Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Các chất ô nhiễm không khí điển hình (PM10, CO, SO2, NOx) được quan trắc ở khu vực

bên trong (tầng hầm, trung tâm thương mại) và bên ngoài (không khí xung quanh) của các tòa nhà

hỗn hợp (sử dụng đa mục đích để ở, làm văn phòng, trung tâm thương mại, v.v.) trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ chất ô nhiễm không khí trong nhà có xu hướng

cao hơn nồng độ chất ô nhiễm không khí tương ứng trong môi trường không khí xung quanh tại

cùng tòa nhà hỗn hợp. Nồng độ chất ô nhiễm tại tầng hầm (nơi để xe ô tô, xe máy) là lớn nhất, với

PM10, SO2, NOx, CO lần lượt là 67,1  21,2 µg/m3, 224,8  34,9 µg/m3, 287,3  136,3 µg/m3,

22.372,5  2.324,5 µg/m3. Hàm lượng chất ô nhiễm cao trong môi trường không khí trong nhà được

khuyến cáo là không tốt cho những người làm việc và có thời gian tiếp xúc dài với nguồn chất ô

nhiễm nói trên.

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 1

Trang 1

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 2

Trang 2

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 3

Trang 3

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 4

Trang 4

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 5

Trang 5

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 6

Trang 6

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 7

Trang 7

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 10660
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
85 
Original Article 
Assessment of Indoor and Ambient Air Pollution 
at Complex Buildings in Hanoi 
Hoang Anh Le , Le Thuy Linh 
Faculty of Environmental Sciences, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
Received 17 May 2019 
Revised 01 August 2019; Accepted 02 August 2019 
Abstract: The most typical air pollutants including PM10, CO, SO2, NOx are monitored at different 
sites indoor (basement, shopping malls) and outdoor (ambient air) of several complex buildings 
which are used for different purposes of resident, office, and shopping malls in Hanoi. The results 
show that the indoor air pollution concentrations tend to be higher than the corresponding pollutants 
of the ambient air. The results show the highest concentrations are in RC building for the same 
category of floor comparing to the other two buildings. Pollutant concentrations at basement for 
parking is the highest with the values of PM10, SO2, NOx, CO of 67.1 21.2 µg/m3, 224.8 34.9 
µg/m3, 287.3 136.3 µg/m3, 22,372.5 2,324.5 µg/m3, respectively. The high concentration of 
indoor air pollutants are harmful for human health, especially for those who have longer exposure 
time. 
Keywords: Indoor air pollution, Building, Hanoi. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: leha@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4393 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
 86 
Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời 
tại một số tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội 
Hoàng Anh Lê , Lê Thùy Linh 
Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Vietnam 
Nhận ngày 17 tháng 5 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 8 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 8 năm 2019 
Tóm tắt: Các chất ô nhiễm không khí điển hình (PM10, CO, SO2, NOx) được quan trắc ở khu vực 
bên trong (tầng hầm, trung tâm thương mại) và bên ngoài (không khí xung quanh) của các tòa nhà 
hỗn hợp (sử dụng đa mục đích để ở, làm văn phòng, trung tâm thương mại, v.v.) trên địa bàn thành 
phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ chất ô nhiễm không khí trong nhà có xu hướng 
cao hơn nồng độ chất ô nhiễm không khí tương ứng trong môi trường không khí xung quanh tại 
cùng tòa nhà hỗn hợp. Nồng độ chất ô nhiễm tại tầng hầm (nơi để xe ô tô, xe máy) là lớn nhất, với 
PM10, SO2, NOx, CO lần lượt là 67,1 21,2 µg/m3, 224,8 34,9 µg/m3, 287,3 136,3 µg/m3, 
22.372,5 2.324,5 µg/m3. Hàm lượng chất ô nhiễm cao trong môi trường không khí trong nhà được 
khuyến cáo là không tốt cho những người làm việc và có thời gian tiếp xúc dài với nguồn chất ô 
nhiễm nói trên. 
Từ khóa: Ô nhiễm không khí trong nhà, tòa nhà, Hà Nội. 
1. Tổng quan 
Ô nhiễm không khí có tác động lớn đến các 
hệ sinh thái, cảnh quan và sức khỏe con người. 
Tuy nhiên, ô nhiễm không khí trong nhà (indoor 
air pollution, IAP) cũng có thể có những tác 
động tương tự, thậm chí với mức độ lớn hơn so 
với ô nhiễm không khí ngoài trời do thời gian 
tiếp xúc kéo dài. Số liệu thống kê qua các công 
trình nghiên cứu cho thấy con người dành phần 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: leha@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4393 
lớn thời gian sống trong môi trường trong nhà, 
với 87% thời gian sống bên trong tòa nhà khép 
kín và 6% trong các phương tiện đóng kín [1]. 
Hệ quả dẫn đến việc con người có thể gặp rủi ro 
nếu tiếp xúc trong thời gian dài với chất lượng 
không khí trong nhà (indoor air quality, IAQ) 
không được đảm bảo [1-3]. Điểm 9, Điều 2, Luật 
phòng chống tác hại của thuốc lá có nêu rõ khái 
niệm “trong nhà” được hiểu là nơi có mái che 
và có một hay nhiều bức tường chắn hoặc vách 
H.A. Le, L.T. Linh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
87 
ngăn xung quanh [4], nơi rất hạn chế hoặc không 
có điều kiện thông gió với môi trường xung 
quanh. Việc thông gió có thể được thực hiện chủ 
yếu bằng cách trao đổi không khí gián tiếp bởi 
các trang thiết bị nhân tạo như quạt, hệ thống 
thông gió cưỡng bức, thiết bị làm lạnh. Một số ví 
dụ về chất lượng môi trường trong nhà được lưu 
tâm nhà ở, văn phòng, phòng học, tòa nhà thương 
mại, nhà ga, tòa nhà đa mục đích, trong ô tô, xe 
buýt, tàu điện ngầm [2, 3, 5-12]. Có nhiều nguồn 
IAP, bao gồm các chất ô nhiễm phát sinh từ các 
nguồn có sử dụng chất đốt là dầu, khí đốt, dầu 
hỏa, than đá, gỗ và các sản phẩm thuốc lá, vật 
liệu xây dựng, đồ nội thất làm từ vật liệu gỗ ép, 
tấm cách ly có chứa amiăng, thảm, sản phẩm để 
làm sạch và bảo trì hộ gia đình, sản phẩm chăm 
sóc cá nhân, hệ thống sưởi ấm và làm mát trung 
tâm, các thiết bị làm ẩm; và các nguồn ô nhiễm 
không khí ngoài trời, thuốc trừ sâu [1-3, 5-7]. 
Một số chất gây ô nhiễm trong nhà đang có xu 
hướng gia tăng về nồng độ, bao gồm: bụi (PM), 
muội than (BC), SO2, NOx, formaldehyde 
(HCHO), các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi 
(VOCs), benzene, radon, nấm và vi khuẩn [1-3, 
5-10, 12-14]. IAP có thể có tác động đáng kể đến 
sức khỏe con người bao gồm các tác động trực 
tiếp và cấp tính (ảnh hưởng đến mắt, mũi, dị ứng 
họng, nhức đầu, chóng mặt và các triệu chứng 
mệt mỏi khác) cũng như các tác động gián tiếp 
và mãn tính khác (bệnh đường hô hấp, ung thư 
hoặc suy nhược nghiêm trọng hoặc tử vong) 
[13]. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có cảnh 
báo với ước tính số ca tử vong hàng năm liên 
quan quan đến ô nhiễm không khí ngoài trời là 
3,7 triệu người, ô nhiễm môi trường không khí 
trong nhà lên đến 4,3 triệu người [14]. Chất 
lượng không khí ở các thành phố lớn, đặc biệt ở 
các nước đang phát triển như Việt Nam đã và 
đang có nhiều biến động theo chiều hướng xấu 
[6]. Chất lượng không khí xung quanh ở thành 
phố Hà Nội có số ngày ở mức xấu có chiều 
hướng gia tăng thông qua chỉ số ô nhiễm không 
khí [15 ... ễm theo 
không gian các tiểu vùng môi trường 
Sự phân bố nồng độ các chất ô nhiễm không 
khí tại 3 vị trí quan trắc (không khí xung quanh, 
tầng hầm, trung tâm thương mại) của 3 tòa nhà 
hỗn hợp tại thành phố Hà Nội được liệt kê theo 
Bảng 1. Quy chuẩn kỹ thuật với môi trường 
không khí xung quanh, PM10 không có giá trị quy 
chuẩn trong khoảng thời gian 1h để đánh giá. 
Nồng độ SO2, NOx, CO cũng chưa vượt quá giá 
trị QCVN trung bình 1h trong môi trường không 
khí xung quanh, với giá trị giới hạn lần lượt là 
350 µg/m3, 200 µg/m3 và 30.000 µg/m3 [17]. 
Trong khi đó, chưa có khuyến cáo hay quy định 
cụ thể nào đối với nồng độ các chất ô nhiễm 
trong chất lượng không khí trong nhà, do vậy chỉ 
có thể so sánh mức độ ô nhiễm của các thông số 
trong các tiểu vùng môi trường khác nhau (trong 
nhà và ngoài trời) trong trường hợp ở Việt Nam. 
Hình 1 trình bày diễn biến nồng độ chất ô 
nhiễm có xu xướng biến đổi theo không gian. Xu 
thế chung cho thấy nồng độ các chất ô nhiễm ở 
mức cao nhất trong tầng hầm, thấp nhất tại các 
trung tâm thương mại. Giá trị độ lệch chuẩn 
(Bảng 1) đối với các chất ô nhiễm trong môi 
trường trung tâm thương mại là nhỏ nhất khi so 
sánh với các tiểu vùng còn lại, điều đó chứng tỏ 
khả năng phân bố đều và ít biến động. Một phần 
do nguồn phát sinh không nhiều, các trung tâm 
thương mại được vệ sinh sạch sẽ, không tiếp xúc 
và trao đổi nhiều với môi trường bên ngoài [1-3, 
5]. Đối với bụi PM10, hàm lượng bụi trong tầng 
hầm cao hơn hàm lượng bụi PM10 tương ứng 
trong không khí xung quanh hoặc trong trung 
tâm thương mại. Hàm lượng bụi PM10 trong tầng 
hầm để xe KBn là lớn nhất (67,1 21,2 µg/m3). 
Tỷ lệ hàm lượng bụi PM10 trong tầng hầm so với 
xung quanh và trung tâm thương mại tại các tòa 
sự giao động, cụ thể: RBn/RAn (0,7 - 3,2); 
RBn/RCn (1,3 - 2,5); LBn/LAn (0,4 - 1,5); 
LBn/LCn (11,7 - 41,6); KBn/KAn (1,7 - 6,8); 
KBn/KCn (1,0 - 6,1). Các tỷ lệ đó cho thấy hàm 
lượng bụi PM10 trong không khí trong nhà là 
đáng quan ngại bởi hàm lượng lớn hơn trong 
không khí xung quanh, hơn nữa con người lại 
sinh sống và làm việc phần lớn (trên 80%) tổng 
thời gian trong tiểu vùng môi trường trong nhà 
[1]. Điều này dẫn đến mức độ phơi nhiễm tăng 
lên đáng kể [3, 6, 7, 13, 14]. 
Nồng độ SO2, NOx và CO tại tầng hầm đều 
cao hơn các vị trí còn lại của tòa nhà tương ứng. 
H.A. Le, L.T. Linh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
89 
Đây là những chất ô nhiễm phát thải từ các 
phương tiện cơ giới, có liên quan đến hoạt động 
giao thông vận tải [2, 15, 16]. Trong khi đó các 
tầng hầm làm nơi để xe của các tòa nhà hỗn hợp 
thường có khuôn viên đóng kín, không có hệ 
thống thông gió hoặc hệ thống đó làm việc không 
hiệu quả và là nguyên nhân tích hợp để các chất 
ô nhiễm khó khuếch tán, tạo điều kiện tích lũy 
trong môi trường. Trong phạm vi chất lượng 
không khí xung quanh, nồng độ các chất ô nhiễm 
SO2, NOx, CO có xu hướng cao nhất ở các vị trí 
KAn, tiếp đến là LAn thấp nhất tại RAn (Hình 2). 
Có thể thấy các khu vực quan trắc tại KAn và LAn 
thì hoạt động giao thông vận tải rất gần, bao 
quanh sảnh và khu vực sân. Tuy nhiên đối với 
PM10, chất ô nhiễm không khí không chỉ phát 
sinh từ giao thông mà có ảnh hưởng lớn từ các 
hoạt động khác mà ở Hà Nội thì rõ ràng nhất là 
nguồn xây dựng [15, 16]. Với các mẫu quan trắc 
tại RAn, PM10 tại đây có hàm lượng lớn nhất. Vị 
trí này nằm trên địa bàn quận Thanh Xuân, đây 
là khu vực đã và đang diễn ra nhiều hoạt động 
của các ngành công nghiệp, giao thông vận tải và 
xây dựng đô thị. Chất lượng không khí tại tầng 
hầm của các tòa nhà đều ở mức cao hơn hẳn so 
với nồng độ chất ô nhiễm tương ứng tại các tiểu 
vùng môi trường khác của khuôn viên tòa nhà. 
3.2. Đánh giá phân bố nồng độ chất ô nhiễm theo 
thời gian tuần 
Để đánh giá hoạt động sinh hoạt cộng đồng, 
làm việc, mua sắm, vui chơi giải trí đối với nồng 
độ chất ô nhiễm tại các tiểu vùng môi trường 
xung quanh, tầng hầm để xe và trung tâm thương 
mại; Hình 2 được mô tả số liệu dạng so sánh 
ngày trong tuần (n=16) và ngày cuối tuần (n= 8). 
Qua đó cho thấy nồng độ chất ô nhiễm thể hiện 
cao tại khu vực tầng hầm, nơi để xe trong khu 
vực kín gió. Nồng độ chất ô nhiễm có xu hướng 
cao ở ngày cuối tuần so với trong tuần ở khu vực 
xung quanh và tầng hầm. Tuy nhiên, tại trung 
tâm thương mại thì nồng độ chất ô nhiễm tại các 
tòa nhà đều cho thấy ngày cuối tuần thấp hơn 
ngày trong tuần. Lý do có thể do tại thời điểm đo 
đạc, thường từ 7h-9h thì ngày trong tuần đúng 
vào thời gian cao điểm của mọi hoạt động sử 
dụng phương tiện giao thông [18, 19], do đó 
nồng độ chất ô nhiễm tăng cao ở khu vực xung 
quanh và tầng hầm. Tuy nhiên hoạt động vui 
chơi, giải trí, văn phòng ở các tòa nhà hỗn hợp 
này có xu hướng giảm vào khung giờ đó (nghĩa 
là có thể diễn ra muộn hơn) vào những ngày cuối 
tuần. Đó cũng là lý do làm nồng độ chất ô nhiễm 
tại các khu vực trung tâm thương mại có phần 
giảm xuống. 
Bảng 1. Phân bố nồng độ chất ô nhiễm tại các tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội 
(đơn vị: µg/m3) 
Tòa nhà, vị trí đo đạc n PM10 SO2 NOx CO 
R
o
y
al
 C
it
y
RAn 24 32,3 13,4 132,4 33,5 113,5 35,0 986,7 291,2 
RBn 24 52,0 6,2 185,3 64,9 152,7 53,6 1.9210 6.468,4 
RCn 24 28,7 3,9 112,0 19,5 147,7 52 918,6 189,9 
L
o
tt
er
C
en
te
r LAn 24 31,6 6,4 122,3 31,1 91,6 25,4 891,6 122,4 
LBn 24 28,0 6,9 224,8 34,9 287,3 136,3 22.372,5 2.324,5 
LCn 24 1,2 0,4 42,4 9,2 131,0 110 767,1 213,6 
K
ea
n
g
n
am
L
an
d
m
ar
k
T
o
w
er
 KAn 24 20,8 4,3 224,7 51,9 442,6 231,8 805,1 2.03,4 
KBn 24 67,1 21,2 216,2 49,6 247,5 93,2 11.447,5 2.503,9 
KCn 24 26,4 16,3 206,9 49,9 435,5 163,7 4.965,1 1865,9 
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng: Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn. 
H.A. Le, L.T. Linh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
90 
Hình 1. Phân bố nồng độ chất ô nhiễm tại các vị trí quan trắc khác nhau ở các tòa nhà hỗn hợp 
được chọn lựa quan trắc trên địa bàn thành phố Hà Nội. 
Hình 2. So sánh phân bố nồng độ chất ô nhiễm theo ngày trong tuần - cuối tuần 
tại các vị trí quan trắc khác nhau ở các tòa nhà hỗn hợp trên địa bàn thành phố Hà Nội. 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
10
20
30
40
50
60
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
20
40
60
80
100
120
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
10
20
30
40
50
60
70
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
50
100
150
200
250
300
350
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
100
150
200
250
300
350
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
50
100
150
200
250
300
350
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1,000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
100
200
300
400
500
600
700
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
100
200
300
400
500
600
700
800
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
20
40
60
80
100
500
600
700
800
900
1,000
1,100
1,200
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112131415161718192021222324
0
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
8,000
9,000
10,000
H
µm
 l-
î
n
g
 P
M
10
 (

g
/m
3 )
 RAn
 LAn
 KAn
 RBn
 LBn
 KBn
 RCn
 LCn
 KCn
N
å
n
g
 ®
é
 S
O
2 
(
g
/m
3 )
 RAn
 LAn
 KAn
 RBn
 LBn
 KCn
 RCn
 LCn
 KCn
N
å
n
g
 ®
é
 N
O
x 
(
g
/m
3 )
 RAn
 LAn
 KAn
 RBn
 LBn
 KBn
 RCn
 LCn
 KCn
N
å
n
g
 ®
é
 C
O
 (

g
/m
3 )
 RAn
 LAn
 KAn
 RBn
 LBn
 KBn
 RCn
 LCn
 KCn
0
20
40
60
80
100
120
Trung t©m th- ¬ng m¹ iTÇng hÇm ®Ó xe
P
M
10
Kh«ng khÝ xung quanh
0
50
100
150
200
250
300
350
S
O
2
0
200
400
600
800
1,000
N
O
x
 RAn (wd) 
 RAn (wk) 
 LAn (wd) 
 LAn (wk) 
 KAn (wd) 
 KAn (wk) 
 RBn (wd) 
 RBn (wk) 
 LBn (wd) 
 LBn (wk) 
 KBn (wd) 
 KBn (wk) 
 RCn (wd) 
 RCn (wk) 
 LCn (wd) 
 LCn (wk) 
 KCn (wd) 
 KCn (wk) 
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
C
O
H.A. Le, L.T. Linh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
91 
Kết luận 
Kết quả nghiên cứu này đã bước đầu xác 
định được sự phân bố nồng độ các chất ô nhiễm 
(PM10, CO, SO2, NOx) trong các phạm vi tiểu 
vùng môi trường không khí xung quanh, tầng 
hầm để xe và trung tâm thương mại tại các tòa 
nhà hỗn hợp đa chức năng trên địa bàn thành phố 
Hà Nội. Nồng độ chất ô nhiễm có xu hướng tăng 
cao và tích lũy lâu dài trong các khuôn viên đóng 
kín, có chế độ thông gió kém như tại các tầng 
hầm để xe. Nồng độ chất ô nhiễm tại các khu vực 
trong nhà có xu thế cao hơn nồng độ chất ô 
nhiễm tương ứng ở khu vực ngoài trời. Xét theo 
sự phân bố chất ô nhiễm theo thời gian thì xu thế 
đặc trưng là chất ô nhiễm những ngày trong tuần 
(ngày làm việc) có mức độ cao hơn những ngày 
nghỉ cuối tuần. Đây cũng là nghiên cứu bước đầu 
cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá 
mức độ ô nhiễm không khí trong nhà và mức độ 
phơi nhiễm của những người làm việc trong các 
điều kiện tiếp xúc mức độ chất ô nhiễm khác 
nhau. Bài báo cũng là kết quả nghiên cứu bổ 
sung cho những nghiên cứu cần được mở rộng 
về vấn đề ô nhiễm không khí và sức khỏe cộng 
đồng, một vấn đề môi trường đô thị được các nhà 
khoa học trên thế giới rất quan tâm. 
Lời cảm ơn 
Kết quả được trình bày ở bài báo này là một 
phần nội dung, nhiệm vụ của dự án “Assessment 
of Indoor - Outdoor Air Pollution Relationship 
in Complex Buildings in Hanoi, Vietnam”, thuộc 
chương trình KIST School Partnership Project, 
được tài trợ kinh phí bởi Viện Khoa học và Công 
nghệ Hàn Quốc (Korea Institute of Science and 
Technology - KIST) cho Trường Đại học Khoa 
học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), do TS. 
Hoàng Anh Lê chủ trì. 
Tài liệu tham khảo 
[1] N.E. Klepeis, W.C. Nelson, W.R. Ott, J.P. 
Robinson, A.M. Tsang, S. Paul, J.V. Behar, S.C. 
Hern, W.H. Engelmann, National Human 
Activity Pattern Survey (NHAPS): a resource for 
assessing exposure to environmental pollutants, 
J. Expo. Anal. Env. Epid. 11 (2001) 231-252. 
https://doi.org/10.1038/sj.jea.7500165. 
[2] S. Lee, M. Chang, Indoor and outdoor air quality 
investigation at schools in Hong Kong, 
Chemosphere 41 (2000) 109-113. https://doi.org/ 
10.1016/S0045-6535(99)00396-3. 
[3] J.M. Samet, M.C. Marbury, J.D. Spengler, Health 
effects and sources of indoor air pollution (Part 
I), Am. Rev. Respir. Dis. 136 (1987) 1486-1508. 
https://doi.org/10.1164/ajrccm/136.6.1486. 
[4] Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật số 
09/2012/QH13: Luật phòng, chống tác hại của 
thuốc lá, 2013. 
[5] H. Richard, E. Richard, H. Tim, School indoor air 
quality best management practices manual, 
Washington State Department of Health, 
Olympia, Washington, 1995. 
[6] K.R. Smith, S. Mehta, The burden of disease 
from indoor air pollution in developing countries: 
comparison of estimates, WHO/USAID Global 
Technical Consultation. University of California 
Berkeley, CA 94720-7360 (2000). https://doi. 
org/10.1078/1438-4639-00224. 
[7] K.R. Smith, J.M. Samet, I. Romieu, N. Bruce, 
Indoor air pollution in developing countries and 
acute lower respiratory infections in children, 
Thorax 55 (2000) 518-532. https://doi.org 
/10.1136/thorax.55.6.518. 
[8] T.N. Quang, N.T. Hue, P. Thai, M. Mazaheri, L. 
Morawska, Exploratory assessment of indoor and 
outdoor particle number concentrations in Hanoi 
households, Sci. Total Environ. 599 (2017) 284-
290. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2017.04. 
154. 
[9] L.K. Tran, T.N. Quang, N.T. Hue, L. Morawska, 
M. Nieuwenhuijsen, P.K. Thai, Exploratory 
assessment of outdoor and indoor airborne black 
carbon in different locations of Hanoi, Vietnam, 
Sci. Total Environ. 642 (2018) 1233-1241. 
https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2018.06.146. 
[10] L.B. Thuy, N.T.T. Hien, N.M. Thang, M. Matsu, 
L.T.P. Trang, N.T. Dung, Levels of selected 
indoor air pollutants in three Hanoi offices, 
Vietnam Journal of Science and Technology 56 
(2018) 148-156. 
[11] S. Saksena, T.N. Quang, T. Nguyen, P.N. Dang, 
P. Flachsbart, Commuters’ exposure to 
particulate matter and carbon monoxide in Hanoi, 
Vietnam, Transport. Res. D: Tr. E. 13 (2008) 206-
211. https://doi.org/10.1016/j.trd.2008.02.001. 
H.A. Le, L.T. Linh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 85-92 
92 
[12] T.T.N. Lan, N.Q. Liem, N.T.T. Binh, Personal 
exposure to benzene of selected population 
groups and impact of commuting modes in Ho 
Chi Minh, Vietnam, Environ. Pollut. 175 (2013) 
56-63. https://doi.org/10.1016/j.envpol.2012.12. 
017. 
[13] US EPA, An introduction to indoor air quality, 
United States Environmental Protection Agency 
(US EPA) (2014) United States. 
[14] WHO, Burden of disease from household air 
pollution for 2012, Switzerland, 2014. 
[15] MONRE, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 
giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Tài nguyên và Môi 
trường, Hà Nội, 2015. 
[16] MONRE, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 
năm 2013: Môi trường Không khí, Bộ Tài nguyên 
và Môi trường, Hà Nội, 2013. 
[17] MONRE, QCVN 05: 2013/BTNMT: Quy chuẩn 
kỹ thuật Quốc gia về chất lượng không khí xung 
quanh, 2013. 
[18] H.A. Le, D.T. Xuan, Study on Personal Exposure 
to Black Carbon While using Different Modes of 
Transport in Truong Chinh Street, Hanoi, VNU 
Journal of Science: Natural Sciences and 
Techology 31 (2015) 179-185. 
[19] N.H. Phuc, N.T.K. Oanh, Determining factors for 
levels of volatile organic compounds measured in 
different microenvironments of a heavy traffic 
urban area, Sci. Total Environ. 627 (2018) 290-
303. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2018.01. 
216. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_muc_do_o_nhiem_khong_khi_trong_nha_va_ngoai_troi_ta.pdf