Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế

Tăng trưởng và phát triển kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả mọi quốc gia, là thước đo chủ yếu, là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Mỗi thành phần kinh tế đều có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và đều cùng tồn tại và tác động đến tăng trưởng kinh trưởng kinh tế.

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 1

Trang 1

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 2

Trang 2

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 3

Trang 3

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 4

Trang 4

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 5

Trang 5

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 6

Trang 6

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 7

Trang 7

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế trang 8

Trang 8

pdf 8 trang Danh Thịnh 11/01/2024 2220
Bạn đang xem tài liệu "Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế

Đầu tư tư nhân: Động lực phát triển của nền kinh tế
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
1 
ĐẦU TƯ TƯ NHÂN: ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ 
Dương Quỳnh Nga1 
Phạm Thu Hương1 
TÓM TẮT 
Tăng trưởng và phát triển kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả mọi quốc 
gia, là thước đo chủ yếu, là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Mỗi 
thành phần kinh tế đều có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên hình 
thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và đều cùng tồn tại và tác động đến tăng 
trưởng kinh trưởng kinh tế. Nắm vững được bản chất của đầu tư tư nhân, biết rõ các 
yếu tố tạo ra sự thu hút đầu tư tư nhân nhằm sử dụng chúng một cách có hiệu quả 
nhất trong quá trình phát triển kinh tế. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu phân tích 
vai trò của đầu tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, 
đồng thời nêu lên những yếu tố tác động tới việc thu hút đầu tư tư nhân ở Việt Nam. 
Từ khóa: Đầu tư tư nhân, tăng trưởng kinh tế, chính sách nhà nước 
1. Đặt vấn đề 
Nghị quyết số 10-TQ/TW ngày 3 
tháng 6 năm 2017 Hội Nghị lần thứ 5 
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng 
(khóa XII) đưa ra mục tiêu phát triển 
kinh tế tư nhân trở thành động lực quan 
trọng trong kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh 
tế tư nhân nhanh, bền vững với tốc độ 
tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, 
chất lượng và tỷ trọng tổng sản phẩm 
nội địa (GDP). Theo Ủy ban Giám sát 
Tài chính quốc gia, tăng trưởng kinh tế 
năm 2018 sẽ dựa vào mức tăng trưởng 
đều ở cả ba khu vực. 
Kinh tế tư nhân luôn là vấn đề gây 
tranh cãi và đụng chạm đến nhiều khía 
cạnh chính trị - xã hội. Với sự nhất quán 
trong đường lối đổi mới của Đảng, với 
phương châm nhìn thẳng vào sự thật, 
tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật, cùng 
với sự nỗ lực của các nhà lý luận, các 
nhà quản lý và sự hưởng ứng của nhân 
dân, kinh tế tư nhân đã hồi phục, phát 
triển và trở thành một lực lượng kinh tế 
lớn mạnh, góp phần vào công cuộc đổi 
mới nhằm xây dựng nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Không ai có thể phủ nhận vai trò quan 
trọng của kinh tế tư nhân trong việc góp 
phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế thời 
gian qua. 
Bài viết này dùng phương pháp 
nghiên cứu tổng hợp để tìm ra vai trò 
của đầu tư tư nhân ảnh hưởng đến tăng 
trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời 
gian qua và nêu lên những yếu tố tác 
động đến việc thu hút đầu tư tư nhân ở 
Việt Nam. 
2. Kinh tế tư nhân 
Khái niệm về kinh tế tư nhân được 
hiểu qua hai cấp độ khác nhau: 
Theo cấp độ khái quát, được xem 
xét trên góc độ khu vực nhà nước và 
khu vực ngoài quốc doanh, kinh tế tư 
nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc 
1Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh 
Email: nga.dq@ou.edu.vn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
2 
doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà 
nước), bao gồm các doanh nghiệp trong 
và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm 
trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân 
cần được hiểu là tất cả các cơ sơ sản 
xuất kinh doanh không dựa trên sở 
hữu nhà nước về các yếu tố của quá 
trình sản xuất. Bản chất của doanh 
nghiệp tư nhân là họ sử dụng nguồn 
vốn của chính họ và chính túi tiền của 
họ. Nguyên tắc hoạt động của loại 
hình doanh nghiệp tư nhân là tự bỏ 
vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh 
doanh và tự bù lỗ. 
Ở cấp độ hẹp hơn, kinh tế tư nhân 
gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh 
tế tư bản tư nhân. Như vậy, kinh tế tư 
nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại 
hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá 
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân 
dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản 
xuất tồn tại dưới các hình thức doanh 
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm 
hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh 
doanh cá thể. Đây là khu vực kinh tế rất 
nhạy cảm với những đặc trưng của nền 
kinh tế thị trường, có tiềm lực lớn trong 
việc nâng cao năng lực nội sinh của đất 
nước và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy 
việc phát triển kinh tế tư nhân có lợi 
cho chủ nghĩa xã hội và được coi là 
điều kiện không thể thiếu để xây dựng 
thành công kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh 
tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài, 
là động lực quan trọng để phát triển nền 
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã 
hội chủ nghĩa. 
3. Vai trò của kinh tế tư nhân đối 
với tăng trưởng kinh tế 
a. Về mặt lý thuyết 
Đầu tư tư nhân giữ vai trò quan 
trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của 
nền kinh tế thị trường (Ghura, 1997; 
Kim, 1998; Khan và Reinhart, 1990 [1]). 
Đầu tư của doanh nghiệp tư nhân giúp 
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu ngân 
sách của chính phủ bằng cách thu thuế, 
giảm nhập khẩu và/ hoặc tăng xuất khẩu, 
giúp chuyển giao công nghệ, phát triển 
kinh doanh địa phương. Vì vậy tất cả các 
chính phủ đều tăng cường nỗ lực thu hút 
đầu tư tư nhân (Bond và Samuelson, 
1986; Nam và Radulescu, 2004; 
Pennings, 2000; Yu và cộng sự, 2007). 
b. Thực trạng ở Việt Nam 
Năm 2002, cả nước có 55.236 
doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 2016 
cả nước có 495.826 doanh nghiệp tư 
nhân. Kinh tế tư nhân sử dụng 85% lao 
động trong nền kinh tế, có tốc độ tăng 
trưởng bình quân giai đoạn 20003 -
2015 là 10,2%, đóng góp khoảng 39-
40% GDP cho đất nước. 
Tuy nhiên kinh tế tư nhân chưa thật 
sự trở thành động lực quan trọng cho sự 
phát triển của nền kinh tế. Kinh tế tư 
nhân chủ yếu vẫn là kinh tế hộ cá thể. 
97% doanh nghiệp tư nhân có quy mô 
nhỏ và siêu nhỏ, trình độ công nghệ lạc 
hậu, đổi mới chậm, trình độ quản trị, 
năng lực tài chính, năng suất lao động, 
hiệu quả kinh doanh, chất lượng sản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
3 
phẩm còn thấp. Cơ cấu ngành nghề 
của doanh nghiệp tư nhân còn chưa hợp 
lý, hơn 80% hoạt động thương mại, 
dịch vụ chỉ có hơn 10% hoạt động trong 
lĩnh vực công nghiệp, chỉ có khoảng 1% 
doanh nghiệp đầu tư, hoạt động trong 
lĩnh vực nông nghiệp. 
Tuy nhiên theo cuộc khảo sát lần 
thứ 16 của Grant Thornton thực hiệ ... t Nam được xem 
là điểm đến hấp dẫn đầu tư thứ hai 
trong toàn khu vực Đông Nam Á. 
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân 
góp phần xây dựng quan hệ sản xuất 
phù hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất 
phát triển. Kinh tế tư nhân làm cho các 
quan hệ sở hữu của nền kinh tế trở nên 
đa dạng hơn. Sự biến đổi của quan hệ 
sản xuất đã kéo theo sự biến đổi của 
quan hệ quản lý và phân phối làm cho 
quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù 
hợp với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất vốn còn thấp và phát 
triển không đều giữa các vùng, các 
ngành trong cả nước. Nhờ vậy khơi dậy 
và phát huy tiềm năng về vốn, đất đai, 
lao động, kinh nghiệm sản xuất của các 
tầng lớp nhân dân, các dân tộc vào công 
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Thứ hai, kinh tế tư nhân góp phần 
quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi của xã 
hội và sử dụng tối đa các nguồn lực của 
địa phương. Các doanh nghiệp tư nhân 
thường có quy mô vừa và nhỏ, lại được 
phân tán ở hầu hết các địa phương, các 
vùng lãnh thổ nên có khả năng sử dụng 
các tiềm năng về nguyên vật liệu, lao 
động và kinh nghiệm sản xuất các 
nghành nghề truyền thống của địa 
phương. Kinh tế tư nhân đã đóng góp 
đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà 
nước và đóng góp đáng kể vào việc xây 
dựng các công trình văn hóa, trường 
học, thể dục, thể thao. 
Thứ ba, kinh tế tư nhân góp phần 
thu hút bộ phận lớn lực lượng lao động 
và đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị 
trường lao động. Kinh tế tư nhân có thể 
thu hút lực lượng lao động đông đảo, đa 
dạng, phong phú cả về mặt số lượng 
cũng như chất lượng, từ lao động thủ 
công đến lao động chất lượng cao ở tất 
cả các vùng, miền của đất nước, ở mọi 
tầng lớp dân cư Ngoài tạo công ăn 
việc làm, do những đòi hỏi để đứng 
vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp 
phải luôn tìm những biện pháp tổ chức 
lao động, quản lý có hiệu quả nhất, vì 
vậy kỹ thuật lao động được thực hiện rất 
nghiêm ngặt. Chính điều này góp phần 
đào tạo nên đội ngũ lao động có kỹ năng 
và tác phong công nghiệp. 
Thứ tư, kinh tế tư nhân góp phần 
thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc 
tế. Việt Nam muốn phát triển nhanh cần 
phải hội nhập kinh tế khu vực và quốc 
tế, thu hút vốn và công nghệ vào nền 
kinh tế của mình. 
Tính đến ngày 20 tháng 10 năm 
2017, các dự án FDI đã giải ngân được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
4 
14,2 tỷ USD. Như vậy, một nguồn vốn 
rất lớn đã được đưa vào nền kinh tế từ 
khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp 
tư nhân trong nước, từ đó bù đắp cho 
phần vốn công giải ngân chậm, góp 
phần vào tăng trưởng kinh tế. Nhiều 
công trình, dự án rất lớn, quan trọng 
được thông qua nhờ nguồn vốn xã hội. 
Trong bảng xếp hạng VNR500, năm 
2017, đóng góp của khu vực tư nhân đã 
tăng lên từ 27% năm 2016 lên 32,3%. 
4. Các yếu tố tác động tới đầu tư 
tư nhân 
Tuy nhiên báo cáo của Ủy ban 
Giám sát Tài chính quốc gia cũng chỉ ra 
rằng, các vấn đề nội tại của nền kinh tế 
như trình độ công nghệ thấp, đất đai, tài 
nguyên đang dần cạn kiệt trong khi 
năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh 
tranh của nền kinh tế tuy có cải thiện 
nhưng chưa thật sự đột phá. 
Quản lý nhà nước khuyến khích các 
công ty tư nhân. Vì vậy các chính sách 
công hỗ trợ cho đầu tư tư nhân tránh 
được rủi ro có thể (Krasniqi và Desai, 
2016 [2]; Kshetri và Dholakia, 2011; 
Peev, 2015). Hơn nữa, quản lý nhà 
nước tốt giúp xây dựng lòng tin và cung 
cấp các quy tắc và sự ổn định cần thiết 
cho kế hoạch đầu tư và kinh doanh của 
doanh nghiệp trong thời gian dài, đồng 
thời tạo ra sự tương tác giữa sản xuất 
chính phủ, đại lý công và các công ty, 
sau đó theo cân bằng Nash đạt được, sẽ 
cung cấp phúc lợi xã hội cao nhất 
(Kously và cộng sự, 2006; 
Dzhumashev, 2014). Lập luận này cho 
rằng hành chính công hoạt động như 
một động lực cơ bản để biến đổi chi tiêu 
công thành tăng trưởng năng suất. Cùng 
với đó, Knack (2003) cho rằng quản lý 
nhà nước tác động đến tăng trưởng kinh 
tế thông qua thay đổi hành vi của các 
tác nhân kinh tế có ảnh hưởng đáng kể 
đến việc phân bổ các nguồn lực của nhà 
nước và tư nhân. Cũng như quản lý hiệu 
quả, chính phủ có thể tránh tìm kiếm lợi 
nhuận và ngăn chặn các nhóm lợi ích 
khai thác quyền lực tùy ý (Buchanan, 
1980 [3]; Kimenyi và Tollison, 1999 
[4]). Nếu tính minh bạch và trách nhiệm 
giải trình trong thu mua công, khoản trợ 
cấp tối ưu và quy mô chi tiêu công sẽ 
giảm, trong khi đó đầu tư tư nhân sẽ 
được kích thích (Barbosa và cộng sự, 
2016) [5]. Ngược lại, quản trị yếu kém 
làm giảm môi trường đầu tư và làm tăng 
rủi ro liên quan đến các quyết định đầu 
tư tư nhân. Barro (1991) [6] cho thấy 
một mối liên hệ tiêu cực giữa bạo lực 
chính trị và đầu tư tư nhân. Morrissey 
và Udomkerdmongkol (2012) [7] nhận 
thấy rằng tham nhũng và bất ổn chính 
trị chủ yếu gây ảnh hưởng xấu đến đầu 
tư tư nhân. Percoco (2014) [8] nhấn 
mạnh rằng, các thể chế tốt hơn, liên 
quan đến tự do dân sự, khuôn khổ pháp 
lý tốt hơn và tham nhũng thấp hơn, 
khuyến khích sự tham gia của tư nhân 
vào các quan hệ đối tác công tư nhân. 
Các khoản đầu tư của các doanh nghiệp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
5 
đa quốc gia vào các nước đang phát 
triển phụ thuộc vào cấu trúc quản trị của 
chính phủ sở tại. Trong khi Braga và 
Moreira (2013) nhấn mạnh rằng sự ổn 
định về kinh tế và sự tín nhiệm của 
chính phủ là những yếu tố quyết định sự 
tăng trưởng dài hạn của đầu tư tư nhân 
tại Braxin thì Nguyen và Yu (2014) cho 
rằng các tổ chức quyền tài sản yếu kém 
đang làm giảm năng suất của các công 
ty Trung Quốc. Mặc dù đã chú ý đến 
mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và 
đầu tư tư nhân trong một thời gian dài 
nhưng lý thuyết về hiệu quả của quản trị 
nhà nước đối với đầu tư tư nhân vẫn 
chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Ví 
dụ, một số học giả cho rằng tham nhũng 
có thể là điều kiện đầu tư tư nhân 
(Zelekha và Bar Efrat, 2011) [9], trong 
khi một số khác xem đó là rào cản đối 
với đầu tư tư nhân (Nguyễn và van 
Dijk, 2012 [10]; Voyer và Beamish, 
2004). Do đó mối quan hệ giữa chi tiêu 
công cộng, quản lý nhà nước và đầu tư 
tư nhân cũng bị đặt câu hỏi vì hiệu quả 
của chi tiêu công đối với đầu tư tư nhân 
có thể được củng cố hoặc suy yếu khi 
một trong số đó bao gồm quản lý nhà 
nước trong mô hình. Hiện tại, tác động 
tương tác giữa quy mô của chính phủ và 
quản trị công đã bị bỏ qua trong các tài 
liệu về các yếu tố quyết định đầu tư tư 
nhân mặc dù hiệu quả của chi tiêu công 
là điều kiện của chất lượng quản trị 
công. Với sự đóng góp của chi tiêu 
công vào năng suất tư nhân, quản trị tốt 
đồng nghĩa với việc sử dụng có hiệu 
quả các khoản chi tiêu của chính phủ 
nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân. 
Dzhumashev (2014) cho rằng các nước 
có chất lượng quản trị cao hơn có quy 
mô chi tiêu của chính phủ cao hơn so 
với các nước có chất lượng quản lý thấp 
hơn. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, 
chính phủ Việt Nam đã đưa các cơ quan 
chủ chốt vào hoạt động để hỗ trợ khu 
vực tư nhân. Quản lý nhà nước và cải 
cách thể chế có tác động quan trọng đến 
việc tăng hiệu suất của công ty, giúp 
chuẩn bị cho các doanh nghiệp trong 
nước những đổi mới chiến lược và khả 
năng cạnh tranh hiệu quả hơn so với các 
nước khác. Malesky và cộng sự (2009) 
chỉ ra rằng những cải tiến trong các thể 
chế quản trị là những yếu tố quyết định 
quan trọng trong việc lựa chọn khu vực 
chính thức ngay từ đầu và các quyền về 
tài sản có ảnh hưởng đáng kể đến việc 
chính thức hóa hơn các khía cạnh khác 
của tổ chức. Tuy nhiên ADB (2005) 
[11] và Schaumburg-Müller (2005) cho 
rằng khung pháp lý và quy định cho 
hoạt động của các doanh nghiệp thiếu 
cơ chế đáng tin cậy để giải quyết tranh 
chấp thương mại. Khu vực tư nhân 
trong nước của Việt Nam đã hạn chế 
tiếp cận với các nguồn lực chính và bảo 
vệ thị trường. Những thay đổi trong 
quản trị công có ít ảnh hưởng đến đầu 
tư tư nhân. Sự kết hợp giữa hầu hết các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
6 
khía cạnh của quản trị địa phương và 
đầu tư tư nhân là không đáng kể 
(McCulloch và cộng sự, 2013). Ngoài 
ra Nguyễn và van Dijk (2012) [10] cung 
cấp bằng chứng cho thấy các chính sách 
công có xu hướng đối với các doanh 
nghiệp nhà nước là nguyên nhân chính 
của tham nhũng làm méo mó môi 
trường kinh doanh và làm tăng trưởng 
kinh tế. Van và Sudhipongpracha 
(2015) nhận thấy thâm hụt ngân sách 
của Việt Nam là cao nhất ở Đông Nam 
Á, nhưng không liên quan trực tiếp đến 
tình hình kinh tế xấu. 
Sự thay đổi xếp hạng tín dụng quốc 
gia có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân 
thực sự của các quốc gia được đánh giá 
lại. Tăng trưởng tăng đáng kể khi quốc 
gia đó được nâng hạng tín dụng, tuy 
nhiên sự gia tăng này chỉ là tạm thời. 
Choong và cộng sự (2013) thấy sự sụt 
giảm đáng kể, tạm thời trong tăng 
trưởng đầu tư tư nhân sau khi hạ bậc 
xếp hạng chủ quyền. Tính chất không 
thể đảo ngược của đầu tư có thể là giải 
thích cho sự thay đổi tạm thời trong tỷ 
lệ tăng trưởng của đầu tư vốn vật chất 
liên quan đến việc điều chỉnh xếp hạng 
tín dụng quốc gia. 
Choong (2012) [12] xem xét mối 
quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (FDI), phát triển tài chính và tăng 
trưởng kinh tế trong một hội nghị gồm 
95 nước phát triển và đang phát triển từ 
năm 1983 đến năm 2006. Bằng cách sử 
dụng phương pháp phân tích tổng thể về 
phân tích thời gian (GMM), Choong 
thấy có bằng chứng mạnh mẽ về mối 
quan hệ tích cực giữa dòng FDI chảy 
vào một quốc gia và hiệu quả kinh tế 
của nó. Ông cũng tìm thấy bằng chứng 
cho thấy hệ thống tài chính trong nước 
là một điều kiện tiên quyết để FDI có 
tác động tích cực đến tăng trưởng kinh 
tế. Những ý nghĩa chính sách rõ ràng. 
Cần nỗ lực để cải cách và cải thiện sự 
phát triển của hệ thống tài chính trong 
nước để hưởng lợi nhiều hơn từ sự có 
mặt của FDI. 
5. Kết luận 
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân 
cũng đã ngày được coi trọng và khuyến 
khích phát triển. Từ chỗ chỉ được thừa 
nhận và cho phép tồn tại thì nay đã được 
coi là “động lực quan trọng của nền kinh 
tế và xu thế tất yếu giúp Nhà nước thực 
thi nhiệm vụ kinh tế đã đề ra” (Đại hội 
XII - 2016). Tuy nhiên kinh tế tư nhân 
vẫn chưa thật sự phát huy được tiềm 
năng vốn có vì những hạn chế về hoàn 
thiện pháp luật, nguồn nhân lực, hành 
lang pháp lý để đảm bảo cho kinh tế tư 
nhân phát triển. Do đó để thúc đẩy sự 
phát triển của kinh tế tư nhân, Nhà nước 
cần có những biện pháp hỗ trợ tích cực 
trong việc phát triển mối quan hệ giữa 
nhà nước với tư nhân, giữa tư nhân trong 
nước và tư nhân nước ngoài. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
7 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Khan, Mohsin, Reinhart, C. (1990), “Private investment and economic growth 
in developing countries”, World Development, vol. 18, 19-27 
2. Krasniqi, B. and Desai, S. (2016), “Institutional drivers of high-growth firms: 
country-level evidence from 26 transition economies”, Small Business Economics, 47 
(4): 1075-1094 
3. Buchanan, J.M. (1980), “Rent-Seeking and profit-Seeking” In: Tollison, J.M., 
Buchanan, R.D., Tullock, G. (Eds.), Toward a Theory of RentSeeking Society, Texas 
A & MUniversity Press, College Station 
4. Kimenyi, S.M., Tollison, D.R. (1999), Rent seeking, institutions, and 
economic growth. In: Mwagi Kimenyi, S., Mbaku, Mukum John (Eds.), “Institutions 
and CollectiveChoice in Developing Countries” Ashgate, Aldershot, England; 
Brookfield, Vt.Knack, S., 2003. Democracy, Governance and Growth. The 
University of Michigan Press, Ann Arbor 
5. Barbosa, D., Carvalho, V.M., Pereira, P.J. (2016), “Public stimulus for 
private investment: an extended real options model”, Economie Model, 52 (Part 
B), 742–748 
6. Barro, R. (1991), “Economic growth in a cross section of countries”, The 
Quarterly Journal of Economics, Vol. 106, 407-443 
7. Morrissey, O., Udomkerdmongkol, M. (2012), “Governance, private 
investment and foreign direct investment in developing countries”, World 
Development, vol. 40 (3), 437–445 
8. Percoco, M. (2014), “Quality of institutions and private participation in 
transport infrastructure investment: evidence from developing countries”, 
Transportation Research Part A: Policy Practice vol. 70, 50–58 
9. Zelekha, Y., Bar-Efrat, O. (2011), Crime, terror and corruption and their effect 
on private investment in Israel. Open Econ. Rev. 22 (4), 635–648 
10. Nguyen, T.T., van Dijk, M.A. (2012), “Corruption, growth, and governance: 
private vs. state-owned firms in Vietnam”, Journal of Bank and Finance 36 (11), 
2935–2948 
11. ADB (2005), Viet Nam Private Sector Assessment, ADB: Strategy and 
Program Assessment, Retrieved from 
private-sectorassessment 
12. Choong, C-K. (2012), “Does domestic financial development enhance the 
linkages between foreign investment and economic growth”, Emperical Economic, 
vol. 42 (3), 819-834 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
8 
PRIVATE INVESTMENT: MOTIVATION FOR 
THE ECONOMIC GROWTH 
ABSTRACT 
Economic growth and development are important for all countries and also a 
key metric, a material precondition for reducing poverty. Each economic component 
has its own nature, its own economic law, based on the most proprietary form of 
capital goods. It exists and influences the economic growth. It is necessary to 
understand the nature of private investment, and know the factors that drive private 
investment in order to use them most effectively in economic development. In this 
article, the author mainly analyzes the role of private investment in Vietnam's 
economic growth over the past years and at the same time raises the factors that 
influence the attraction of private investment in Vietnam. 
Keywords: Private investment, economic growth, policy of government 
(Received: 23/7/2018, Revised: 20/8/2018, Accepted for publication: 18/9/2018) 

File đính kèm:

  • pdfdau_tu_tu_nhan_dong_luc_phat_trien_cua_nen_kinh_te.pdf