Đánh giá kết quả điều trị khối u di căn não kích thước lớn bằng phương pháp xạ phẫu phân liều
Mục tiêu: Di căn não là khối u ác tính hay gặp nhất của não, gấp hơn 10 lần ung thư nguyên phát tại
não. Đối với khối di căn não lớn hiện nay chưa có phương pháp điều trị tối ưu nào. Nghiên cứu này nhằm
đánh giá kết quả bước đầu điều trị khối u não di căn kích thước lớn bằng phương pháp xạ phẫu phân liều tại bệnh viện K.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 36 bệnh nhân di căn
não kích thước lớn (≥10cm³) từ tháng 7/2019 đến 6/2020. Bệnh nhân được lựa chọn di căn não từ 1 - 5 ổ,
trong đó có ít nhất 1 khối đường kính lớn nhất ≥3cm (hoặc thể tích ≥10cm3), chỉ số toàn trạng Karnofsky
≥60. Bệnh nhân được điều trị 9Gy x 3 phân liều bằng xạ phẫu Gamma Knife thế hệ ICON. Khoảng cách
giữa các phân liều 2 tuần. Chúng tôi đánh giá đáp ứng lâm sàng và kiểm soát tại não tại thời điểm 3 tháng.
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi, thể tích u tại phân liều 1 là 32,68 ± 20,34cm3, thể tích u tại
phân liều 2 là 28,42 ± 20,72cm3 (giảm 4,26cm3 (14%), p = 0,003), thể tích u tại phân liều 3 là
22,09 ± 19,4cm3 (giảm 10,59cm3 (32,4%), p < 0,0001). Tỷ lệ đáp ứng triệu chứng lâm sàng là 89,9%. Tỷ lệ
kiểm soát tại u tại thời điểm 3 tháng là 93,8% (12,5% đáp ứng hoàn toàn, 68,8% đáp ứng một phần),
12,5% u giữ nguyên. Không có bệnh nhân nào xuất hiện nốt tổn thương mới tại thời điểm 3 tháng.
Kết luận: Xạ phẫu phân liều giường như là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với di căn não kích
thước lớn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị khối u di căn não kích thước lớn bằng phương pháp xạ phẫu phân liều
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 309 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ KHỐI U DI CĂN NÃO KÍCH THƯỚC LỚN BẰNG PHƯƠNG PHÁP XẠ PHẪU PHÂN LIỀU NGUYỄN ĐỨC LIÊN1, PHAN THANH DƯƠNG2, NGUYỄN MINH THUẬN2 PHẠM HỒNG PHÚC2, TRẦN TRUNG BÁCH2 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Minh Thuận Email: minhthuan@gmail.com Ngày nhận bài: 02/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 TS. Khoa Ngoại Thần kinh - Bệnh viện K 2 ThS. Bệnh viện K ĐẶT VẤN ĐỀ Di căn não là khối u ác tính hay gặp nhất của não, gấp hơn 10 lần ung thư nguyên phát tại não. Dựa theo đường kính hoặc thể tích, khối di căn não lớn được định nghĩa là khối u có đường kính ≥3cm hoặc thể tích ≥10cm3. Đối với khối di căn não lớn hiện nay chưa có phương pháp điều trị tối ưu nào. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm kết hợp phẫu thuật và xạ trị bổ trợ vào giường u hoặc xạ toàn não, hoặc xạ phẫu, hoặc xạ trị giảm phân liều. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ kiểm soát tại chỗ đối với khối u não lớn thấp hơn đáng kể so với khối u kích thước nhỏ hơn. Trước đây, với tổn thương di căn lớn, nếu đủ khả năng phẫu thuật, phẫu thuật kết hợp với xạ trị bổ trợ sẽ giúp giảm hội ứng khối, cải thiện triệu chứng thần kinh. Trong trường hợp không thể phẫu thuật, xạ toàn não được chỉ định nhằm điều trị triệu chứng. Tuy nhiên, xạ toàn não thường kém hiệu quả trong kiểm soát tại chỗ với khối di căn não lớn[1]. Xạ phẫu đang ngày càng trở thành một phương pháp điều trị ưa thích đối với tổn thương di căn não, nhưng với khối u lớn, hiệu quả kiểm soát của xạ phẫu một phân liều giảm đáng kể. Do đó, chiến lược xạ phẫu phân liều đang được các tác giả trên thế giới đưa ra như một giải pháp hiệu quả[2],[3]. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu đánh giá kết quả bước đầu điều trị khối u di căn não kích thước lớn bằng phương pháp xạ phẫu phân liều tại Bệnh viện K. TÓM TẮT Mục tiêu: Di căn não là khối u ác tính hay gặp nhất của não, gấp hơn 10 lần ung thư nguyên phát tại não. Đối với khối di căn não lớn hiện nay chưa có phương pháp điều trị tối ưu nào. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu điều trị khối u não di căn kích thước lớn bằng phương pháp xạ phẫu phân liều tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 36 bệnh nhân di căn não kích thước lớn (≥10cm³) từ tháng 7/2019 đến 6/2020. Bệnh nhân được lựa chọn di căn não từ 1 - 5 ổ, trong đó có ít nhất 1 khối đường kính lớn nhất ≥3cm (hoặc thể tích ≥10cm3), chỉ số toàn trạng Karnofsky ≥60. Bệnh nhân được điều trị 9Gy x 3 phân liều bằng xạ phẫu Gamma Knife thế hệ ICON. Khoảng cách giữa các phân liều 2 tuần. Chúng tôi đánh giá đáp ứng lâm sàng và kiểm soát tại não tại thời điểm 3 tháng. Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi, thể tích u tại phân liều 1 là 32,68 ± 20,34cm3, thể tích u tại phân liều 2 là 28,42 ± 20,72cm3 (giảm 4,26cm3 (14%), p = 0,003), thể tích u tại phân liều 3 là 22,09 ± 19,4cm3 (giảm 10,59cm3 (32,4%), p < 0,0001). Tỷ lệ đáp ứng triệu chứng lâm sàng là 89,9%. Tỷ lệ kiểm soát tại u tại thời điểm 3 tháng là 93,8% (12,5% đáp ứng hoàn toàn, 68,8% đáp ứng một phần), 12,5% u giữ nguyên. Không có bệnh nhân nào xuất hiện nốt tổn thương mới tại thời điểm 3 tháng. Kết luận: Xạ phẫu phân liều giường như là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với di căn não kích thước lớn. Từ khóa: Xạ phẫu phân liều, di căn não lớn. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 310 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn Chẩn đoán ung thư di căn não. Số ổ di căn não 1 - 5 ổ, trong đó có tổn thương đường kính lớn nhất ≥3cm (hoặc thể tích ≥10cc). Chỉ số toàn trạng Karnofsky ≥60. Phân loại RPA 1 - 2. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đã được xạ toàn não trước đó. Bệnh nhân đã được phẫu thuật lấy khối u não di căn. Bệnh nhân có các bệnh ung thư nguyên phát thứ hai. Bệnh nhân bệnh nội khoa cấp và mãn tính trầm trọng. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020. Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. Cỡ mẫu Cỡ mẫu: Thuận tiện. Trong nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập được 36 bệnh nhân. Các bước tiến hành Bệnh nhân được khám lâm sàng, cận lâm sàng trước điều trị. Bệnh nhân được điều trị xạ phẫu bằng hệ thống máy xạ phẫu Leksell Gamma Knife ICON (Elekta AB, Thụy Điển. Liều điều trị 9Gy x 3 phân liều. Khoảng cách giữa 2 phân liều là 2 tuần. Bệnh nhân được đánh giá định kỳ mỗi 3 tháng sau khi kết thúc điều trị xạ phẫu: Chỉ số Karnofsky, đánh giá triệu chứng thần kinh, chụp phim cộng hưởng từ sọ não. Trong nghiên cứu, có 31 bệnh nhân đã được chụp cộng hưởng từ tại thời điểm 3 tháng, 5 bệnh nhân chưa đủ thời gian 3 tháng. Các chỉ số đánh giá Thay đổi thể tích giữa các phân liều. Đáp ứng triệu chứng thần kinh: đau đầu, liệt, rối loạn cảm giác, hội chứng tiểu não dựa theo thang điểm chất lượng cuộc sống EORTC - BN20. Đáp ứng tại u: bằng hình ảnh cộng hưởng từ sọ não dựa theo tiêu chuẩn RECIST. Xử lý số liệu Các thông tin được mã hóa và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Mô tả: Trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị min, max. So sánh các tỷ lệ: Sử dụng test 2. Các so sánh có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm bệnh nhân Bệnh nhân Số lượng Tỷ lệ (%) Tuổi < 65 32 88,9 ≥ 65 4 11,1 KPS ≥ 70 24 66,7 < 70 12 33,3 Triệu chứng thần kinh Có 35 97,2 Không 1 2,8 U nguyên phát Phổi 26 72,2 Vú 3 8,3 Khác 7 19,5 Số lượng khối u 1 10 46.5 2 - 5 26 32.6 Kiểm soát u nguyên phát Có 19 52,8 Không 17 47,2 Di căn ngoài não Có 8 22,2 Không 28 77,8 Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân (n = 36) Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 311 Chú thích: KPS = Karnofsky Performance Status. Nhận xét: Tỷ lệ nam/nữ là 2,3/1. Tuổi của bệnh nhân dao động từ 36 đến 76 tuổi, trung bình là 57 tuổi. Các bệnh ung thư nguyên phát chính là phổi và vú chiếm 80,5%. Triệu chứng thần kinh gặp trên 35 trường hợp (97,2%). Số khối u từ 1-5 khối, trung bình là 2,3 khối. Ung thư nguyên phát và di căn não được chẩn đoán đồng thời ở 19 bệnh nhân (52,8%). Bảng 2. Đặc điểm khối u (n = 39) Khối u Thể tích khối u (cm3) Số lượng Tỷ lệ (%) 10 ≤ V < 15 2 5,1 15 ≤ V < 20 9 23,1 20 ≤ V < 25 6 15,4 25 ≤ V 22 56,4 Nhận xét: Có tổng 39 khối u có thể tích từ 10cm3 trở lên. Thể tích khối u trung bình là 32,68 ± 20,34cm3, trong đó khối u có kích thước lớn trên 25cm3 chiếm tỷ lệ nhiều nhất (56,4%). Kết quả điều trị Thay đổi thể tích trong quá trình điều trị Thể tích u tại phân liều 1 là 32,68 ± 20,34cm3, thể tích u tại phân liều 2 là 28,42 ± 20,72cm3 (giảm 4,26cm3, p = 0,003), thể tích u tại phân liều 3 là 22,09 ± 19,4cm3 (giảm 10,59cm3 (p <0,0001). Thể tích khối u tại thời điểm phân liều 2 và phân liều 3 so với phần liều 1 giảm 14,03% và 32,41% với lần lượt p = 0,002 và p < 0,0001 rất có ý nghĩa thống kê. Biểu đồ 1. Sự thay đổi thể tích u tại thời điểm phân liều 2 và phân liều 3 Kết quả đáp ứng Bảng 3. Lâm sàng và kết quả chụp cộng hưởng từ tại thời điểm 3 tháng sau điều trị Số lượng Tỷ lệ (%) Đáp ứng tại u Hoàn toàn 4 12,5 Một phần 22 68,8 Ổn định 4 12,5 Tiến triển 2 6,2 Tổng số u 32 100 Xuất hiện tổn thương mới Có 0 0 Không 31 100 Tổng 31 100 Cải thiện lâm sàng Có 32 88,9 Không 4 11,1 Tổng 36 100 Nhận xét: Kiểm soát tại chỗ khối u Có 31 bệnh nhân được chụp lại phim cộng hưởng từ tại thời điểm 3 tháng, tỷ lệ kiểm soát khối u là 93,8% (12,5% đáp ứng hoàn toàn, 68,8% đáp ứng một phần, 12,5% u giữ nguyên). Không có trường hợp nào xuất hiện nốt mới tại thời điểm 3 tháng. Cải thiện triệu chứng lâm sàng Tỷ lệ trường hợp cải thiện triệu chứng thần kinh tại thời điểm 3 tháng là 89,9%. BÀN LUẬN Hiện nay, xạ phẫu đang ngày càng trở thành một phương pháp điều trị ưa thích đối với tổn thương di căn não, không chỉ vì khả năng kiểm soát tại chỗ cao, cải thiện thời gian sống thêm mà vì giảm độc tính trên các tế bào não lành đặc biệt là chức năng nhận thức thần kinh so với xạ toàn não. Tuy nhiên, khi kích thước khối u tăng, liều xạ phải giảm để đảm bảo liều xạ an toàn và không gây ra độc tính thì hiệu quả kiểm soát lại giảm. Trong nghiên cứu của Vogebaum và cộng sự, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ với khối u 2,1 - 3cm và 3,1 - 4cm chỉ là 49% và 45%, trong khi với khối u ≤2cm, tỷ lệ đó là hơn 85% với liều xạ phẫu 24Gy[4]. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự[5]. Petrovich và cộng sự nhận thấy tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại thời điểm 1 năm với tổn thương <3cm3 là cao hơn tổn thương Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 312 >3cm3 (90% so với 78%)[6]. Do đó, các tác giả nhận thấy rằng để kiểm soát tại chỗ tốt hơn thì cần phải tăng liều cao hơn, tuy nhiên nếu điều trị liều cao trong một phân liều trên một thể tích lớn sẽ dẫn đến nguy cơ tăng độc tính, vì vậy chiến lược xạ phẫu phân liều được đưa ra như một giải pháp hiệu quả[4],[7]. Nghiên cứu của Higuchi và cộng sự trên 43 bệnh nhân di căn não lớn (>10cm3)[2]. Liều xạ phẫu là 30Gy trong 3 phân liều cách nhau mỗi 2 tuần. Tác giả nhận thấy khoảng cách 2 tuần giúp giảm đáng kể thể tích khối u. Tại thời điểm phân liều 2 và 3, thể tích khối u giảm tương ứng 18,8% và 39,8%. Yamamoto và cộng sự nghiên cứu trên 78 bệnh nhân đã báo cáo, thể tích u tại phân liều 1 là 23,74 ± 10,94cm3, thể tích u tại phân liều 2 là 19,51 ± 12,55cm3 (giảm 4,23cm3 (20%), p <0,001), thể tích u tại phân liều 3 là 22,09 ± 19,4cm3 (giảm 9,68cm3 (42%), p < 0,0001). Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy kết quả tương tự. Trong nghiên cứu, thể tích u tại phân liều 1 là 32,68 ± 20,34cm3, thể tích u tại phân liều 2 là 28,42 ± 20,72cm3 (giảm 4,26cm3, p = 0,003), thể tích u tại phân liều 3 là 22,09 ± 19,4 cm3 (giảm 10,59cm3 (p <0,0001). Thể tích khối u tại thời điểm phân liều 2 và phân liều 3 so với phân liều 1 giảm 14,03% và 32,41% với lần lượt p = 0,002 và p < 0,0001 có ý nghĩa thống kê. Về kết quả kiểm soát khối u, trong nghiên cứu của chúng tôi, tại thời điểm 3 tháng, tỷ lệ kiểm soát khối u là 93,8% (12,5% đáp ứng hoàn toàn, 68,8% đáp ứng một phần), 12,5% u giữ nguyên, không có trường hợp nào xuất hiện nốt mới, tỷ lệ cải thiện triệu chứng lâm sàng là 88,9%. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới. Nghiên cứu của Higuchi, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng là 89,8% và 75,9%. Nghiên cứu của Yamamoto cũng cho kết quả tương tự[3]. Yomo và Hayashi nghiên cứu trên 58 bệnh nhân di căn não lớn (≥10cm3) xạ phẫu 2 phân liều[8]. Liều xạ 20 - 30Gy trong 2 phân liều, cách nhau 3 - 4 tuần. Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại 6 tháng và 1 năm là 85% và 64%. Angelov và cộng sự nghiên cứu trên 54 bệnh nhân với 63 khối di căn não ≥2cm với liều xạ 24 - 33Gy (trung vị 30Gy) trong 2 - 3 phân liều, khoảng cách 1 tháng[9]. Thể tích khối u sau phân liều 1 giảm 17%, 90% tổn thương không tiến triển, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại 6 tháng là 88%. Dohm và cộng sự nghiên cứu trên 33 bệnh nhân với 39 tổn thương điều trị 2 phân liều cách nhau 4 tuần[10]. Liều phân liều 1 trung vị 15Gy (10 - 21Gy), phân liều 2 là 14Gy (10 - 18Gy). Thể tích khối u giảm sau phân liều đầu là 32,6%. Tỷ lệ thất bại tại chỗ tại 1 năm là 13%. KẾT LUẬN Xạ phẫu phân liều dường như là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với di căn não kích thước lớn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nieder C, Berberich W, Schnabel K. Tumor- related prognostic factors for remission of brain metastases after radiotherapy. Int J Radiat Oncol Biol Phys. Aug 1 1997;39(1):25-30. doi:10.1016/s0360-3016(97)00154-5 2. Higuchi Y, Serizawa T, Nagano O, et al. Three- staged stereotactic radiotherapy without whole brain irradiation for large metastatic brain tumors. International journal of radiation oncology, biology, physics. Aug 1 2009;74(5):1543-8. doi:10.1016/j.ijrobp.2008.10.035 3. Yamamoto M, Higuchi Y, Serizawa T, et al. Three-stage Gamma Knife treatment for metastatic brain tumors larger than 10 cm3: a 2- institute study including re-analyses of earlier results using competing risk analysis. Journal of neurosurgery. Dec 1 2018;129(Suppl1):77-85. doi:10.3171/2018.7.GKS181392 4. Vogelbaum MA, Angelov L, Lee SY, Li L, Barnett GH, Suh JH. Local control of brain metastases by stereotactic radiosurgery in relation to dose to the tumor margin. Journal of neurosurgery. Jun 2006;104(6):907-12. doi:10.3171/jns.2006.104.6.907 5. Elliott RE, Rush SC, Morsi A, et al. Local control of newly diagnosed and distally recurrent, low- volume brain metastases with fixed-dose (20 gy) gamma knife radiosurgery. Neurosurgery. Apr 2011;68(4):921-31; discussion 931. doi:10.1227/NEU.0b013e318208f58e 6. Petrovich Z, Yu C, Giannotta SL, O'Day S, Apuzzo ML. Survival and pattern of failure in brain metastasis treated with stereotactic gamma knife radiosurgery. Journal of neurosurgery. Dec 2002;97(5 Suppl):499-506. doi:10.3171/jns.2002.97.supplement 7. Mayo C, Martel MK, Marks LB, Flickinger J, Nam J, Kirkpatrick J. Radiation dose-volume effects of optic nerves and chiasm. International journal of radiation oncology, biology, physics. Mar 1 2010;76(3 Suppl):S28-35. doi:10.1016/j.ijrobp.2009.07.1753 8. Yomo S, Hayashi M. A minimally invasive treatment option for large metastatic brain Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 313 tumors: long-term results of two-session Gamma Knife stereotactic radiosurgery. Radiation oncology. Jun 10 2014; 9:132. doi:10.1186/1748 - 717X-9-132 9. Angelov L, Mohammadi AM, Bennett EE, et al. Impact of 2-staged stereotactic radiosurgery for treatment of brain metastases 2cm. Journal of neurosurgery. Aug 2018;129(2):366-382. doi:10.3171/2017.3.JNS162532 10. Dohm A, McTyre ER, Okoukoni C, et al. Staged Stereotactic Radiosurgery for Large Brain Metastases: Local Control and Clinical Outcomes of a One-Two Punch Technique. Neurosurgery. Jul 1 2018; 83(1):114-121. doi:10.1093/neuros/nyx355 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 314 ABSTRACT Results of staged radiosurgery for large brain metastasis Purpose: Brain metastasis is the most common malignant tumor of the brain, 10 times more than primary cancer in the brain. For large brain metastases, there is currently no optimal treatment. Our study aimed to evaluate the preliminary outcome of staged stereotactic radiosurgery by Gamma Knife for large brain metastases. Methods: We analyzed 36 patients with large brain metastatic from July 2019 to June 2020. Selected patients have brain metastases from 1 to 5 tumors, including at least 1 tumor with the largest diameter ≥3cm (≥10cc), KPS score ≥60. Patients were treated with three fractions at a peripheral dose of 9Gy using Leksell Gamma Knife ICON unit (Elekta AB). The interval between fractions was two weeks. Patients were assessed for clinical response and local control at 3 months. Results: In our study, tumor volume at first fraction was 32,68 ± 20,34cm3, tumor volume at second fraction was 28,42 ± 20,72cm3 (decreased 4,26cm3 (14%), p = 0,003), tumor volume at third fraction was 22,09 ± 19,4cm3 (decreased 10,59cm3 (32,4%), p < 0,0001). The rate of clinal response was 89,9%. The local tumor control rate at 3 months was 93,8% (12,5% complete response, 68,8% partial response), 12,5% stable disease. No patient developed new lesions at 3 months. Conclusion: Staged Gamma Knife radiosurgery seem to an effective treatment for large brain metastases. Key words: Staged radiosurgery, large brain metastases.
File đính kèm:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_khoi_u_di_can_nao_kich_thuoc_lon_b.pdf