAMP 
biến đổi trong khoảng từ 20-60nT và bề rộng ảnh 
hưởng của EEJ theo vỹ tuyến trong khoảng ±8ο. 
2.2. Tính EEJ từ số liệu các trạm mặt đất 
Tương ứng với số liệu thu được trên vệ tinh 
CHAMP theo thời gian, chúng tôi lựa chọn số liệu 
thu được tại các trạm dưới mặt đất với những ngày 
trường yên tĩnh (chỉ số am<20) với khoảng thời 
gian tương ứng. Để tách phần ảnh hưởng của EEJ 
từ số liệu trường từ thu được tại các trạm dựa vào 
giả thiết sau: dòng điện xích đạo như là một dải 
dòng hẹp có bề rộng khoảng ±5ο chạy dọc theo 
xích đạo từ, trường từ của một trạm nằm cách xa 
tâm xích đạo từ khoảng >10ο là coi như không bị 
ảnh hưởng của hệ dòng EEJ và trường từ thu được 
tại các trạm trên cùng một kinh tuyến, tại cùng thời
gian do các hệ dòng khác có nguồn ở xa có thể coi 
như là hằng số. Như vậy, ta có thể sử dụng số liệu 
của một cặp trạm, bao gồm: một trạm nằm tại tâm 
của EEJ còn trạm kia có khoảng cách theo vỹ tuyến 
đủ xa để trường thu được không bị ảnh hưởng bởi 
hệ dòng EEJ và từng cặp trên trạm phải trên cùng 
một kinh tuyến, cùng có số liệu trong khoảng thời 
gian tính. Trong bài báo này, để so sánh EEJ thu 
được trên CHAMP và từ số liệu mặt đất chúng tôi 
sử dụng số liệu trên cùng một thời gian tại sáu trạm 
cho ba khu vực như trên hình 1a, tên, ký hiệu và vị 
trí các trạm được trình bày trong bảng 1 (tọa độ 
địa từ tính theo niên đại 2005.0). 
Với lựa chọn ba cặp trạm trên thì khoảng cách 
theo vỹ tuyến giữa FUQ-HUA là 17.97ο, QSB-AAE 
là 24.85ο, PHU-BCL là 11.92ο và độ lệch giữa hai 
trạm trong từng cặp trạm theo kinh tuyến trong 
khoảng 3ο. 
 . 
Bảng 1. Vị trí và tên các đài trạm 
Khu 
vực 
Tên trạm và 
ký hiệu 
Kinh độ 
địa lý 
Vỹ độ 
địa lý 
Vỹ độ 
địa từ 
Bạc Liêu 
(BCL) 
105.73ο 9.28ο 1.35ο Khu 
vực 
châu 
Á Phú Thụy 
(PHU) 
105.57ο 21.2ο 15.05ο 
Huancayo 
(HUA) 
284.67ο -12.5ο -1.61ο Khu 
vực 
châu 
Mỹ 
Fuquence 
(FUQ) 
286.27ο 5.47ο 15.92ο 
Addis Ababa 
(AAE) 
 38.77ο 9.02ο 5.27ο Khu 
vực 
châu 
Phi 
Qsaybeh 
(QSB) 
35.64ο 33.87ο 30.23ο 
Trong quá trình tính toán, chúng tôi sử dụng giá 
trị trung bình giờ của thành phần trường nằm 
ngang ∆H của từng trạm toàn bộ số liệu sau khi đã 
loại bỏ giá trị trung bình giữa đêm. Khi ta coi 
trường do hệ dòng Sq gây ra tại từng cặp trạm trên 
là bằng nhau thì giá trị của thành phần nằm ngang 
H do EEJ gây ra tại ba trạm được tính như sau: 
 ∆H_EEJ_(hua) = ∆ ... a độ lệch giữa quỹ đạo vệ 
tinh và chiều của hệ dòng EEJ (kết quả về ảnh 
hưởng góc lệch này sẽ được công bố trong một 
nghiên cứu sau này), tuy nhiên ảnh hưởng này là 
không nhiều chỉ khoảng 5nT tuỳ theo các kinh 
tuyến khác nhau. 
2.3. Tính toán mật độ dòng tại tâm EEJ 
Khi ta coi EEJ như một bản dòng điện, chạy ổn 
định trên độ cao 105km so với bề mặt trái đất, từ 
giá trị cường độ trường từ do EEJ (cả số liệu thu 
được trên vệ tinh, và số liệu các trạm trên mặt đất) 
gây ra ở trên áp dụng công thức được phát triển bởi 
Doumouya [5] ta tính được mật độ dòng I12 
(Ampe/Km) tại tâm của EEJ vào giữa trưa địa 
phương như sau: 
⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
Δ=
h
aarctg
H
I
4.0
0
12 
h: độ cao của EEJ (nếu lấy số liệu tại các trạm 
mặt đất thì h = 105km, nếu lấy số liệu vệ tinh 
CHAMP thì h = 284km) 
a : 1/2 bề rộng của EEJ 
∆H0: giá trị thành phần nằm ngang của trường 
từ gây ra bởi EEJ. 
3. Kết quả tính toán và thảo luận 
Trên hình 2a, chúng tôi biểu diễn giá trị mật độ 
dòng của EEJ tính từ số liệu vệ tinh CHAMP tại 
giữa trưa địa phương cho toàn bộ sáu năm số liệu 
hiện có (từ 2002-2007) phụ thuộc vào kinh tuyến 
địa lý. Với mùa địa từ được quy định như sau: mùa 
hè gồm các tháng 5, 6, 7, 8, mùa đông: tháng 11, 
12, 1, 2 và hai phân điểm là: xuân phân: tháng 3, 4; 
thu phân: tháng 9, 10. Hình 2b, biểu diễn mật độ 
dòng do EEJ gây ra tính được từ số liệu của ba cặp 
trạm với các mùa và thời gian tương ứng với hình 
2a. Trên các hình này, chúng ta nhận thấy rằng: 
- Vào mùa hè và hai phân điểm, biên độ EEJ có 
xu hướng biến thiên khá giống nhau nó đều tồn tại 
bốn đỉnh cực đại trên toàn kinh tuyến tại các kinh 
tuyến có vị trí: 105οE, 0ο, 90οW, 180οW và bốn 
điểm cực tiểu tại vị trí: 45οE, 140οE, 40οW, 135οW. 
Đỉnh cực đại tại kinh tuyến 1050E có biên độ lớn 
nhất. Sự xuất hiện bốn đỉnh dị thường này đã được 
England [7] phát hiện khi nghiên cứu về trường 
điện trên lớp E của tầng điện ly và gọi là “số sóng 
bội 4” của EEJ. Nó xuất hiện hàng ngày và trong 
khoảng thời gian giữa trưa địa phương. Khi so sánh 
EEJ thu được tại vị trí của ba trạm (bảng 2) thì EEJ 
tính tại HUA lại lớn hơn tại BCL trong các tháng 
phân điểm và có biên độ bằng nhau trong mùa hè, 
điều này có thể là do ảnh hưởng của góc lệch giữa 
quỹ đạo vệ tinh CHAMP và hướng của hệ dòng 
EEJ tại HUA lớn nên EEJ tinh từ số liệu CHAMP 
đã bị giảm đi. 
← Hình 2a. Biến thiên theo mùa của EEJ 
từ số liệu vệ tinh CHAMP với sáu năm 
số liệu (2002-2007) 
 33
Bảng 2. Giá trị mật độ dòng của EEJ tại vị trí các đài trạm tại các mùa 
EEJ tại HUA (A/km) EEJ tại AAE (A/km) EEJ tại BCL (A/km) 
Mùa Tính từ 
đài trạm 
Tính từ CHAMP Tính từ 
đài trạm 
Tính từ CHAMP Tính từ 
đài trạm 
Tính từ CHAMP 
Xuân phân 144.0 122.2 130.2 69.8 128.0 139.7 
Thu phân 129.3 111.5 100.2 62.4 119.5 135.9 
Mùa hè 110.9 105.6 91.0 54.5 110.8 118.5 
Mùa đông 104.8 59.4 84.2 45.6 106.8 104.8 
- Biến thiên của EEJ vào các tháng mùa đông 
thì lại có xu hướng khác với các mùa khác, nó chỉ 
xuất hiện ba cực đại tại 135οW, 10οW 100οE và ba 
cực tiểu tại: 75οW, 45οE, 160οE, hay còn gọi là “số 
sóng bội 3”. Trong đó, cực đại tại 135οW là mạnh 
nhất. Trong nghiên cứu của Hagan [8] sự xuất hiện 
chỉ ba cực trị trong mùa đông có thể là do ảnh 
hưởng của gió mặt trời hoạt động yếu trong mùa 
đông, khi kết hợp với các hệ dòng tại lớp E tầng 
điện ly, nó làm dịch chuyển các đỉnh dị thường và 
chỉ còn xuất hiện “số sóng bội 3”. 
- Biên độ của EEJ theo từng mùa tính từ cả hai 
loại số liệu trên đều phản ánh qui luật: EEJ lớn 
nhất vào xuân phân và giảm dần vào thu phân, mùa 
hè, yếu nhất vào mùa đông. Trong [19], Tarpley đã 
giải thích hiện tượng này bằng giả thiết là do sự 
thay đổi tâm của hệ dòng Sq, trong các tháng phân 
điểm cả ở bán cầu bắc và bán cầu nam, tâm này có 
xu hướng dịch chuyển về xích đạo, còn vào các 
tháng mùa hè hay mùa đông các tâm này dịch 
chuyển về phía cực. Khi đó, do sự ảnh hưởng tổng 
hợp của của hệ dòng Sq, biên độ của EEJ vào các 
tháng phân điểm sẽ lớn hơn. Riêng khu vực kinh 
tuyến từ 110οW-180οW, EEJ tính từ số liệu 
CHAMP vào mùa đông lại mạnh lên đáng kể tuy 
nhiên do không có số liệu của đài trạm trong khu 
vực này nên chưa so sánh được. Chúng ta cũng cần 
sử dụng thêm số liệu khác (như GPS, điện ly,...) để 
chứng minh sự tồn tại bốn đỉnh dị thường trên toàn 
cầu. Cũng cần chú ý rằng trong bài báo này do còn 
hạn chế về số liệu thu được tại các trạm dưới mặt 
đất chúng tôi mới sử dụng số liệu của các trạm nằm 
về phía bắc bán cầu mà chưa có số liệu phía nam 
bán cầu để so sánh. 
- Trong bảng 2 là kết quả tính toán giá trị mật 
độ dòng điện của EEJ thu được tại vị trí ba trạm 
tính từ số liệu vệ tinh CHAMP và từ các trạm cho 
các mùa khác nhau. Chúng đều lớn nhất vào xuân 
phân và nhỏ nhất vào mùa đông. Tuy nhiên, tại vị 
trí của trạm AAE giá trị EEJ thu được giữa hai loại 
số liệu trên lệch nhau nhiều, điều này có thể là do 
góc lệch giữa quỹ đạo của vệ tinh CHAMP và 
chiều của dòng EEJ qua khu vực này lớn hơn các 
khu vực của hai cặp trạm còn lại. 
- Hình 3a biểu diễn giá trị mật độ dòng EEJ 
phụ thuộc vào kinh tuyến vào mùa hè của các năm 
2002, 2004, 2007 thu được trên vệ tinh CHAMP, 
hình 3b là mật độ EEJ tính từ số liệu của ba trạm 
trên mặt đất với thời gian tương ứng và hình 3c 
trình bày giá trị trung bình tháng số vết đen mặt 
trời thu được trong cùng khoảng thời gian. Theo 
đó, vào những năm mặt trời hoạt động mạnh hơn 
như năm 2002-2003 khi số vết đen mặt trời lớn thì 
mật độ dòng EEJ thu được cũng lớn hơn, vào năm 
2006-2007 khi mặt trời hoạt động yếu thì EEJ cũng 
yếu hơn. Tuy nhiên chúng ta cần tiếp tục nghiên 
cứu quy luật biến đổi theo thời gian của EEJ cho 
những năm tiếp theo với ít nhất là một chu kỳ hoạt 
động của Mặt trời trên cả hai loại số liệu để 
khẳng định quy luật trên, nhất là hiện nay vệ 
tinh CHAMP vẫn đang hoạt động và cho số liệu 
đều đặn. 
→ Hình 2b. Biến thiên theo mùa 
của EEJ từ số liệu ba trạm mặt đất 
với sáu năm số liệu (2002-2007) 
với đường đậm nét liền là mùa 
đông, đường mảnh nét liền là mùa 
hè, đường mảnh nét rời là phân 
điểm tháng 3, 4 và đường đậm 
nét rời là phân điểm tháng 9, 10 
 34 
2000 2002 2004 2006 2008 2010
N¨m 
0
50
100
150
200
Sè
 v
Õt
 ®
en
 m
Æt
 tr
êi
← Hình 3a. EEJ vào mùa hè 
tính từ số liệu vệ tinh CHAMP 
năm 2002, 2004, 2007 
→ Hình 3b. EEJ vào mùa hè 
tính từ số liệu ba trạm từ 
năm 2002 đến 2007 
← Hình 3c. Số vết đen mặt trời 
theo giá trị trung bình tháng từ 
năm 2000-2010 (chấm tròn) 
và đường làm trơn số liệu 
(đường nét liền) 
 35
4. Kết luận 
Sau khi tính toán và nghiên cứu quy luật biến 
thiên theo thời gian của EEJ dọc theo các kinh 
tuyến khác nhau, tính từ số liệu thu được trên vệ 
tinh CHAMP trong vòng nửa chu kỳ hoạt động của 
mặt trời cũng như từ số liệu thu được tại các đài 
trạm mặt đất chúng tôi rút ra một số kết luận quan 
trọng sau: 
- Mật độ dòng của EEJ các tháng mùa hè và và 
các tháng phân điểm tồn tại bốn đỉnh cực đại và 
bốn đỉnh cực tiểu EEJ trên toàn cầu, trong đó đỉnh 
cực trị qua Việt Nam (105οE) là mạnh nhất so với 
các kinh tuyến khác. Trong mùa đông, EEJ chỉ tồn 
tại ba đỉnh cực đại và ba đỉnh cực tiểu, cực đại qua 
kinh tuyến 135οW là lớn nhất. 
- Biên độ của EEJ biến thiên tỷ lệ với số vết 
đen Mặt trời. Với năm Mặt trời hoạt động mạnh thì 
mật độ dòng của EEJ lớn hơn những năm Mặt trời 
hoạt động yếu. 
- Các biến thiên theo mùa của EEJ tính từ số 
liệu vệ tinh và số liệu các đài trạm khá tương ứng 
với nhau, chúng cùng mạnh lên vào các tháng phân 
điểm, mạnh nhất vào xuân phân và yếu đi vào mùa 
hè, yếu nhất vào mùa đông (trừ khu vực trong 
khoảng từ kinh tuyến 120οW đến 150οW, EEJ vào 
mùa đông lại lớn hơn vào mùa hè). 
Mối tương quan của quy luật biến đổi của EEJ 
theo mùa giữa hai loại số liệu là rất tốt, như vậy có 
thể khẳng định số liệu trường từ thu được trên vệ 
tinh CHAMP là chuỗi số liệu rất quý để nghiên cứu 
về EEJ trên toàn cầu, điều mà việc sử dụng số liệu 
thu được tại các trạm không phản ánh được do sự 
phân bố quá ít dọc theo tâm của EEJ. 
Tuy nhiên, việc tính phần ảnh hưởng của EEJ 
từ số liệu vệ tinh CHAMP vẫn còn bị ảnh hưởng 
của nhiều nguồn khác mà chúng ta vẫn chưa loại 
trừ hết được, nhưng đây vẫn là chuỗi số liệu rất 
quan trọng để chúng ta nghiên cứu về biến thiên 
của EEJ theo thời gian trên toàn cầu. 
Lời cảm ơn: Các tác giả bày tỏ lòng cám ơn 
TS. Doumouya đã có những ý kiến đóng góp xác 
đáng trong việc hoàn thành bài báo này. Bài báo 
được hoàn thành với phần số liệu vệ tinh được 
cung cấp bởi Viện Vật lý địa cầu Paris trong 
chương trình hợp tác giữa Viện Vật lý địa cầu - Hà 
Nội, Viện Vật lý địa cầu - Paris và Trung tâm 
nghiên cứu môi trường Trái Đất và các Hành tinh- 
“Nghiên cứu Vật lý địa cầu trong mối quan hệ Mặt 
trời - Trái Đất, nghiên cứu trường từ ở Việt Nam” 
(PICS-3366) và kinh phí của các đề tài nghiên cứu 
cơ bản mã số: 105.01.42.09 và 105.99.74.09. Các 
tác giả cũng cảm ơn các ý kiến đóng góp và các 
trung tâm số liệu địa từ khác đã cung cấp số liệu tại 
các đài trạm để hoàn thiện bài báo. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Agu C.E., Onwumechili C.A., 1981: 
Comparison of the POGO satellite and ground 
measurement of the magnetic field of the equatorial 
electrojet, J. Atmos. and Terr Phys, 43, 801-807. 
[2] Arora B.R., Mahahasbde M.V., 1993: 
Indian IEEY geomagnetic observational program 
and some preliminary results, J. Geophys, 11, 
365-384. 
[3] Chandra H., Sinha H.S.S and Rastogi R.G., 
2000: Equatorial electrojet studies from rocket and 
ground measurements, Earth Planets Space, 52, 
111-120. 
[4] Chapman S., 1951: The equatorial 
electrojet as detected from the abnormal electric 
current distributions above Huancayo, Peru and 
elsewhere, Arch. Meteorol. Geophys. Bioclimatol. 
A4, 368-390. 
[5] Doumouya V., Vassal J., Cohen Y., 
Fambitakyoye O. and Menvielle M., 1998: 
Equatorial electrojet at African longitudes: first 
results from magnetic measurements, Ann. 
Geophysics, 16, 658-676. 
[6] Doumouya V., Cohen Y., 2004: Improving 
and testing the empirical equatorial electrojet 
model with CHAMP satellite data, Ann. 
Geophysics, 3323-3333. 
[7] England S.L., 2006: Longitudinal variation 
of the E-region electric fields caused by 
atmospheric tides, Geophys.Res.Lett., 33. 
[8] Hagan M.E. and Forbes J.M., 2002: 
Migrating and nonmigrating diurnal tides in the 
middle and upper atmosphere excited by 
tropospheric latent heat release, Geophys.Res., 
107(D24), 4754, doi:10.1029/2001JD001236. 
[9] Kim H.R., King D., 1999: A study of local 
time and longitudinal variability of the amplitude 
of the equatorial electrojet observed in POGO 
satellite data, Earth Planets Space, 51, 373-381. 
 36 
[10] Le Mouël J.L., Shebalin P. and Chulliat 
A., 2005: The field of the equatorial electrojet from 
CHAMP data, Ann. Geophysics, 14, 38-46. 
[11] Onwumechili C. A., 1985: Satellite 
measurements of the equatorial electrojet, J. 
Geomag. Geoelectr., 37, 11-36. 
[12] Onwumechili C. A. and Agu C. E., 1980: 
General features of the magnetic field of the 
equatorial electrojet measured by the POGO 
satellites, Planet. Space Sci., 28, 1125-1130. 
[13] Rabiu A.B., Mamukuyomi A.I., and Joshua 
E.O., 2007: Variability of equatorial ionosphere 
inferred from geomagnetic field measurements, 
Earth Planets Space, 65, 607-618. 
[14] Rastogi R.G., 1989: The equatorial 
electrojet in magnetic and ionospheric effects, 
Geomagnetism, 3, 461-525. 
[15] Rangarajan G.K., 1973: Indices of 
Geomagnetic Activity, In Geomagnetism, Vol. 3 
Edited by J.A. Jacobs. 
[16] Rao D.R.K, Hao T.Q., Thoa N.T.K., 1997: 
Comparative study of the Equatorial Electrojet 
Strengths in the Indian and Vietnamese sectors 
during IEEY. IAGA/UPPSALA, August 4th., 1997. 
[17] Patric A., Stefan M., 2002: Spatio-temporal 
characterization of the equatorial electrojet from 
CHAMP, Orsted, and SAC-C satellite magnetic 
measurements, Geophys. J. Int., 112, 1-10. 
[18] Sabaka J., Olsen T.N., 2004: Extending 
comprehensive models of the Earth’s magnetic 
field with Orsted CHAMP data, Geophys. J. Int., 
159, 521-547. 
[19] Tarpley J.D., 1973: Seasonal movement of 
the sq current foci and related effects in the 
equatorial electrojet, Terr Phys, 35, 101-107. 
[20] Lê Trường Thanh, Doumouya VafI, Lê 
Huy Minh và Hà Duyên Châu, 2010: Mô hình dòng 
điện xích đạo từ số liệu vệ tinh CHAMP, Tạp chí 
Các khoa học về Trái Đất, T. 32, 1, 48-56. 
SUMMARY 
Anomaly of equatorial electrojet (EEJ) and its seasonal variation 
In this paper we apply the new technique to separate the effect of the EEJ with the magnetic data received on 
CHAMP satellite from 2002 to 2007 to study the anomaly of the EEJ and its season variation in global scale. We found 
that: In summer and equinox, along the magnetic equator there are 4 maximum peaks and 4 minima of the current 
density of the EEJ. These maximum peaks are at the longitudes: 105οE, 0ο, 90οW and 180οW, among which the peak at 
the Vietnamese sector (105οE) is maximal. These minima are at the longitudes 45οE, 140οE, 40οW and 135οW. In 
winter, the EEJ have only 3 peaks at 135οW, 10οW, and 100οE. The peak at 135οW is maximal. The current density of 
the EEJ is maximum in the equinox, smaller in the summer and smallest in the winter. In the period when the Sun is 
active, the current density of the EEJ is bigger than that in the calm period of the Sun. Additionally, these results are 
compared with those obtained from the magnetic data received at the 3 observatories pairs on the Earth’s surface with 
one of the observatories in the immediate proximity to the dip-equator (HUA, AAE, BCL) and the other outside of the EEJ 
footprint area (FUQ, QSB, PHU) for consolidating the well-founded properties and the magnetic data received on 
CHAMP are very useful to study the EEJ in Vietnam and over the world. 

File đính kèm:

  • pdfdi_thuong_va_bien_thien_theo_mua_cua_dong_dien_xich_dao.pdf