Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới

Độ nguy hiểm động đất khu vực Hà Nội và lân

cận đã được các nhà địa chấn Việt Nam như:

Lê Tử Sơn [11, 12]; đề tài độc lập cấp Nhà nước

của Nguyễn Đình Xuyên [14], Nguyễn Hồng

Phương [3, 4] nghiên cứu khá nhiều, song chủ

yếu dựa trên cở sở bài toán thống kê động đất.

Phương pháp này được ứng dụng khá rộng rãi khi

mà mạng lưới các đài trạm quan sát động đất phát

triển mạnh mẽ. Nhưng hạn chế của phương pháp

này là khoảng thời gian chuỗi số liệu không đầy

đủ, nếu những vùng có ít số liệu về động đất thì rất

khó để đưa ra những kết quả đáng tin cậy

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 1

Trang 1

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 2

Trang 2

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 3

Trang 3

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 4

Trang 4

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 5

Trang 5

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 6

Trang 6

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 7

Trang 7

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 8

Trang 8

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 4740
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới

Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội và lân cận trên cơ sở thuật toán tất định mới
 200
33(2)[CĐ], 200-208 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2011 
ĐÁNH GIÁ ĐỘ NGUY HIỂM ĐỘNG ĐẤT KHU VỰC 
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ LÂN CẬN TRÊN CƠ SỞ 
THUẬT TOÁN TẤT ĐỊNH MỚI 
THÁI ANH TUẤN, LÊ VĂN DŨNG, MAI XUÂN BÁCH 
Email: tuan160680@yahoo.com 
Viện Vật lý Địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Ngày nhận bài: 31-3-2011 
1. Mở đầu 
Độ nguy hiểm động đất khu vực Hà Nội và lân 
cận đã được các nhà địa chấn Việt Nam như: 
Lê Tử Sơn [11, 12]; đề tài độc lập cấp Nhà nước 
của Nguyễn Đình Xuyên [14], Nguyễn Hồng 
Phương [3, 4] nghiên cứu khá nhiều, song chủ 
yếu dựa trên cở sở bài toán thống kê động đất. 
Phương pháp này được ứng dụng khá rộng rãi khi 
mà mạng lưới các đài trạm quan sát động đất phát 
triển mạnh mẽ. Nhưng hạn chế của phương pháp 
này là khoảng thời gian chuỗi số liệu không đầy 
đủ, nếu những vùng có ít số liệu về động đất thì rất 
khó để đưa ra những kết quả đáng tin cậy. 
Để khắc phục những hạn chế về hiệu quả của 
bài toán thống kê, chúng tôi đã thử nghiệm áp dụng 
phương pháp tất định mới nhằm đánh giá nguy 
hiểm động đất ở khu vực Hà Nội và lân cận (hình 
1). Phương pháp này chú tâm đến một số vấn đề 
chủ yếu đã bị bỏ qua trong phân tích độ nguy hiểm 
động đất theo phương pháp xác suất, cụ thể là tính 
chất của lớp vỏ Trái Đất ảnh hưởng đến sự tắt dần 
như thế nào. Bắt đầu từ những thông tin có sẵn về 
cấu trúc vỏ Trái Đất, vùng nguồn và mức độ sinh 
chấn của khu vực điều tra, có thể ước tính gia tốc 
nền cực đại (Amax), vận tốc nền cực đại (Vmax), 
và dịch chuyển nền cực đại (Dmax). Ưu điểm của 
phương pháp tất định mới là có thể tính toán độ 
nguy hiểm động đất ở những vùng thiếu thông tin 
về động đất. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy 
bài toán tất định mới phần nào đã khắc phục được 
sự thiếu hụt và đặc điểm không liên tục của số liệu 
động đất ở nước ta. Đây là một phần kết quả của 
nhiệm vụ hợp tác Khoa học và Công nghệ giữa 
Việt Nam và Italia. Tài liệu động đất sử dụng là: 
danh mục động đất của Viện Vật lý Địa cầu, kết hợp 
danh mục động đất phụ trội của ISC+NOAA+NEIC 
đến hết năm 2009 và số liệu động đất lịch sử [5]. 
Hình 1. Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu 
2. Phương pháp tất định mới trong đánh giá độ 
nguy hiểm động đất 
Phương pháp tất định bắt đầu được áp dụng 
trên thế giới từ đầu thế kỷ XX. Những nghiên cứu 
đầu tiên theo cách tiếp cận này thường dựa trên 
việc đối sánh các số liệu quan sát thực tế về những 
thiệt hại do động đất gây ra với phân bố không gian 
và các đặc trưng địa vật lý của các cấu trúc địa chất 
nằm bên dưới khu vực bị thiệt hại. Trong phương 
 201
pháp này, các thông số rung động nền được xác 
định chủ yếu bằng các công thức thực nghiệm. 
Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX nhiều 
nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp xác 
suất trong nghiên cứu độ nguy hiểm động đất. Do 
tính mềm dẻo của phương pháp xác suất nên vào 
thời điểm này, phương pháp này đã chiếm ưu thế 
trước phương pháp tất định trên phạm vi toàn cầu. 
Vào những năm 90 của thế kỷ XX và những 
năm đầu thế kỷ XXI với những tiến bộ về khoa học 
và công nghệ, phương pháp tất định được cập nhật 
và nâng cấp với sự hỗ trợ của các công cụ tính toán 
và hiển thị tiên tiến đã trở nên khác hẳn so với 
phương pháp tất định áp dụng nửa đầu thế kỷ XX và 
vì thế được gọi là phương pháp tất định mới (neo-
deterministic method). Phương pháp tất định mới 
đuợc phát triển bởi Costa (1992, 1993) và sau đó 
được áp dụng rộng rãi bởi Orozova-Stanishkova 
(1996), Alvarez (1999), Aoudia (2000), Bus (2000), 
Markusic (2000), Radulian và nnk (2000); Zivcic và 
nnk (2000) đại diện cho một trong những cách tiếp 
cận mới và tiên tiến nhất. 
Quy trình đánh giá độ nguy hiểm động đất của 
phương pháp tất định mới bao gồm những bước 
thực hiện cơ bản sau: 
Bước 1: Xác định vùng nguồn phát sinh động 
đất và giá trị cực đại động đất xảy ra tại mỗi vùng 
nguồn; 
Bước 2: Xác định các đới cấu trúc và các thông 
số về mật độ cũng như vận tốc sóng địa chấn tại 
các lớp của mỗi vùng; 
Bước 3: Xác định quy luật tắt dần chấn động; 
Bước 4: Tính toán độ nguy hiểm động đất. 
Sơ đồ của phương pháp tất định mới được thể 
hiện trên hình 2. 
2.1. Phương pháp tất định trong phân chia vùng 
nguồn 
Bắt đầu từ những thông tin có sẵn về địa chấn 
kiến tạo, địa động lực (các đứt gãy hoạt động hay 
các vùng có độ hoạt động động đất tích cực), vùng 
nguồn được xác định như sau: 
- Xác lập các hệ thống đứt gãy khu vực nghiên 
cứu trên cơ sở tổ hợp tài liệu địa chất, địa vật lý và 
các kết quả nghiên cứu về đặc trưng cấu trúc vỏ 
Trái Đất. 
- Xác lập các đứt gãy hoạt động trên cơ sở biểu 
hiện hoạt động theo tài liệu địa chất, địa vật lý. 
- Xác định nguồn phát sinh động đất trên cơ sở 
biểu hiện hoạt động động đất gắn liền với các đứt 
gãy hoạt động. 
Hình 2. Sơ đồ của phương pháp tất định để đánh giá 
nguy hiểm động đất 
- Các nguồn phát sinh động đất có đặc trưng 
chung nhất về cơ cấu chấn tiêu, đặc điểm cấu trúc, 
kiến trúc địa động lực, đặc điểm biến dạng được 
gộp lại thành một vùng nguồn. Ranh giới của vùng 
nguồn là đường biên trùng với giải có độ hoạt động 
địa chấn thấp nhất. Các vùng nguồn phải phủ kín 
khu vực nghiên cứu và các ranh giới của các vùng 
nguồn không được chồng lên nhau. 
- Mỗi vùng nguồn được gán cho một trận động 
đất có độ lớn M xác định. Các trận động đất này 
thường được chọn là các trận động đất có độ tin 
cậy lớn nhất hay còn gọi là động đất đặc trưng. 
2.2. Xác định các đới cấu trúc chính trong khu 
vực nghiên cứu 
Từ những thông tin về cấu trúc vỏ Trái Đất, bản 
đồ địa chất cũng như bản đồ ranh giới các mặt cơ 
bản cho phép chúng ta xác định được các đới cấu 
trúc với các thông số về mật độ cũng như vận tốc 
truyền sóng tại các lớp của mỗi đới cấu trúc. Các đới 
cấu trúc cũng phải phủ kín khu vực nghiên cứu và 
ranh giới của các đới không được chồng lên nhau. 
2.3. Xác định quy luật tắt dần chấn động 
Quá trình này được thực hiện nhờ áp dụng các 
quy luật  ... g khoảng 5-5,6 độ 
Richter. 
3.2. Đứt gãy hoạt động khu vực Hà Nội và lân cận 
Quá trình phân tích đứt gãy hoạt động được 
tiến hành theo hai bước: 
Trước hết chúng ta xác lập đới đứt gãy khu vực 
nghiên cứu trên cơ sở kết quả phân tích tài liệu địa 
chất, địa vật lý và ảnh vệ tinh. Việc phân loại đứt 
gãy là dựa trên cơ sở luận thuyết kiến tạo mảng 
cũng như tính chất, vai trò của chúng trong quá 
trình tách giãn, hút chìm, va mảng và chuyển dạng 
tương đối của các mảng, sự phân cắt, dịch chuyển 
các khối kiến tạo trong nội mảng thạch quyển. 
Nguyên tắc phân loại đứt gãy hoạt động đã được 
trình bày trong [6]. 
Kết quả phân tích được trình bày trong bảng 1. 
Bước đầu đánh giá đặc trưng hoạt động của đứt 
gãy khu vực nghiên cứu cho phép rút ra một số 
nhận định sau: 
Bảng 1. Biểu hiện hoạt động của các đới đứt gãy khu vực Hà Nội và lân cận theo Cao Đình Triều (2003) 
 Biểu hiện hoạt động 
STT 
Tên đới 
đứt gãy 
Địa 
hình 
DH1 
Ảnh vệ 
tinh 
DH2 
Địa mạo
DH3 
Động 
đất (Ms)
KS 
thung 
lũng 
DH5 
Núi lửa 
DH6 
Nước 
nóng 
DH7 
Sạt lở 
DH8 
CĐ hiện 
đại DH9 
Mức độ hoạt động 
Rất rõ: +++ 
Rõ: ++ 
Có BH: + 
Không BH: - 
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) 
1 Sông Lô + + + + + + 5,9 + + - + + + ++ 
2 Vĩnh Ninh + + + 5,.2 + + - - + ++ 
3 Sông Chảy + + + + + + 5,3 + + - + + + ++ 
4 Sông Hồng + + + + + + 5,0 + + - + + + + + + + 
5 
Lào Cai - 
Ninh Bình 
+ + 
+ + 
+ + 
4,8 
+ 
- 
+ 
+ + 
Chú thích: Cột 1: Số thứ tự của đứt gãy theo thống kê của bảng; Cột 2: Tên đứt gãy; 
Từ cột 3 đến cột 12 là các tiêu chí nhận dạng đứt gãy hoạt động. 
 203
(i) Các đới đứt gãy được thống kê trong bảng 1 
là những đứt gãy có biểu hiện hoạt động trong 
Kainozoi muộn. Các đứt gãy trong khu vực nghiên 
cứu có dấu hiệu hoạt động tích cực, có phương tây 
bắc - đông nam và chủ yếu có tính chất trượt 
bằng phải; 
(ii) Đới đứt gãy biểu hiện hoạt động rõ nét trên
khu vực nghiên cứu bao gồm: Sông Lô, Vĩnh Ninh, 
Sông Chảy, Sông Hồng, Lào Cai - Ninh Bình, 
chúng đồng thời là các đới đứt gãy phát sinh động 
đất chính của khu vực nghiên cứu. 
Trên cơ sở danh mục động đất và biểu hiện đứt 
gãy, cho phép chúng tôi thành lập bản đồ địa chấn 
kiến tạo khu vực Hà Nội và lân cận (hình 3). 
3.3. Xác định vùng nguồn phát sinh động đất 
Dựa vào bản đồ địa chấn kiến tạo cũng như 
nguyên tắc phân chia vùng nguồn trong thuật toán 
tất định mới đã nêu ở trên [6-8], chúng tôi phân 
chia khu vực Hà Nội và lân cận thành 5 vùng 
nguồn phát sinh động đất (hình 4) với các thông số 
như trên bảng 2. Vùng nguồn I chúng tôi gán giá 
trị động đất M = 5 xảy ra năm 1934 tại Hoà Bình; 
vùng nguồn II lấy trận động đất M = 5 xảy ra năm 
1975 tại Yên Lập; vùng nguồn III lấy trận động đất 
M = 5,3 xảy ra ở Vĩnh Phúc năm 1958; vùng 
nguồn IV lấy trận động đất M = 5 xảy ra ở Đại Từ, 
Thái Nguyên năm 1967; vùng nguồn V lấy trận 
động đất M = 5,6 xảy ra ở Tân Yên, Bắc Giang 
năm 1961. 
Bảng 2. Các vùng nguồn phát sinh động đất khu vực 
Hà Nội và lân cận 
STT Ký kiệu Mmax 
1 I 5 
2 II 5 
3 III 5,3 
4 IV 5 
5 V 5,6 
← Hình 3. Bản đồ địa chấn 
kiến tạo khu vực Hà Nội và 
lân cận tỷ lệ 1: 250.000 
 204
Hình 4. Sơ đồ phân bố các vùng nguồn phát sinh động đất khu vực nghiên cứu 
3.4. Các đới cấu trúc chính khu vực Hà Nội và 
lân cận 
Thông qua đặc điểm về cường độ, cấu trúc 
trường trọng lực và từ hàng không cũng như tài 
liệu địa chất, chúng tôi đã phân chia khu vực Hà 
Nội và lân cận thành ba đới cấu trúc chính được 
phân cách bởi đứt gãy Sông Hồng và đứt gãy Sông 
Lô (hình 5) [5]: 
- Đới nâng tương đối Đông Bắc: độ sâu mặt 
Moho thay đổi từ 24km ở phía tây nam tới 28km ở 
phía đông bắc và phía tây bắc chìm xuống tới độ sâu 
30-32km. Độ sâu mặt móng kết tinh ở đây dao động 
từ 3km ở phía đông bắc tới 5,5km ở phía tây nam. 
- Đới sụt lún Trung Tâm: độ sâu bề mặt Moho 
thay đổi từ <20km ở phần trung tâm và sâu dần ở 
hai rìa đông bắc và tây nam tới 24km. Ở phía tây 
bắc, bề mặt Moho chìm sâu tới 30-32km. Mặt
móng kết tinh có độ sâu thay đổi từ 3km đến 9km 
tạo thành một máng lõm kéo dài theo phương tây 
bắc - đông nam - phương cấu trúc chủ đạo của khu 
vực nghiên cứu. 
- Đới nâng tương đối Tây Nam: phía đông nam 
độ sâu mặt Moho thay đổi không lớn (24-26km), 
nhưng ở phía tây nam độ sâu có thể đạt tới 32km. 
Mặt móng kết tinh trong đới này dao động khá 
phức tạp từ lộ trên mặt đến độ sâu khoảng 4 km. 
Phần đông nam, bề mặt móng kết tinh bị chìm 
xuống tạo thành máng lõm kéo dài theo phương tây 
bắc - đông nam. 
- Các thông số về mật độ và vận tốc truyền 
sóng trong mỗi lớp của từng đới cấu trúc được 
chúng tôi tham khảo từ các công trình đã công bố 
trước đây của Cao Đình Triều [4], Trần Văn Thắng 
[5]; Lê Tử Sơn [12, 13] về đới cấu trúc trũng Hà 
Nội. Các thông số được thể hiện ở bảng 3. 
 205
Hình 5. Sơ đồ các đới cấu trúc chính khu vực Hà Nội và lân cận 
Bảng 3. Các thông số về mật độ và vận tốc sóng dọc 
và sóng ngang trong từng đới cấu trúc 
Đới cấu trúc Bề dày các lớp (km) 
Mật độ 
trung bình 
của lớp 
(ρ, g/cm3) 
(VP, km/s) (Vs=VP/ 3 , 
km/s) 
Đới Đông Bắc 
Lớp 1 1,0 2,50 4,80 2,77 
Lớp 2 4,0 2,87 5,36 3,09 
Lớp 3 11,0 3,15 6,10 3,53 
Lớp 4 12 3,30 8,00 4,62 
Đới trung tâm 
Lớp 1 4,0 1,89 4,20 2,43 
Lớp 2 4,0 2,86 5,36 3,09 
Lớp 3 11,0 3,15 6,10 3,53 
Lớp 4 9,0 3,30 8,0 4,62 
Đới Tây Nam 
Lớp 1 1,0 2,50 4,80 2,77 
Lớp 2 3,0 2,85 5,36 3,09 
Lớp 3 10,0 3,15 6,10 3,53 
Lớp 4 16,0 3,30 8,00 4,62 
4. Một số kết quả bước đầu nghiên cứu độ nguy 
hiểm động đất khu vực Hà Nội và lân cận trên 
cơ sở phương pháp tất định mới 
Trong bài báo này chúng tôi đã áp dụng phương 
pháp tất định mới trong đánh giá độ nguy hiểm động 
đất khu vực Hà Nội và lân cận. Các kết quả tính toán 
dịch chuyền nền cực đại (Dmax), vận tốc dịch 
chuyển nền cực đại (Vmax), gia tốc giao động nền 
cực đại (Amax) được xác định trên cơ sở số liệu 
động đất Việt Nam đến hết năm 2009 (có đề cập tới 
động đất lịch sử) và sử dụng bộ chương trình 
GNDT. Bộ chương trình GNDT (Gruppo Nazionale 
per la Difesa dai Terremoti) [15] được Camassi và 
Stucchi viết năm 1996 sau đó đựơc phát triển và cập 
nhật bởi các nhà khoa học thuộc khoa Địa chất 
trường Đại học Trieste, Italia. Bộ chương trình này 
đã được thử nghiệm tính toán độ nguy hiểm động 
đất cho một số thành phố lớn trên thế giới và cho kết 
quả được các chuyên gia trong ngành đánh giá cao. 
Các kết quả tính toán cho khu vực Hà Nội và lân cận 
được biểu diễn trên hình 6, 7, 8. 
 206
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
Viet Tri Vinh Yen
Thai Nguyen
Bac Giang
Bac Ninh
Ha Noi
Hung Yen
Phu Ly
Hoa Binh
Hai Duong
3 cm
4 cm
5 cm
6 cm
7 cm
8 cm
9 cm
10 cm
Hình 6. Sơ đồ thành phần dịch chuyển nằm ngang (Dmax) khu vực Hà Nội và lân cận 
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
Viet Tri Vinh Yen
Thai Nguyen
Bac Giang
Bac Ninh
Ha Noi
Hung Yen
Phu Ly
Hoa Binh
Hai Duong
8 cm/s
10 cm/s
12 cm/s
14 cm/s
16 cm/s
18 cm/s
20 cm/s
22 cm/s
24 cm/s
26 cm/s
28 cm/s
Hình 7. Sơ đồ thành phần vận tốc nằm ngang (Vmax) khu vực Hà Nội và lân cận 
 207
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
105 105.2 105.4 105.6 105.8 106 106.2
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
20.6
20.8
21
21.2
21.4
21.6
Viet Tri Vinh Yen
Thai Nguyen
Bac Giang
Bac Ninh
Ha Noi
Hung Yen
Phu Ly
Hoa Binh
Hai Duong
0.03 g
0.04 g
0.05 g
0.06 g
0.07 g
0.08 g
0.09 g
0.10 g
0.11 g
Hình 8. Gia tốc giao động nền cực đại (Amax) khu vực Hà Nội và lân cận 
Kết quả tính toán thành phần dịch chuyển nằm 
ngang (hình 6) cho thấy dịch chuyển tối đa của khu 
vực Hà Nội và lân cận có thể đạt tới 10cm ở khu 
vực đới cấu trúc Đông Bắc (khu vực Bắc Giang, 
Thái Nguyên, Hải Dương, Bắc Ninh). Ở đới trung 
tâm khu vực Hà Nội dịch chuyển nằm ngang có giá 
trị từ 6 đến 9cm. Ở đới Tây Nam dịch chuyển nằm 
ngang thấp hơn so với hai đới còn lại, dịch chuyển 
chỉ đạt từ 4 đến 6cm. 
Vận tốc dịch chuyển Vmax có thể đạt tới 
28cm/s thuộc đới cấu trúc Đông Bắc (khu vực Bắc 
Giang, Thái Nguyên, Hải Dương, Bắc Ninh) (hình 
7). Đới cấu trúc trung tâm có vận tốc dịch chuyển 
thay đổi từ 18 đến 26cm/s. Đới Tây Nam có vận 
tốc dịch chuyển thay đổi từ 10 đến 18cm/s. 
Kết quả tính toán gia tốc dao động nền cực đại 
(Amax) được trình bày trong hình 8 cho thấy: gia 
tốc giao động nền cực đại (Amax) khu vực nghiên 
cứu có giá trị từ 0,04 đến 0,11g (1g=980cm/s2). Giá 
trị gia tốc lớn hơn 0,1g gần như bao phủ toàn bộ đới 
cấu trúc Đông Bắc. Tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc 
Ninh, Thái Nguyên giá trị Amax có thể đạt tới 
0,11g. Khu vực thành phố Hà Nội có giá trị từ 0,07g 
đến 0,1g. Khu vực còn lại giá trị thay đổi từ 0,04g
đến 0,07g. Nhìn chung trong khu vực nghiên cứu giá 
trị gia tốc giao động nền thay đổi khá mạnh thể hiện 
rõ nét trên ba đới cấu trúc chính trong khu vực. 
5. Kết luận 
(i) Khu vực nghiên cứu được chia thành 5 vùng 
nguồn và 3 đới cấu trúc: 
- Các vùng nguồn bao gồm: vùng I với Mmax = 
5, vùng II với Mmax = 5, vùng III với Mmax = 5,3, 
vùng IV với Mmax = 5, vùng V với Mmax = 5,6. 
- Các đới cấu trúc bao gồm: đới nâng tương đối 
Đông Bắc, đới hạ Trung Tâm và đới nâng tương 
đối Tây Nam. 
(ii) Khu vực Hà Nội và lân cận phân bố dịch 
chuyển ngang (Dmax) thay đổi từ 4 đến 10cm, tăng 
dần từ phía tây nam lên phía đông bắc. 
(iii) Vận tốc dịch chuyển (Vmax) có giá trị thay 
đổi từ 10 đến 28cm/s. Ở khu vực Bắc Giang, Thái 
Nguyên, Hải Dương, Bắc Ninh có giá trị lớn nhất 
đạt tới 28cm/s. 
(iv) Gia tốc dao động nền cực đại (Amax) có 
giá trị từ 0,04 đến 0,11g (1g=980cm/s2). 
 208
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Giuliano F. Panza, Fabio Romanelli, Franco 
Vaccari, 2000: Seismic wave propagation in 
laterally heterogeneous anelastic media: theory and 
applications to seismic zonation, Trieste, pp. 122. 
[2] Peresan A., Cao Đình Triều, Mai Xuân 
Bách, Nguyễn Thế Hùng, Bùi Anh Nam, Nguyễn 
Xuân Bình, 2009: Hoạt động động đất ở Việt Nam. 
Tạp chí Địa chất, loạt A, Số 314 (9-10), Hà Nội, 
27-37. 
[3] Nguyễn Hồng Phương, 2003: Nghiên cứu 
đánh giá độ rủi ro động đất cho thành phố Hà Nội. 
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học Công 
nghệ cấp thành phố. 
[4] Nguyễn Hồng Phương, 2008: Những tiến 
bộ trong phương pháp luận đánh giá độ nguy hiểm 
động đất ở Việt Nam. Tuyển tập các công trình 
nghiên cứu Vật lý Địa cầu 2008, Hà Nội, tr. 70-86. 
[5] Trần Văn Thắng, 2009: Điều tra đặc điểm 
địa động lực hiện đại và các tai biến địa chất - môi 
trường khu vực đồng bằng Sông Hồng và ảnh 
hưởng của chúng tới hạ tầng cơ sở. Báo cáo tổng 
kết dự án kinh tế kỹ thuật về bảo vệ môi trường. 
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. 
[6] Cao Đình Triều, Lê Văn Dũng, Nguyễn 
Hữu Tuyên, 2000: Mô hình mật độ vỏ Trái Đất đới 
đứt gãy Sông Hồng trên phần đất liền lãnh thổ Việt 
Nam. Tc. Các KHvTĐ, T. 22, 4, Hà Nội, 347-354. 
[7] Cao Đình Triều, Đặng Thanh Hải, Mai 
Xuân Bách, Ngô Gia Thắng, 2003: Các đới đứt gãy 
hoạt động ở phần phía Bắc lãnh thổ Việt Nam. Tạp 
chí Địa chất, loạt A, Số 279 (11-12), Hà Nội, 8 -19. 
[8] Cao Đình Triều, Lê Văn Dũng, Cao Đình 
Trọng, 2007: Bước đầu áp dụng phương pháp tất 
định mới trong nghiên cứu tai biến động đất ở Việt 
Nam. Tc. Các KHvTĐ, T. 29, 4, Hà Nội, 333-341. 
[9] Cao Đình Triều, Lê Văn Dũng, Cao Đình 
Trọng, 2008: Áp dụng phương pháp tất định mới 
trong nghiên cứu tai biến động đất ở Việt Nam. 
Báo cáo khoa học Hội thảo Khoa học toàn 
quốc Tai biến địa chất và giải pháp phòng chống, 
Tp. Hà Nội, 31-43. 
[10] Cao Dinh Trieu, Panza G.F., Peresan A., 
Vaccari F., Romanelli F., Nguyen Huu Tuyen, 
Pham Nam Hung, Le Van Dung, Mai Xuan Bach, 
Thai Anh Tuan, Cao Dinh Trong, 2008: Seismic 
hazard assessment of Vietnam territory on the basis 
of deterministic approach. Journal of Geology, 
Series B, No. 31-32, p. 220-230. 
[11] Cao Đình Triều, Franko V., Nguyễn Hữu 
Tuyên, Nguyễn Thế Hùng, 2009: Nghiên cứu tai 
biến động đất ở Việt Nam trên cơ sở phương pháp 
tất định mới. Tạp chí Địa chất, loạt A, Số 314 (9-
10), Hà Nội, 56-62. 
[12] Lê Tử Sơn, 2000: Cở sở dữ liệu về đặc 
trưng giao động nền đất ở Hà Nội ứng với bản đồ 
phân vùng nhỏ động đất Hà Nội. Báo cáo tổng kết 
đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy định về áp dụng 
tính kháng chấn cho công trình xây dựng trên địa 
bàn Hà Nội” Chương trình nâng cao năng lực quản 
lý và xây dựng phát triển đô thị. Viện Kỹ thuật xây 
dựng Hà Nội. 
[13] Lê Tử Sơn, 2008: Nghiên cứu quy luật suy 
giảm sóng địa chấn và mặt cắt vận tốc nhằm nâng 
cao độ tin cậy trong dự báo thiên tai địa chấn. Báo 
cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học và phát 
triển Công nghệ cấp Viện KH&CNVN. 
[14] Nguyễn Đình Xuyên, 2005: Nghiên cứu 
dự báo động đất và dao động nền ở Việt Nam. Đề 
tài độc lập cấp Nhà nước. 
[15] University of Trieste, 2004: GNDT 
Deterministic Seismic Zoning Referce Guide 
(version 0.5.4). University of Trieste, pp.68. 
SUMMARY 
Seismic hazard assessment of Hanoi and adjacent areas on the basis of neodeterministic approach 
In this paper we would like to present some results of seismic hazard assessments in Hanoi and adjacent areas on 
the basis of Neodeterministic algorithm. 
1. Study area can be divided into 5 source zones and 3 structure zones. Source zones include: (I) with Mmax = 5, 
(II) with Mmax = 5, (III) with Mmax = 5.3, (IV) with Mmax = 5, (V) with Mmax = 5.6. Structure zones include: South - West 
relative raise zone, Central lower zone, North - East relative raise zone. 
2. The maximum average values of horizontal displacement component (Dmax) changes 4-10cm from South - 
Western to North - Eastern. The velocity (Vmax) can reach 28 cm/s in North - East zone. The maximum average values 
of Acceleration (A) can reach: 0.04g < A < 0.11g. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_do_nguy_hiem_dong_dat_khu_vuc_thanh_pho_ha_noi_va_l.pdf