Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và sự giao lưu, tiếp biến trong các quan hệ tộc người
Văn hóa vùng Tây Nam Bộ là bộ phận hợp thành văn hóa dân tộc. Nó là cốt cách, tâm hồn, lý trí,
tình cảm, sức mạnh và là chất keo kết nối các cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông nước. Các
cộng đồng cư dân này đã gắn bó, đoàn kết với nhau suốt hơn ba thế kỷ qua để cùng tồn tại và phát
triển. Trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, tuy có sự giao thoa và tiếp biến của nhiều
vùng văn hóa khác nhau, theo đó văn hóa vùng Tây Nam Bộ nói chung, văn hóa cộng đồng, văn hóa
gia đình nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng, từ đó biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nhưng
nét đặc trưng văn hóa sông nước - văn hóa miệt vườn và văn hóa dung hợp của nhiều tộc người vẫn
không bị mất đi, trái lại, còn được bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện và sâu sắc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và sự giao lưu, tiếp biến trong các quan hệ tộc người
Số 21 - Tháng 9 - 201734 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 1. Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ Tây Nam Bộ hay còn gọi là Đồng bằng sông Cửu Long, hiện nay gồm 13 tỉnh và thành phố, chiếm hơn 18% dân số và 21% diện tích của cả nước. Nơi đây trước kia là vùng đất mới nổi, hoang vắng, trũng thấp, rất nhiều đầm lầy, kênh rạch chằng chịt, sông ngòi dày đặc, nhiều phù sa do dòng sông Mê Kông cung cấp. Chính nhờ vậy, đồng ruộng nơi đây màu mỡ, cây trái tốt tươi, trĩu quả. Và cũng chính đặc điểm tự nhiên này đã hình thành nên văn hóa sông nước - văn hóa miệt vườn. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VÙNG TÂY NAM BỘ VÀ SỰ GIAO LƯU, TIẾP BIẾN TRONG CÁC QUAN HỆ TỘC NGƯỜI NGUYỄN VĂN CHUỘNG Tóm tắt Văn hóa vùng Tây Nam Bộ là bộ phận hợp thành văn hóa dân tộc. Nó là cốt cách, tâm hồn, lý trí, tình cảm, sức mạnh và là chất keo kết nối các cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông nước. Các cộng đồng cư dân này đã gắn bó, đoàn kết với nhau suốt hơn ba thế kỷ qua để cùng tồn tại và phát triển. Trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, tuy có sự giao thoa và tiếp biến của nhiều vùng văn hóa khác nhau, theo đó văn hóa vùng Tây Nam Bộ nói chung, văn hóa cộng đồng, văn hóa gia đình nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng, từ đó biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nhưng nét đặc trưng văn hóa sông nước - văn hóa miệt vườn và văn hóa dung hợp của nhiều tộc người vẫn không bị mất đi, trái lại, còn được bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện và sâu sắc. Từ khóa: Văn hóa vùng Tây Nam Bộ, giao lưu, tiếp biến Abstract The South West culture is a component of national culture. It is the core, the soul, the rational, the emotional, the strength and the glue that connects the communities of the delta. These communities have been sticking together for more than three centuries to co-exist and develop. In the process of national renovation and international integration, despite the interference and continuity of different cultural areas, the South West culture in general and community culture, family culture in particular have been under influence so that they have been changed both in the positive and the negative trends. However, the cultural characteristics of the water area - the culture of the garden and the culture of the various races have not been lost, they are developed and adjusted to be more complete and deep. Keywords: South West culture, exchange, change 35Số 21 - Tháng 9 - 2017 VĂN HÓA DÂN GIAN - TRUYỀN THỐNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Người dân Nam Bộ nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng chủ yếu là dân di cư từ miền Bắc, miền Trung, thậm chí cả người Hoa đến đây khai phá đất hoang, sinh cơ lập nghiệp. Đến với vùng đất Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ chức quần cư thành làng, ấp. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức tổ chức, làng, ấp của người Việt Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Về nội dung, làng, ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều vùng miền khác nhau, nhiều họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng, ấp cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến người đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ cư. Về hình thức tổ chức, để tiện cho việc đi lại, làng, ấp ở Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ tre làng đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng của làng, ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Dân cư vùng Tây Nam Bộ gồm người Việt, Khmer, Hoa, Chăm, trong đó có người theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Hồi, Đặc biệt, ở Nam Bộ còn xuất hiện thêm những phong trào tôn giáo cứu thế, những nhà tiên tri, những ông đạo, như: đạo Dừa, đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo Câm, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và cả những người không theo tôn giáo nào. Do vậy, Tây Nam Bộ là vùng đa tộc người, đa tôn giáo nhưng lại kết cấu trên cơ sở tinh thần bao dung, hoà hợp, đồng nguyên. Có thể nói, Tây Nam Bộ là vùng văn hóa dung hợp của nhiều tộc người, trong đó văn hoá Việt là nền tảng, chi phối, ảnh hưởng lớn nhất. Có thể nói, văn hóa vùng Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long) là sản phẩm tổng hợp của ba nhân tố chính: Truyền thống văn hóa dân tộc, sự tiếp biến văn hóa, bối cảnh tự nhiên - xã hội Tây Nam Bộ. Ba nhân tố này tạo thành một hệ tọa độ, hình thành hai đặc trưng văn hoá cơ bản của vùng Tây Nam Bộ là: Đặc trưng đồng bằng sông nước (văn hóa sông nước, văn hóa miệt vườn) và sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của người Chăm, người Khmer, người Hoa vào văn hoá Việt trong vùng (văn hóa dung hợp hay hỗn dung văn hóa). Xét về mức độ, hai yếu tố này là hai nét nổi trội của văn hoá vùng Tây Nam Bộ, bởi vì, yếu tố sông nước, thực ra, cũng có mặt trong các vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng chỉ ở Đồng bằng sông Cửu Long mới nổi lên thành một đặc trưng chủ đạo, chi phối toàn diện cuộc sống cũng như các thành tố văn hoá khác của các cộng đồng dân cư. Và mặc dù các vùng văn hoá đồng bằng ở Bắc Bộ và Trung Bộ cũng đều có sự tiếp biến văn hoá của các tộc người khác nhau, nhưng chỉ ở Đồng bằng sông Cửu Long, nét văn hoá các tộc người thiểu số cộng cư mới đủ sức giao thoa với văn hoá của cư dân Việt trong vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa quen thuộc vừa mới lạ đối với chính người Việt đến từ miền Bắc, miền Trung. Về đặc trưng văn hóa sông nước - văn hóa miệt vườn: Tây Nam Bộ là vùng đất trũng thấp, có nhiều kênh rạch, sông ngòi chằng chịt, cùng với nó là những chiếc ghe, chiếc xuồng. Hình ảnh này gắn liền với đời sống hằng ngày của người dân nơi đây. Có thể nói chiếc ghe, chiếc xuồng là phương tiện để truyền tải văn hóa dân gian đi khắp nơi. Trải qua quá trình phát triển, hình ảnh đó ngày càng được tôn vinh, gìn giữ, tạo nên sắc thái văn hóa riêng, đặc sắc của vùng sông nước. Chính vì thế, Chu Xuân Diên mới có nhận định “Cũng thuộc nền văn minh lúa nước nhưng Nam Bộ còn là xứ sở của văn minh kênh rạch với những biểu hiện rất phong phú trong phương thức canh tác, trong nhịp điệu làm ăn, trong giao thông, trong tín Số 21 - Tháng 9 - 201736 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ngưỡng, phong tục tập quán, trong ngôn ngữ và văn học nghệ thuật” (1, tr.171-172). Có thể nói thêm rằng, ở vùng sông nước, do kênh rạch chằng chịt nên con người đi lại, chuyên chở chủ yếu bằng ghe, xuồng, chèo chống theo con nước, tiện đâu đi đó, không đi về theo một lối. Vả lại, làng ở vùng sông nước Cửu Long là nơi con người tứ phương tụ lại nên không khép mình trong một không gian chung đụng; thay vào đó, mỗi người có thể chọn cho mình một mảnh đất riêng bên hàng dừa, trong rặng trâm bầu, dưới tán mù u, hay cây giá, cây đước, cây bần, v.v nhưng vẫn giữ được quan hệ chòm xóm. Chính vì thế, người dân lập vườn, định cư, ban đầu thường chọn hai bên bờ kênh, rạch, sau đó tiến dần đến những trục lộ giao thông. Sở dĩ có sự lựa chọn hai bên bờ sông, kênh, rạch để lập vườn sinh sống như thế là vì phương tiện giao thông bằng ghe, xuồng rất thuận tiện và dễ mua sắm, thậm chí họ làm nhà trên ghe, xuồng. Hơn nữa, ở cạnh sông, rạch, nguồn cá, tôm sẵn có, tiện cho việc tìm thức ăn, sinh hoạt tắm giặt và nấu nướng. Có thể nói, miệt vườn là tiêu chuẩn mơ ước của nhiều người dân nơi đây. Theo Sơn Nam, “Miệt vườn là nơi sông nước chảy (thông lưu quán khái), hợp vệ sinh, nhiều phù sa, giao thông dễ dàng. Vì vậy mà con người không có óc địa phương, cực đoan. Phù sa ở lại, rác rến trôi” (3, tr. 339). Về đặc trưng văn hóa dung hợp (hỗn dung văn hóa): Vùng Tây Nam Bộ là nơi cư dân “tứ xứ” về sinh sống nên có nhiều tộc người, nhiều tôn giáo (thậm chí có tộc người, tôn giáo chỉ hiện hữu ở nơi đây mà không ở các vùng khác như tộc Khmer, đạo Cao Đài, Hòa Hảo). Do nhiều phong tục, tập quán và tín ngưỡng khác nhau cùng tồn tại nên Tây Nam Bộ là vùng giao thoa, tiếp biến văn hóa rất lớn, tạo thành đặc trưng văn hóa dung hợp. Theo Chu Xuân Diên, ở Nam Bộ “quá trình giao lưu văn hóa mau lẹ, dẫn đến những hiện tượng hỗn dung văn hóa phức tạp, thậm chí có tính chất pha tạp. Nguyên nhân là bản thân các lớp cư dân người Việt cũng có tính chất là những người tứ xứ, họ đến vùng đất mới với một tinh thần phóng khoáng, cởi mở, nên dễ dung hòa, dễ tiếp nhận những yếu tố văn hóa khác” (1, tr.172). Chính đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ làm cho con người nơi đây sống rất nghĩa khí, hòa hiệp, bao dung, năng động, sáng tạo, cởi mở, phóng khoáng, lạc quan, yêu đời, rất quý trọng tình nghĩa và mến khách. 2. Sự giao lưu và tiếp biến văn hoá vùng Tây Nam Bộ Không gian văn hoá vùng Tây Nam Bộ là phần mở rộng của không gian văn hoá Việt Nam trên một vùng đất mới mà ở đó, chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc người bản địa và các tộc người đến từ nơi khác. Vì vậy, trên vùng đất này, ngay từ đầu, văn hoá của cư dân Việt, mà trong đó đã có sẵn yếu tố Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân Khmer, Hoa. Trong suốt một thời gian dài, vùng đất này lại chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Từ năm 1975 đến nay, do điều kiện cuộc sống thay đổi, nơi đây cũng trở thành một địa bàn biến động mạnh mẽ về thành phần tộc người, không kém vùng miền Đông và Tây Nguyên. Vì vậy, Tây Nam Bộ cũng là một vùng đất mà giao lưu, tiếp biến văn hoá đã và đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Điểm khác biệt là hầu như không có một nền nếp, lối sống văn hoá nào đến nơi đây mà còn giữ nguyên chất thuần Việt, nó luôn có bóng dáng của những nền văn hoá khác đan xen, hội tụ, hòa quyện vào nhau trong hơn ba thế kỷ qua. Chính vì thế, có thể nói, giao thoa văn hoá chính là một trong những điểm khác biệt, nổi trội, là bản sắc của văn hoá Tây Nam Bộ. Điều đó làm cho văn hoá Tây Nam Bộ vừa tương đồng lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Tuy nhiên, nói như thế không có 37Số 21 - Tháng 9 - 2017 VĂN HÓA DÂN GIAN - TRUYỀN THỐNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nghĩa là văn hoá Tây Nam Bộ chỉ là con số cộng các luồng văn hoá đã hội tụ vì trong quá trình giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây không tiếp thu nguyên vẹn các nền văn hoá khác mà chỉ chọn lọc những yếu tố phù hợp, đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình để bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây không tự đánh mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá thu nạp được theo hướng làm cho nó thích ứng với nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới. Chính vì lẽ đó mà có thể nói, sự tái tạo các giá trị văn hoá cũng là một trong những nét đặc sắc của văn hoá nơi đây. Trong quá trình sinh sống và giao lưu văn hóa, do điều kiện môi trường tự nhiên và xã hội đặc thù (vùng đất mới, dân di cư, đa sắc tộc, đa tôn giáo) nên tất cả các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều buộc phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị không còn phù hợp, phát triển hoặc sáng tạo những giá trị mới giúp cho các cộng đồng dân cư có thể cùng tồn tại và phát triển. Vì vậy, sự uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung, dần dà đã trở thành nét bản sắc của văn hoá Việt ở Tây Nam Bộ. 3. Ảnh hưởng của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế đến phát triển văn hóa vùng Tây Nam Bộ hiện nay 3.1. Ảnh hưởng của quá trình đổi mới đất nước đến phát triển văn hóa vùng Tây Nam Bộ Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta xác định đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển hướng chiến lược này là một khâu đột phá về mặt tư duy chính trị nhằm giải phóng lực lượng sản xuất và mọi tiềm năng của xã hội. Chủ trương đó đã khơi dậy và thúc đẩy khả năng sáng tạo của người lao động, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có vùng Tây Nam Bộ. Theo đó, văn hóa Tây Nam Bộ nói chung, văn hóa cộng đồng và văn hóa gia đình nói riêng (từ nhận thức cho đến cách lao động sản xuất, tổ chức xã hội; cách ăn, mặc, ở, đi lại; cách vui chơi giải trí; tín ngưỡng, phong tục, lễ hội,) đều có nhiều biến đổi và phát triển. Sự chuyển biến rõ nét nhất là nền dân chủ trong xã hội và gia đình ngày càng phát triển, tạo cơ sở cho việc thiết lập các mối quan hệ xã hội và quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng tiến bộ hơn. Nền nếp, lối sống gia đình truyền thống theo kiểu mệnh lệnh, áp đặt một chiều, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đang từng bước được thay thế bằng phương pháp giáo dục hiện đại, mang tính dân chủ, cởi mở và bình đẳng hơn, tạo được sự đồng thuận và tiếng nói chung giữa các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với biết bao hệ lụy xã hội của nó đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển văn hóa vùng Tây Nam Bộ, nhất là văn hóa gia đình truyền thống. Sự canh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường khiến cho nhiều gia đình, vì cuộc sống phải bất chấp luân thường, đạo lý để làm giàu bất chính; tính cá nhân chủ nghĩa, vị kỷ theo đó cũng phát triển; mối quan hệ trong giao tiếp, sinh hoạt, học tập ngày càng bị thương mại hóa, dẫn đến con người lạnh lùng, vô cảm, nhất là lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi học đường. 3.2. Ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến phát triển văn hóa vùng Tây Nam Bộ Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nhân loại. Đây là một quá trình mở, với nhiều yếu tố tích cực, đồng thời cũng chứa đựng không ít những yếu tố tiêu cực. Nó đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến mọi mặt của đời sống gia đình và xã hội Việt Nam. Cả nước nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, về cơ bản hiện nay vẫn giữ được giá trị văn hóa cộng Số 21 - Tháng 9 - 201738 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đồng và văn hóa gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị văn hóa, lối sống hiện đại như: sự dân chủ, bình đẳng trong xã hội; sự bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái trong gia đình; sự tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng quyền lựa chọn các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sốngTuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức cho chính quyền và các bậc làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục lớp trẻ. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông, nhất là mạng Internet đánh dấu bước tiến lớn của nhân loại song cũng là điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập, làm thay đổi các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, gây ra những bất ổn về mặt tâm lý và sự lệch lạc về nhân cách, lối sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các vùng miền rất mạnh mẽ. Các yếu tố văn hóa tích cực cũng như tiêu cực lan tỏa rất nhanh chóng. Văn hóa Tây Nam Bộ không nằm ngoài vòng xoáy đó. Song có điều, để mỗi cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ không tự đánh mất văn hóa của mình mà qua giao lưu, còn bổ sung, phát triển thêm các giá trị văn hóa mới thì trước hết, các cơ quan hữu trách cần có chủ trương, giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người phù hợp với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, mỗi tộc người ở vùng đất Tây Nam Bộ phải biết tự bảo vệ, phải có bản lĩnh “độc lập văn hóa”; mặt khác, phải biết lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mẫu số chung để xây dựng và phát triển văn hóa cho tộc người mình. Có như vậy, thì hội nhập mới thành công và đất nước mới phát triển bền vững. N.V.C (NCS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng) Tài liệu tham khảo 1. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Vũ Minh Giang (2014), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Sơn Nam (2006), Đình miếu và Lễ hội dân gian miền Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 4. Phan Xuân Sơn và Chu Thị Thanh Huyền (2016), Vấn đề văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3. 5. Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ngày nhận bài: 15 - 6 - 2017 Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 9 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 30 - 9 - 2017
File đính kèm:
- dac_trung_van_hoa_vung_tay_nam_bo_va_su_giao_luu_tiep_bien_t.pdf