Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng
Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản lượng
cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với người dân địa phương, đặc biệt là với
những người khai thác thủy sản và cư dân vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, các chương trình nghiên
cứu trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các
báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới
được tiến hành ở một vài dự án phát triển và còn khá rời rạc. Vì vậy, để đánh giá biến động nguồn
lợi thủy sản nội địa thì việc thiết lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối tốt và khá phù
hợp với điều kiện về nhân lực và tài chính thực hiện. Quan trắc sản lượng khai thác cá hàng ngày
được thực hiện từ 10/2017-10/2018 tại 6 trạm thuộc 4 tỉnh với 2 loại hình ngư cụ lưới bén và lưới ba
màng được sử dụng bởi 18 hộ ngư dân khai thác thủy sản. Kết quả quan trắc sản lượng KTTS của
ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 trạm quan trắc là 117 loài cá, thuộc 38 họ và 14 bộ và ba loài
cá mới xuất hiện ngoài tự nhiên so với trước đây gồm cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus),
cá chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rô phi rằn (Oreochromis niloticus). Biến động giảm
sản lượng khai thác đối với ngư cụ lưới ba màng và biến động có xu hướng gia tăng sản lượng khai
thác của 2 nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Nhiệm vụ quan trắc cần bổ sung việc đo đạc chỉ tiêu
chất lượng nước như độ mặn tại các trạm quan trắc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng
76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG NGUỒN LỢI THUỶ SẢN NỘI ĐỊA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG BẰNG PHƯƠNG PHÁP QUAN TRẮC SẢN LƯỢNG Nguyễn Nguyễn Du1 TÓM TẮT Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản lượng cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với người dân địa phương, đặc biệt là với những người khai thác thủy sản và cư dân vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới được tiến hành ở một vài dự án phát triển và còn khá rời rạc. Vì vậy, để đánh giá biến động nguồn lợi thủy sản nội địa thì việc thiết lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối tốt và khá phù hợp với điều kiện về nhân lực và tài chính thực hiện. Quan trắc sản lượng khai thác cá hàng ngày được thực hiện từ 10/2017-10/2018 tại 6 trạm thuộc 4 tỉnh với 2 loại hình ngư cụ lưới bén và lưới ba màng được sử dụng bởi 18 hộ ngư dân khai thác thủy sản. Kết quả quan trắc sản lượng KTTS của ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 trạm quan trắc là 117 loài cá, thuộc 38 họ và 14 bộ và ba loài cá mới xuất hiện ngoài tự nhiên so với trước đây gồm cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus), cá chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rô phi rằn (Oreochromis niloticus). Biến động giảm sản lượng khai thác đối với ngư cụ lưới ba màng và biến động có xu hướng gia tăng sản lượng khai thác của 2 nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Nhiệm vụ quan trắc cần bổ sung việc đo đạc chỉ tiêu chất lượng nước như độ mặn tại các trạm quan trắc. Từ khóa: nguồn lợi thủy sản, đánh giá tác động, Đồng bằng sông Cửu Long, biến động. 1 Phòng Sinh thái nghề cá và tài nguyên thủy sinh vật, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II * Email: didzu72@yahoo.com I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản nội địa đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm và sinh kế cho hàng triệu cư dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đặc biệt là người dân nghèo phụ thuộc vào nguồn lợi này. ĐBSCL được biết đến như là trung tâm lớn nhất nước về sản xuất thủy sản (De Silva & Nguyen 2011; Phan & ctv., 2009). Chính vì vậy, thủy sản ở ĐBSCL đã giữ một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của ngành thủy sản Việt Nam suốt thời gian qua. Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản lượng cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với người dân địa phương, đặc biệt là với những người nghèo không có nghề nào khác ngoài KTTS và cư dân vùng sâu vùng xa ở ĐBSCL (Vũ Vi An & Phan Thanh Lâm, 2007; Phan & Vu, 2008; Vũ Vi An & ctv., 2014; Mai & Phan 2015). ĐBSCL là ngư trường trọng điểm và tiềm năng của cả nước, sản lượng KTTS nước ngọt vùng ĐBSCL chiếm 75% tổng sản lượng KTTS nước ngọt của cả nước. Điều đó cho thấy, ĐBSCL là một môi trường sống quan trọng cho các loài thuỷ sản vì được thiên nhiên ưu đãi như ngập lụt hàng năm làm tăng diện tích mặt nước (nơi cư trú, sinh trưởng và phát triển) và là nơi có nguồn thức ăn dồi dào và phong phú (Phan & Vu, 2008; Mai & Phan, 2015). Tầm quan trọng của ngành thủy sản đối với kinh tế cả nước ngày càng được khẳng định, trong đó nghề cá ĐBSCL giữ một vị trí rất quan trọng. Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới được tiến hành ở một vài dự án phát triển 77TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II và còn khá rời rạc. Vì vậy, đánh giá biến động nguồn lợi thủy sản nội địa thông qua việc thiết lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối tốt và khá phù hợp với điều kiện về nhân lực và tài chính thực hiện. Qua các nguồn số liệu thu thập và các phân tích đánh giá này thì các nhà quản lý sẽ tham khảo, xem xét và cân nhắc trong việc đề ra các giải pháp khai thác và quản lý nguồn lợi cho mục tiêu phát triển bền vững ở ĐBSCL. Do vậy, việc tiến hành “Đánh giá biến động nguồn lợi thủy sản nước ngọt vùng ĐBSCL bằng phương pháp quan trắc sản lượng khai thác” là thực sự cần thiết. II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Do nghiên cứu này thuộc về lĩnh vực hoạt động, vì vậy sử dụng những công cụ và phương pháp thu thập số liệu thông qua quan trắc. 2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Quan trắc biến động sản lượng KTTS nội địa Thiết kế sổ nhật ký ngư dân để quan trắc tất cả những thông tin liên quan như: thời gian khai thác, loại ngư cụ sử dụng, nơi khai thác, điều kiện thời tiết, chế độ thủy triều, thành phần loài, sản lượng khai thác, tiêu thụ sản lượng khai thác. Sáu điểm quan trắc được chọn để quan trắc sản lượng khai thác thủy sản, mỗi điểm quan trắc chọn 3 ngư dân để theo dõi các thông tin về KTTS của ngư dân vùng ĐBSCL (Hình 1). Tất cả các điểm quan trắc này cũng là các điểm quan trắc của Chương tr ... heo mùa vụ. Số lượng loài dao động từ 34 - 80 loài. Thành phần loài chiếm ưu thế nhất vào các tháng 5, 10, 12 và thấp nhất vào các tháng 8 và 9. Hình 6 80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bên cạnh đó, sản lượng khai thác cũng có sự biến động theo mùa vụ, dao động từ 5,47 – 16,15 kg/tháng. Sản lượng trung bình khai thác được cao nhất vào các tháng 10, 11, 12, 1 và thấp nhất vào các tháng 7, 8 và 9. Hình 7 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 S ố lo ài Tháng Hình 6: Biến động số loài theo mùa vụ 0.00 2.00 4.00 6.00 8.00 10.00 12.00 14.00 16.00 18.00 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 T ru n g b ìn h s ản lư ợ n g ( kg ) Tháng Hình 7: Biến động trung bình sản lượng khai thác theo mùa vụ Kết quả quan trắc đã chỉ ra có 4 nhóm cá hiện diện trong tất cả các trạm quan trắc. Thành phần loài thuộc nhóm cá trắng có số loài chiếm ưu thế nhất 79 loài so với các nhóm cá còn lại. Tiếp theo là nhóm cá nước lợ có 17 loài, kế đến là nhóm cá đen với 8 loài và thấp nhất là nhóm cá biển chỉ có 7 loài. Hình 8 81TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Ngoài ra, sản lượng khai thác trung bình cũng có sự khác biệt giữa các nhóm cá. Nhóm cá trắng vẫn chiếm ưu thế nhất về sản lượng trung bình 62,28 kg, kế đến là sản lượng của nhóm cá biển, nhóm cá nước lợ và thấp nhất là nhóm cá đen lần lượt có sản lượng 54,71 kg; 42,59 kg và 27,5 kg. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng S ố lo ài Nhóm cá Hình 8: Biến động thành phần loài giữa các nhóm cá 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng T ru n g b ìn h s ản lư ợ n g ( kg ) Nhóm cá Hình 9: Biến động sản lượng trung bình (kg) giữa các nhóm cá 3.2. Biến động thành phần loài và sản lượng khai thác qua các năm Kết quả quan trắc của 6 trạm từ năm 2016 - 2018 đã chỉ ra rằng có sự hiện diện của 191 loài cá, 51 họ và 17 bộ. Trong đó, năm 2017 có số bộ, số họ và số loài chiếm ưu thế nhất là 16 bộ, 49 họ và 177 loài, kế đến năm 2018 là 14 bộ, 38 họ và 117 loài và thấp nhất là năm 2016 chỉ với 6 bộ, 17 họ và 40 loài. Biến động cơ cấu thành phần loài cá qua các năm không thể hiện tính quy luật cụ thể và xu hướng nhất định. Hình 10 82 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Thành phần loài cá có sự khác nhau giữa các loại hình thủy vực, vùng sinh thái qua các năm quan trắc. Đặc biệt, năm 2017 có thành phần loài cá ở các loại hình thủy vực như kênh rạch, vùng ven biển, vùng ngập lụt, dòng chính và dòng nhánh đều chiếm ưu thế nhất so với các năm còn lại. Thành phần loài đa dạng ở vị trí thứ 2 vào năm 2018 và thấp nhất vào năm 2016. Biến động thành phần loài giữa các loại hình thủy vực, vùng sinh thái qua các năm không thể hiện được tính quy luật nhất định và xu thế rõ ràng. Hình 11 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 2016 2017 2018 S ố lư ợ n g Năm Số bộ Số họ Số loài Hình 10: Biến động cơ cấu thành phần loài qua các năm 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 2016 2017 2018 S ố lư ợ n g lo ài Năm Kênh rạch Ven biển Ngập lụt Dòng chính Dòng nhánh Hình 11: Biến động thành phần loài giữa các loại hình thủy vực qua các năm 83TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Tương tự, sự khác nhau về thành phần loài cũng được thể hiện qua loại hình ngư cụ sử dụng qua các năm. Một điều hiển nhiên thấy rằng, thành phần loài ở 2 loại ngư cụ sử dụng là lưới bén và lưới ba màng đều chiếm ưu thế ở năm 2017, ở các năm khác thì thấp hơn lần lượt theo thứ tự năm 2018 và năm 2016. Như vậy, biến động thành phần loài giữa các loại ngư cụ sử dụng qua các năm cũng không thể hiện được tính quy luật nhất định và xu thế rõ ràng. Hình 12. 0 20 40 60 80 100 120 140 2016 2017 2018 S ố lo ài Năm Lưới bén Lưới ba màng Hình 12: Biến động thành phần loài giữa các loại ngư cụ sử dụng qua các năm Tuy nhiên, sản lượng khai thác trung bình trên ngư cụ/100m2 lưới có sự biến động giảm tương đối rõ ràng ở loại hình ngư cụ lưới 3 màng qua các năm. Lưới ba màng đánh bắt có chiều hướng giảm rõ rệt từ năm 2016 đến năm 2017 và năm 2018 lần lượt là 7,47kg/100m2 lưới; 5,35kg/100m2 lưới và 3,31kg/100m2 lưới. Hình 13. 0.00 1.00 2.00 3.00 4.00 5.00 6.00 7.00 8.00 2016 2017 2018 S ản lư ợ n g (k g )/1 00 m 2 lư ớ i Năm Lưới bén Lưới ba màng Hình 13: Biến động sản lượng khai thác giữa các loại ngư cụ sử dụng qua các năm 84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Biến động thành phần loài giữa các nhóm cá qua các năm không thể hiện rõ tính quy luật nhất định và xu hướng cụ thể. Đa dạng thành phần giữa các nhóm cá chiếm ưu thế vào năm 2017, kế đến là năm 2018 và thấp nhất vào năm 2016. Hình 14 0 20 40 60 80 100 120 2016 2017 2018 S ố lo ài Năm Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng Hình 14: Biến động thành phần loài giữa các nhóm cá qua các năm Một điều đáng quan tâm về biến động sản lượng khai thác giữa các nhóm cá qua các năm là có sự gia tăng rõ ràng ở 2 nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Nhóm cá nước lợ gia tăng về sản lượng khai thác từ 8,33 kg (2016) đến 31,48 kg (2017) và 42,59 kg (2018). Nhóm cá biển gia tăng sản lượng khai thác từ 6,5 kg (2016) đến 40,75 kg (2017) và 54,71 kg (2018). Trong khi đó, các nhóm cá khác biến động sản lượng khai thác không theo quy luật nhất định. Điều này cho thấy rằng, có sự di cư của nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển vào vùng nội địa, có thể nguyên do sự xâm nhập mặn từ vùng cửa sông vào vùng nội địa. Hình 15 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 2016 2017 2018 sả n lư ợ n g (k g ) Năm Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng Hình 15: Biến động sản lượng trung bình (kg) giữa các nhóm cá qua các năm 85TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Đáng chú ý, thành phần loài cá ngoại lai chiếm 6,03% tổng số loài và gần 0,55% trong tổng số lượng cá thể khai thác của ngư dân, số lượng này chủ yếu tập trung ở kênh rạch, dòng chính và vùng ngập lụt, trong khi đó ở vùng ven biển thì không bắt gặp được cá ngoại lai. Bảng 1: Số lượng cá thể loài ngoại lai đánh bắt được theo năm STT Tên khoa học Tên địa phương Năm 2016 2017 2018 1 Cyprinus carpio Cá chép 201 12 2 Labeo rohita Cá trôi ấn 1 3 Oreochromis niloticus Cá rô phi rằn 61 1359 469 4 Hypophthalmichthys nobilis Cá mè hoa 7 5 Hypophthalmichthys molitrix Cá mè trắng 1 1 6 Clarias gariepinus Cá trê phi 9 35 10 7 Piaractus brachypomus Cá chim trắng 1 18 16 8 Ctenopharyngodon idella Cá trắm cỏ 3 1 9 Pterygoplichthys disjunctivus Cá lau kiếng 236 1200 1183 10 Oreochromis mossambicus Cá rô phi thường 15 Tổng 307 2840 1692 Biến động số loài và số lượng cá thể các loài cá ngoại lai thể hiện ở Hình 16. Nhìn chung, số lượng loài và số lượng cá thể các loài ngoại lai có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Chú ý là trong nghiên cứu này ngư cụ sử dụng để quan trắc sản lượng KTTS là lưới bén và lưới ba màng, một số loại ngư cụ khác như dỡ chà thì sản lượng cá ngoại lai, đặc biệt là cá lau kiếng cao hơn rất nhiều. 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 0 2 4 6 8 10 12 2016 2017 2018 Số c á th ể Số lo ài Năm Số loài Số cá thể Hình 16: Biến động số lượng cá ngoại lai qua các năm 86 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Đáng chú ý đã xác định được 10 loài cá ngoại lai trong thời gian nghiên cứu, trong đó sản lượng cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) chiếm tỷ lệ cao nhất với gần 1%, các loài loại lai khác chiếm tỷ lệ khá thấp dưới 0,3% (Hình 17). 0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 Cá chép Cá trôi ấn Cá rô phi rằn Cá mè hoa Cá mè trắng Cá trê phi Cá chim trắng Cá trắm cỏ Cá lau kiếng Cá rô phi thường S ố cá th ể 2016 2017 2018 Hình 17: Biến động số lượng cá ngoại lai trong mẻ khai thác IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1. Kết luận - Quan trắc sản lượng KTTS qua 3 năm của ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 trạm quan trắc là 191 loài cá, thuộc 51 họ và 15 bộ; trong đó năm 2018 có 117 loài cá phân bố ở 5 vùng sinh thái khác nhau, số lượng loài cao nhất thuộc về dòng chính với 59 loài, kế đến là vùng ngập lụt với 48 loài, vùng ven biển với 38 loài, kênh, rạch với 22 loài, và thấp nhất với 12 loài ở dòng nhánh. - Thành phần loài cá ngoại lai chiếm 6,03% tổng số loài và gần 0,55% trong tổng số lượng cá thể khai thác của ngư dân, số lượng này chủ yếu tập trung ở kênh rạch, dòng chính và vùng ngập lụt, trong khi đó ở vùng ven biển thì không bắt gặp được cá ngoại lai. - Biến động sản lượng gia tăng ở nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Biến động sản lượng khai thác giảm ở loại hình ngư cụ lưới ba màng. 4.2. Đề xuất - Tiếp tục nghiên cứu quan trắc thành phần loài và sản lượng khai thác ở các trạm đang thực hiện. - Cần bổ sung thêm đo đạc các chỉ tiêu về chất lượng nước tại các trạm quan trắc như độ mặn, tốc độ dòng chảy và mức nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Mai Đình Yên & Nguyễn Văn Trọng, 1995. Định loại cá nước ngọt ở miền Nam Việt Nam. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, Tp. Hồ Chí Minh. Nguyễn Nguyễn Du, Claire Smallwood, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Trinh và Nguyễn Trọng Tín, 2006. Bộ sưu tập ngư cụ nội địa vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Lao Động. Tp. Hồ Chí Minh. Phan Thanh Lâm, Đoàn Văn Bảy, Nguyễn Nguyễn 87TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Du, Nguyễn Tiến Đức, 2015. Đánh giá tác động tới KTXH từ việc suy giảm nguồn lợi thuỷ sản tại vùng ĐBSCL. Báo cáo trình bày tại Hội thảo tổng kết năm 2015 của Chương trình Thủy sản, Ủy hội sông Mê kong Việt Nam, Tp.Hồ Chí Minh. Tài liệu tiếng Anh Nguyen, D.N., Vu, A.V., Nguyen, P.V., 2014. Monitoring of fish larvae drift and juvenile in the Mekong and Bassac River, Viet Nam. RIA2/ MRC/VNMC. Ho Chi Minh. Tran, D.D., K. Shibukawa, P.T. Nguyen, H.P. Ha, L.X. Sinh, H.V. Mai and Utsugi (2013) Fishes of the Mekong Delta, Vietnam. Can Tho University Publishing House, Can Tho. Vu, A. V., & Phan, L. T., 2008. Inland Fisheries and Aquaculture in the Mekong Delta: A Review. FV project, Technical report, Research Institute for Aquaculture No.2, Ho Chi Minh. Vu, A.V., & Doan, T.V., 2014. Fish abundance and diversity monitoring in the Mekong Delta. RIA2/ MRC/VNMC. Ho Chi Minh. 88 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ASSESSMENT OF INLAND FISHERIES RESOURCES BY USING CATCH MONITORING METHOD IN THE MEKONG RIVER DELTA Nguyen Nguyen Du1* ABSTRACT Inland fishing in the Mekong River Delta (MKD) does not contribute a large of fisheries production of the whole region, but plays an important role for local people, especially for fishermen and people in remote areas. However, the previous research programs on fisheries in the MKD focused mainly on solving specific problems, reports fisheries statistics synthesizing and systematize the basis of the profession has only been conducted in a few development projects and was quite sporadic. Therefore, to assess the fluctuation of inland fisheries resources, the establishment of monitoring stations is a relatively good approach and quite suitable conditions for human and financial implementations. Daily fisheries catch monitoring was conducted from 10/2017 to 10/2018 at 6 stations in 4 provinces with 2 types of fishing gears used (gill net and trammel net) by 18 fishing households. Results of fisheries monitoring at 6 stations showed that fish composition was with 117 species, 38 families and 14 orders, and three new species appearing in the wild compared to previously included Pterygoplichthys disjunctivus, Piaractus brachypomus and Oreochromis niloticus. Variation of fish catch by trammel net is trending decline and however there are trending increase fish catch from two groups of estuarine and marine fishes. The duty of fish monitoring in next time needs to measure salinity water character at monitor sites. Keywords: fisheries resources, impact assessment, Mekong River Delta, variation Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng Ngày nhận bài: 05/12/2018 Ngày thông qua phản biện: 25/12/2018 Ngày duyệt đăng: 31/12/2018 1 Fisheries Ecological and Aquatic Resources Division, Research institute for Aquaculture No.2 * Email: didzu72@yahoo.com
File đính kèm:
- danh_gia_bien_dong_nguon_loi_thuy_san_noi_dia_vung_dong_bang.pdf